LUẬN VĂN:
Đầu tư phát triển theo hình thức B.O.T trong
nước tại Tổng công ty xây dựng Sông Đà : thực
trạng và giải pháp
Lời nói đầu
Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, chuyển đổi cơ chế
quản lý kinh tế từ kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng
trong mọi lĩnh vực. Nền kinh tế nước ta đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng và đạt tốc
độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liền.
Cùng với đường lối phát triển kinh tế đúng đắn, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều
chính sách kinh tế hợp lí nhằm khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh để làm giàu cho mình và cho xã hội.
Thực hiện chủ trương của Đảng, để hạn chế sức ép cho ngân sách nhà nước trong
việc đầu tư phát triển kinh tế, Chính phủ đã ban hành những văn bản pháp quy để khuyến
khích mọi thành phần kinh tế trong nước sử dụng vốn và năng lực quản lý sản xuất kinh
doanh của mình tham gia thực hiện các dự án phát triển cơ sở hạ tầng. Một trong những văn
bản quan trọng đó là Quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng B.O.T (Xây dựng - Kinh
doanh - Chuyển giao) áp dụng cho đầu tư trong nước. Hình thức đầu tư B.O.T là hình thức
đầu tư quen thuộc đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhưng đối với các nhà đầu tư nước ta,
đây là hình thức đầu tư mới và vẫn còn rất nhiều những vướng mắc liên quan đến hình thức
đầu tư này.
Là một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực xây dựng thuỷ điện ở nước ta, Tổng
công ty xây dựng Sông Đà đã xây dựng nhiều công trình thuỷ điện lớn của đất nuớc như
thuỷ điện Thác Bà, thuỷ điện Hoà Bình, thuỷ điện Yaly...Thực hiện chủ trương, đường lối
khuyến khích đầu tư trong nước của Đảng và Nhà nước, đồng thời mở ra một hướng đi mới
cho mình, trên cơ sở năng lực cũng như kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng thuỷ điện,
Tổng công ty Xây dựng Sông Đà đã lập dự án trình Chính phủ xin phép đầu tư xây dựng
nhà máy thuỷ điện Cần Đơn theo hình thức đầu tư B.O.T trong nước vào năm 1998. Dự án
đã được Chính phủ phê duyệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cấp giấy phép đầu tư xây dựng
theo hình thức đầu tư B.O.T trong nước, Tổng công ty Xây dựng Sông Đà đã trở thành
doanh nghiệp trong nước đầu tiên được cấp phép đầu tư xây dựng một nhà máy thuỷ điện
theo hình thức đầu tư B.O.T trong nước. Song song với việc thực hiện dự án Cần Đơn,
Tổng công ty Xây dựng Sông Đà cũng đang lập hồ sơ xin phép xây dựng một số thuỷ điện
khác theo hình thức đầu tư B.O.T trong nước như thuỷ điện Nà Lơi (Lai Châu), thuỷ điện
Ry Ninh II (Gia Lai)...Qua nghiên cứu, tìm hiểu tình hình thực hiện các dự án B.O.T tại
Tổng công ty Xây dựng Sông Đà trong thời gian thực tập, em đã chọn đề tài :
“ Đầu tư phát triển theo hình thức B.O.T trong nước tại Tổng công ty xây dựng
Sông Đà : thực trạng và giải pháp".
Việc phát triển hình thức đầu tư B.O.T trong nước không những chỉ có ý nghĩa đối
với Tổng công ty Xây dựng Sông Đà mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc phát
triển kinh tế của nước ta. Vì vậy, trong chuyên đề, này em xin làm rõ một số vấn đề lí luận
về đầu tư phát triển và đầu tư theo hình thức hợp đồng B.O.T trong nước, phản ánh thực
trạng triển khai các dự án B.O.T tại Tổng công ty xây dựng Sông Đà, qua đó đề xuất một số
giải pháp để việc thực hiện các dự án thuỷ điện B.O.T trong nước ở Tổng công ty Xây dựng
Sông Đà diễn ra nhanh hơn và có hiệu quả hơn.
Nội dung chính của đề tài gồm 3 chương :
Chương I
: Những vấn đề lí luận về đầu tư phát triển và đầu tư theo hình thức
hợp đồng B.O.T trong nước.
Chương II : Thực trạng các dự án thuỷ điện đầu tư theo hình thức B.O.T trong
nước tại Tổng công ty Xây dựng Sông Đà.
Chương III : Một số giải pháp thúc đẩy việc thực hiện các dự án thuỷ điện đầu tư
theo hình thức đầu B.O.T trong nước tại Tổng công ty Xây dựng Sông Đà.
Chương I
những vấn đề lí luận về đầu tư phát triển và đầu tư theo hình thức hợp đồng b.o.t
trong nước.
I. Khái niệm và bản chất của đầu tư.
1. Khái niệm chung :
Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại ( tiền, sức lao động, của cải vật chất...)
nhằm đạt được những kết quả có lợi hơn cho người đầu tư trong tương lai.
Trên góc độ tài chính, có thể định nghĩa : đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để
chủ đầu tư nhận về một chuỗi dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.
Trên góc độ tiêu dùng, đầu tư là một hình thức hạn chế hoặc hy sinh tiêu dùng hiện tại để
thu về một mức tiêu dùng lớn hơn trong tương lai.
2. Bản chất của các loại đầu tư.
Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do hoạt động đầu tư đem lại, chúng ta có thể
phân biệt các loại đầu tư như sau:
2.1.
Đầu tư tài chính ( đầu tư tài sản tài chính).
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để cho vay hoặc mua các chứng chỉ
có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng, mua trái phiếu...) hoặc
lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành ( mua
cổ phiếu...).
Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến
quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức hay
cá nhân đầu tư.
Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển
dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiền tiết kiệm, chuyển nhượng trái
phiếu, cổ phiếu cho người khác...). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ tiền ra để đầu tư.
Để giảm mức độ rủi ro, họ có thể phân tán vốn đầu tư vào nhiều nơi. Đây là một nguồn
cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
2.2. Đầu tư thương mại:
Là hoạt động đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán
với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này
cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương) mà chỉ làm
tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở
hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy
nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu
tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ
vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và cho nền sản xuất xã hội nói
chung.
2.3. Đầu tư tài sản vật chất :
Là những hoạt động chi dùng vốn để mua sắm những tài sản vật chất (máy móc, thiết
bị, tài sản lưu động ...), làm tăng năng lực sản xuất kinh doanh và các hoạt động xã hội
khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của các thành viên trong xã
hội.
Loại đầu tư này được gọi chung là đầu tư phát triển.
II.
Đầu tư phát triển.
1. Khái niệm.
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, lao
động, trí tuệ... để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và
lắp đặt trên nền bệ, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn
liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì năng lực hoạt động của các cơ sở
đang tồn tại và tạo năng lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống
của các thành viên trong xã hội.
Đầu tư phát triển là một bộ phận cơ bản của đầu tư, là quá trình chuyển hoá vốn bằng
tiền thành vốn hiện vật, là quá trình chi dùng vốn nhằm tạo ra những yếu tố cơ bản của sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
2. Đặc điểm của đầu tư phát triển.
-
Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và nằm khê đọng trong
suốt quá trình thực hiện đầu tư.
-
Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của
nó phát huy tác dụng thường kéo dài, trong khoảng thời gian đó thường có nhiều biến động
xảy ra.
-
Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra với các cơ
sở vật chất kĩ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh kéo dài và do đó không tránh khỏi sự tác
động của hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội,
chính trị, kinh tế...
-
Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài, nhiều khi là vĩnh viễn.
-
Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt
động ngay tại nơi mà nó đươc tạo dựng nên. Do đó, các yếu tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội
có những ảnh hưởng to lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác động đến quá trình
vận hành sau này của các kết quả đầu tư.
- Hoạt động đầu tư luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Do đó, cần phải nhận dạng và đánh giá
sự tác động của các yếu tố rủi ro, từ đó có kế hoạch phòng ngừa và đối phó với các loại rủi
ro có thể ảnh hưởng tới dự án đầu tư.
3. Phân loại các hoạt động đầu tư.
Trong công tác quản lí và kế hoạch hoá các hoạt động đầu tư, người ta phân
loại hoạt động đầu tư theo các tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại đáp ứng những
nhu cầu quản lí và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Những tiêu thức phân loại thường được sử
dụng là :
3.1.
Phân loại theo bản chất của các đối tượng đầu tư :
Theo tiêu thức này, các hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư cho các đối
tượng vật chất ( nhà xưởng, công trình, máy móc, thiết bị...) , đầu tư cho các đối tượng tài
chính ( các tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, các loại chứng khoán khác...) và đầu tư
cho các đối tượng phi vật chất ( đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên
cứu khoa học, y tế...).
Trong các loại đầu tư trên, đầu tư đối tượng vật chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm
tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài chính là điều kiện quan trọng để thu hút vốn đầu tư
từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư các đối tượng vật chất, còn đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn
nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận
lợi và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao.
3.2. Phân loại theo cơ cấu tái sản xuất.
Hoạt động đầu tư được phân loại thành đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Trong đó
đầu tư theo chiều rộng là hình thức đầu tư nhằm gia tăng về qui mô, số lượng các cơ sở kinh
tế, xã hội..., hoạt động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn, nằm khê đọng lâu, thời gian thực hiện
đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn dài, tính chất kĩ thuật phức tạp, độ mạo
hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều sâu không tập trung vào việc gia tăng quy mô, số lượng,
mà tập trung vào việc nâng cao trình độ, mức độ hiện đại của các đối tượng đầu tư.
Đầu tư theo chiều sâu không đòi hỏi vốn lớn như đầu tư theo chiều rộng, thời gian thực
hiện không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
3.3. Theo phân cấp quản lí.
Quy chế quản lí đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định số 52/ 1999/ NĐ- CP
ngày 8/7/1999 của Chính phủ phân thành 3 nhóm A, B, C tuỳ theo tính chất và quy mô của
dự án. Trong đó dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định , dự án nhóm B, C do
Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân Tỉnh,
Thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
3.4. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư.
Theo tiêu thức này, người ta phân chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và xã
hội... Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Đầu tư phát triển khoa học kĩ
thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả
cao, còn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đến lượt mình lại tiềm lực cho đầu tư phát
triển khoa học kĩ thuật, cơ sở hạ tầng và các hoạt động đầu tư khác phát triển.
3.5. Phân loại theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư.
Các hoạt động đầu tư được phân chia thành:
-
Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định.
-
Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy trì sự hoạt
động của các cơ sở vật chất, kĩ thuật.
Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả
của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư vận hành thì kết quả của đầu tư cơ
bản không hoạt động được, không có đầu tư cơ bản thì đầu tư cơ bản không có đối tượng
phục vụ.
Đầu tư vận hành chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, đặc đIểm kĩ thuật của quá
trình thực hiện đầu tư không phức tạp. Đầu tư vận hành cho các cơ sở sản xuất kinh doanh
có thể thu hồi vốn nhanh sau khi đưa các kết quả đầu tư vào hoạt động.
3.6. Phân loại theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản
xuất xã hội.
Theo cách phân loại này, hoạt động đầu tư phát triển được phân loại thành đầu tư thương
mại và đầu tư sản xuất. Đầu tư thương mại có thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của
các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, vốn vận động nhanh, độ mạo hiểm thấp do
trong thời gian ngắn, tính bất định không cao. Đầu tư sản xuất đòi hỏi thời gian dài, vốn đầu
tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, độ mạo hiểm cao, phải chịu tác động của nhiều yếu tố
bất định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được (dự báo cung
cầu, giá cả đầu vào và đầu ra, cơ chế chính sách, sự phát triển khoa học kĩ thuật, thiên tai...)
Trong thực tế, người có tiền đầu tư thích bỏ vào lĩnh vực kinh doanh thương mại. Tuy
nhiên, trên giác độ nền kinh tế, loại hoạt động đầu tư này không tạo ra của cải vật chất một
cách trực tiếp, những giá trị gia tăng do hoạt động đầu tư này đem lại chỉ là sự phân phối lại
thu nhập giữa các ngành, địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội.
3.7. Phân loại theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn bỏ ra của
các kết quả đầu tư.
Có thể phân chia hoạt động đầu tư thành đầu tư ngắn hạn (như đâù tư thương mại), đầu
tư trung hạn và đầu tư dài hạn (các lĩnh vực đầu tư sản xuất, đầu tư phát triển khoa học kĩ
thuật, cơ sở hạ tầng...).
3.8. Phân loại theo quan hệ của chủ đầu tư.
Hoạt động đầu tư có thể phân chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều
hành, quản lí quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đó là việc các Chính phủ
thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho các
Chính phủ của các nước khác vay để phát triển kinh tế, xã hội; là việc các cá nhân, tổ chức
mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu...để hưởng lợi tức (đầu tư tài chính).
Đầu tư trực tiếp : là loại đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lí, điều
hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư.
3.9. Phân loại đầu tư theo nguồn vốn :
-
Vốn huy động trong nước bao gồm :
+ Vốn ngân sách Nhà nước.
+ Vốn của doanh nghiệp.
+ Tiền tiết kiệm của dân cư.
-
Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm :
+ Vốn đầu tư gián tiếp.
+ Vốn đầu tư trực tiếp.
Cách phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò của
mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của từng nghành, từng địa phương và
toàn bộ nền kinh tế.
3.10. Phân loại đầu tư theo vùng lãnh thổ (theo tỉnh và vùng kinh tế của đất nước).
Cách phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh
hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế xã hội ở từng địa phương.
4.Vai trò của đầu tư phát triển trong nền kinh tế.
Các lí thuyết kinh tế đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế,
là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư phát triển được thể hiện ở những
mặt sau:
4.1.Đầu tư vừa tác động đến tổng cung,vừa tác động đến tổng cầu.
4.1.1. Về mặt cầu :
Tổng cầu của nền kinh tế là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các tác nhân trong
nền kinh tế sẽ sử dụng tương ứng với giá cả, thu nhập và một số biến số đã biết.
AD = C + I + G + X- IM
Trong đó :
AD : tổng cầu của nền kinh tế.
C : cầu về hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng.
I : cầu về hàng hoá đầu tư.
G : chi tiêu của Chính phủ.
X : cầu về hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu.
IM : cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu.
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo
số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24- 28% trong cơ cấu tổng cầu
của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với
tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm tổng cầu tăng theo, do đó làm tăng
sản lượng cân bằng.
4.1.2. Về mặt cung :
Tổng cung là toàn bộ khối lượng sản phẩm mà các doanh nghiệp sẽ sản xuất và bán
ra trong một thời kì tương ứng với giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất nhất định.
Khi thành quả của đầu tư phát triển phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt
động, thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng
tăng theo.. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt
mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa, sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để
tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống
của các thành viên trong xã hội.
4.2. Đầu tư có tác động hai mặt tới sự ổn định kinh tế.
Sự tác động không đồng đều về mặt thời gian (độ trễ thời gian) của hoạt động đầu tư đối
với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là
tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn
định của nền kinh tế mọi Quốc gia.
Cơ chế tác động này diễn ra như sau : Khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố đầu tư tăng
làm cho giá cả của các hàng hóa có liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động,
vật tư...) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm
cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày
càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm
cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút
thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động giảm tệ nạn
xã hội, tất cả những tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt tới nền kinh tế, nhưng theo chiều hướng
ngược lại so với các tác động trên. Vì vậy, trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, cần thấy
hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy
tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
4.3. Đầu tư tác động tới tăng trưởng kinh tế.
Để đánh giá mức độ gia tăng trong tổng sản lượng Quốc gia, các nhà kinh tế thường bắt
đầu với việc ước tính tỷ lệ tích luỹ và khối lượng sản phẩm đầu ra thuần tuý được tạo ra từ
đầu tư thuần. Người ta đã đưa ra chỉ tiêu để lượng hoá lượng vốn cần thiết để tăng sản
lượng đầu ra thêm 1 đơn vị mỗi năm trong mỗi khu vực hay toàn bộ nền kinh tế. Giá trị
tính được này gọi là tỷ số vốn- sản lượng gia tăng (ICOR).
Tỷ số I COR bằng khối lượng vốn gia tăng cần thiết để tạo ra 1 đơn vị gia tăng trong
tổng sản lượng quốc gia.
Mức tăng vốn đầu tư
ICOR=
Mức tăng GDP
Từ đó suy ra :
Mức
tăng
vốn
Mức tăng GDP =
ICOR
Nếu ICOR không thay đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Kết quả
nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy : muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì
tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-25% so với GDP tuỳ thuộc vào tỷ số ICOR của mỗi nước.
4.4. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh cấu trúc nội tại về kinh
tế của các ngành trong toàn bộ nền kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể tăng
trưởng nhanh là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp
và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do hạn chế về đất đaivà các khả năng
sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 đến 6% là rất khó. Như vậy, chính sách đầu tư
quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng
trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những vấn đề mất cân đối về phát triển
giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo,
phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những
vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng kinh tế khác
phát triển.
4.5. Đầu tư ảnh hưởng đến sự phát triển khoa học kĩ thuật và công nghệ.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, là chìa khoá cho sự phát triển
kinh tế. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ
của mỗi doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
Trên thực tế có hai cách để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh và nhập công nghệ
từ nước ngoaì. Dù là tự nghiên cứu hay nhập công nghệ từ nước ngoài thì đều cần phải có
tiền, cần có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư
sẽ là những phương án không khả thi.
5. Nguồn vốn đầu tư.
5.1. Bản chất của nguồn vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch
vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng
trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì năng lực sẵn có và tạo năng lực mới cho
nền sản xuất xã hội.
5.2. Vốn đầu tư của quốc gia : được hình thành từ hai nguồn cơ bản đó là vốn huy động
trong nước và vốn huy động từ nước ngoài.
-
Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn sau đây:
+ Vốn tích luỹ từ ngân sách.
+ Vốn tích luỹ của các doanh nghiệp.
+ Vốn tiết kiệm dân cư.
-
Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư
gián tiếp.
Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư
sang các nước khác và trực tiếp quản lí hoặc tham gia quản lí quá trình sử dụng và thu hồi
vốn.
Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính
phủ được thực hiện dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi
với thời hạn dài và lãi suất thấp, vốn viện trợ chính thức của các nước công nghiệp phát
triển (ODA).
5.3. Nguồn vốn đầu tư của các cơ sở :
Đối với các cơ quan quản lí Nhà nước, các cơ sở hoạt động phúc lợi công
cộng thì vốn đầu tư do ngân sách cấp (tích luỹ từ ngân sách và viện trợ qua ngân sách), vốn
viện trợ không hoàn lại trực tiếp cho cơ sở và vốn tự có của cơ sở (bản chất cũng là tiền
thừa tích luỹ từ phần thừa do dân đóng góp không dùng đến).
Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn hơn
bao gồm vốn ngân sách (lấy từ nguồn tích luỹ của ngân sách), vốn khấu hao cơ bản, vốn
viện trợ qua ngân sách, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay, vốn huy động từ nguồn phát
hành trái phiếu, cổ phiếu, vốn góp liên doanh liên kết với các cá nhân và tổ chức trong và
ngoài nước và các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Luật doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nguồn vốn đầu tư bao gồm vốn tự có, vốn
vay, vốn cổ phần, vốn liên doanh, liên kết với các cá nhân và tổ chức trong nước, ngoài
nước. Đối với các công ty cổ phần, vốn đầu tư ngoài các nguồn trên còn bao gồm tiền thu
được do phát hành trái phiếu (nếu có đủ điều kiện theo quy định của Luật doanh nghiệp).
5.4. Nội dung của vốn đầu tư.
Để tiến hành mọi công cuộc đầu tư phát triển đòi hỏi phải xem xét các
khoản chi phí sau đây :
-
Chi phí để tạo ra các tài sản cố định mới hoặc bảo dưỡng sự hoạt động của
các tài sản cố định có sẵn.
-
Chi phí để tạo ra hoặc tăng thêm các tài sản lưu động.
-
Chi phí chuẩn bị đầu tư.
-
Chi phí dự phòng cho các khoản chi phí phát sinh không dự kiến trước được.
Trong mỗi nội dung trên đây lại bao gồm nhiều khoản chi tuỳ thuộc vào vị trí,
chức năng, bản chất và công dụng của mỗi khoản đầu tư.
III. đầu tư theo hình thức hợp đồng B.O.T trong nước.
1. Khái niệm
Khái niệm B.O.T (Xây dựng -Kinh doanh - Chuyển giao) xuất hiện từ năm 1920, bắt
đầu là ở Hoa Kỳ và Canađa. B.O.T là hình thức đầu tư được sử dụng để thực hiện các dự án
đầu tư của Chính phủ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và công nghiệp (giao thông, cấp
thoát nước, điện, dầu khí...). Ngay từ khi mới ra đời, hình thức đầu tư B.O.T đã thu hút
được sự quan tâm của các nhà đầu tư và đồng thời hiệu quả kinh tế - xã hội mà nó đem lại
cũng hết sức to lớn. Ưu điểm nổi trội của hình thức B.O.T là Nhà nước không phải bỏ vốn
mà các nhà đầu tư phải tự bỏ vốn sở hữu của mình, chịu hoàn toàn trách nhiệm về dự án
trong suốt thời gian dự án được thực hiện. Điều này đã giảm được sức ép về vốn đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng cho ngân sách Nhà nước và lại vừa phát huy được tính chủ động và sáng
tạo của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư thường không thể đáp
ứng đủ tổng vốn đầu tư của dự án mà thường chỉ chiếm một tỷ lệ nhất định nào đó ( thông
thường là 30% tổng vốn đầu tư). Vì vậy các nhà đầu tư thường phải vay tín dụng từ các
ngân hàng, các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế. Chính điều này đã khiến cho dự án
đầu tư theo hình thức B.O.T phải thực sự được tính toán cẩn thận và xác định là có hiệu quả
thì các ngân hàng, tổ chức tài chính mới có thể cho vay. Như vậy, hình thức đầu tư B.O.T
đã kết hợp được rất nhiều bên có khả năng tham gia dự án mà không cần đến vốn từ ngân
sách Nhà nước, nhưng vẫn đảm bảo dự án được thực hiện có hiệu quả và theo đúng chủ
trương đường lối phát triển kinh tế của Chính phủ các nước.
Trên thế giới hình thức đầu tư B.O.T đã được áp dụng từ lâu nhưng ở Việt Nam, hình
thức đầu tư B.O.T mới chỉ xuất hiện từ đầu thập kỉ 90, nhưng trong tương lai, người ta hy
vọng nó sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc khắc phục tình trạng yếu kém của cơ sở
hạ tầng nước ta hiện nay.
Khởi đầu cho việc ra đời của hình thức đầu tư B.O.T ở Việt Nam là việc ban hành
"Quy chế đầu tư theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao" kèm theo
Nghị định số 87/CP ngày 23/11/1993 nhưng quy chế này là áp dụng cho đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam. Sau một thời gian được áp dụng, những dự án đầu tư được thực hiện theo quy
chế trên chưa đáp ứng được yêu cầu cấp bách đặt ra trong việc xây dựng, cải tạo cơ sở hạ
tầng ở nước ta. Chính vì vậy, đến ngày 15/8/1998, Nghị định trên đã được thay bằng Nghị
định 62/1998/NĐ-CP với nhiều điểm mới hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài
như mở rộng phạm vi điều chỉnh, quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm các bên, đơn giản
hóa các thủ tục và áp dụng những mức ưu đãi cao nhất cho chủ đầu tư.
Đối với đầu tư trong nước, ngày 18/6/1997 Chính phủ ban hành Nghị định 77/CP về
quy chế đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước. Tiếp theo là hai Thông tư số
12/BKH/QLKT ngày 27/8/1997 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và số 06/BXD-CSKD ngày
25/9/1997 của Bộ Xây dựng được ban hành hướng dẫn một số điều của quy chế đầu tư theo
Nghị định 77/CP. Những văn bản trên đây là những căn cứ pháp lý để thực hiện những dự
án đầu tư theo hình thức B.O.T trong nước, mở ra một hình thức kinh doanh mới đối với
các thành phần kinh tế của nước ta.
Dự án Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (viết tắt theo tiếng Anh là B.O.T Building - Operation - Transfer) là dự án đầu tư xây dựng công trình, tổ chức quản lý và
kinh doanh có thu phí các dịch vụ sử dụng công trình với thời hạn dự tính thu hồi đủ vốn và
thu được lợi nhuận. Sau khi kết thúc thời hạn hợp đồng thì công trình đó được chuyển giao
không bồi hoàn cho Nhà nước để tiếp tục quản lý và sử dụng.
Như vậy, quy trình để thực hiện một dự án đầu tư theo hình thức BOT trải qua 3 giai
đoạn chính :
- Xây dựng công trình: ở giai đoạn này, nhà đầu tư sử dụng vốn của mình và vốn đi
vay để đầu tư xây dựng công trình, tổ chức xây dựng và quản lý việc xây dựng công trình
theo thiết kế đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Đối với mỗi dự án
B.O.T, theo quy định của pháp luật Việt Nam, vốn góp của doanh nghiệp B.O.T (doanh
nghiệp làm chủ đầu tư, tổ chức quản lý xây dựng và kinh doanh một hoặc một số dự án
B.O.T) phải đạt mức tối thiểu bằng 30% tổng mức vốn đầu tư thực hiện dự án, số vốn còn
lại sẽ là vốn vay hoặc một phần là vốn góp của ngân sách Nhà nước.
- Kinh doanh: Sau khi xây dựng xong công trình, doanh nghiệp B.O.T sẽ tiến hành
vận hành công trình và thu phí sử dụng công trình (hoặc bán sản phẩm của công trình) trong
một khoảng thời gian thỏa thuận trong hợp đồng. Thời gian vận hành công trình mà doanh
nghiệp B.O.T được phép khai thác tùy thuộc vào từng dự án, thường là từ 10-50 năm. Ví
dụ, thời gian vận của dự án đường hầm qua eo biển Anh-Pháp lên tới 55 năm. Trong khi lập
dự án, chủ đầu tư luôn tính toán để thời gian này đủ để vận hành đảm bảo thu hồi vốn và có
lãi cho mình.
- Chuyển giao công trình: Sau khi kết thúc thời gian vận hành công trình, doanh
nghiệp B.O.T sẽ tiến hành các thủ tục bàn giao (không bồi hoàn vì doanh nghiệp đã thu hồi
đủ vốn đầu tư và có lãi) công trình cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Dĩ nhiên, trước
khi bàn giao công trình, doanh nghiệp B.O.T phải thực hiện đầy đủ công việc bảo dưỡng,
sửa chữa máy móc thiết bị của công trình, đảm bảo công trình sẽ tiếp tục vận hành trong
trạng thái tốt nhất có thể.
Như vậy, thực hiện dự án đầu tư theo hình thức B.O.T được coi như thực hiện bằng hợp
đồng giữa Nhà nước và các thành phần kinh tế trong nước, trong đó cả hai bên đều có lợi.
Nhà nước có lợi là thực hiện được mục tiêu, kế hoạch phát triển một số lĩnh vực trọng tâm
của nền kinh tế mà không phải dùng đến vốn ngân sách, còn bên thực hiện dự án thì có thể
thu được lợi nhuận từ dự án.
2. Trình tự đầu tư dự án B.O.T trong nước.
Theo Quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao
(B.O.T) áp dụng cho đầu tư trong nước và 2 Thông tư hướng dẫn một số điều trong quy
chế, quá trình đầu tư dự án theo hình thức B.O.T trong nước gồm các bước sau :
Công bố danh mục các dự án B.O.T trong nước.
Hàng năm, căn cứ vào quy hoạch và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ,
ủy ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương sẽ công bố danh mục các dự án
B.O.T để kêu gọi đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp và cá nhân đề xuất dự án đầu tư để
đưa vào danh mục dự án B.O.T. Phạm vi công bố dự án B.O.T trên các phương tiện thông
tin đại chúng phụ thuộc vào tính chất và quy mô của dự án đầu tư, nếu là dự án thuộc nhóm
A thì được công bố trên phạm vi cả nước còn nếu là dự án nhóm B và C thì được công bố
trong phạm vi địa phương.
Danh mục các dự án B.O.T được xác định căn cứ vào quy hoạch phát triển vùng hay
ngành và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội dài hạn hay ngắn hạn. Các dự án B.O.T phải
phù hợp với quy hoạch phát triển vùng hay ngành vì mỗi vùng, ngành đều có những đặc
điểm về tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội hay có tính đặc thù nào đó. Do vậy,
không phải dự án nào thực hiện ở đâu cũng được mà chỉ có thể thực hiện ở những địa
phương nhất định hoặc trong một ngành nhất định nhằm mục tiêu phát triển địa phương đó
hay ngành đó. Nếu các dự án B.O.T không được hình thành từ mục tiêu, quy hoạch đã xác
định thì sẽ dẫn đến đầu tư sai lầm, làm giảm hiệu quả của dự án, gây lãng phí tiền của và
công sức cho xã hội, thậm chí còn cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Danh mục các dự án B.O.T trong nước bao gồm các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh
các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội, sản xuất kinh doanh dịch vụ công cộng và
thuộc các lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích thực hiện của Nhà nước như sau:
-
Quốc lộ, đường liên tỉnh, liên huyện.
-
Cầu, cầu cảng, bến cảng biển và cảng sông, bến phà, bến xe.
-
Kho tàng và phương tiện bảo quản hàng hóa, chợ hoặc trung tâm thương mại.
-
Khai thác và cung cấp nước sạch.
-
Hệ thống xử lý chất thải, nước thải ở thành phố, khu công nghiệp tập trung,
khu dân cư.
-
Sản xuất và phân phối sử dụng điện.
-
Khu công viên, vui chơi, giải trí; trung tâm thể thao văn hóa.
-
Trường học, trường đào tạo dạy nghề, bệnh viện, phòng khám chữa bệnh.
-
Xây dựng nhà ở.
-
Sản xuất kinh doanh dịch vụ công cộng.
-
Các lĩnh vực khác có lợi cho nền kinh tế.
Đây là những lĩnh vực cần được ưu tiên phát triển bởi vì đó là những lĩnh vực thuộc
kết cấu hạ tầng của nền kinh tế, xã hội, chúng có tác dụng thúc đẩy các lĩnh vực khác phát
triển. Chính những yêu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế sẽ tạo đà cho sự phát triển, mở rộng các
dự án B.O.T trong nước.
Đăng ký thực hiện các dự án B.O.T trong nước
Căn cứ vào danh mục các dự án B.O.T được công bố và khả năng về tài chính cũng
như chuyên môn kỹ thuật của mình, doanh nghiệp, cá nhân muốn đầu tư thực hiện dự án
B.O.T sẽ gửi đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền một bộ hồ sơ xin đăng ký thực hiện dự
án B.O.T bao gồm:
-
Bản tự giới thiệu về khả năng chuyên môn, tài chính, kỹ thuật, kinh nghiệm;
giới thiệu các nhà thầu dự định thuê để thực hiện các dịch vụ có liên quan.
-
Phương án huy động vốn.
-
Giấy tờ cam kết của các ngân hàng hoặc các nhà cấp vốn khác để thực hiện
dự án B.O.T.
- Xem thêm -