LUẬN VĂN:
Đầu tư nâng cao năng lực sản xuất
kinh doanh ở công ty cổ phần tư
vấn xây dựng Sông Đà
Lời Mở đầu
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu sự chuyển mình của nền
kinh tế Việt Nam. Đất nước ta chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế từ cơ chế hành
chính, tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quẩn lí của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo cơ chế mới này tất cả các thành
phần kinh tế đều được tự do phát triển, tự mình tìm thị trường kinh doanh, tự hạch
toán kinh doanh, mở rộng thị trường của mình. Nếu doanh nghiệp nào làm ăn có
lãi, có chỗ đứng trên thị trường thì sẽ tồn tại, nếu doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ
thì sẽ bị đào thải khỏi thị trường.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, môi trường kinh doanh luôn
biến động không ngừng cùng với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học kĩ thuật
thì các doanh nghiệp luôn phải tìm cách tự đổi mới, hoàn thiện mình cả về trình
độ, năng lực, kinh nghiệm và hiện đại hoá công nghệ. Do đó, hoạt động đầu tư
nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp đã trở thành mối
ưu tiên quan trọng trong định hướng phát triển sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Sông Đà là một doanh nghiệp Nhà nước,
hoạt động trong lĩnh vực tư vấn giám sát, khảo sát thiết kế xây dựng, phục vụ thi
công những công trình thuỷ điện, thuỷ lợi và các công trình xây dựng công cộng.
Sản phẩm của công ty là các bản vẽ thiết kế kĩ thuật của các công trình, các hạng
mục công trình và các con số khảo sát, đặc điểm về chất đất, các kết luận thí
nghiệm…. Đây là những sản phẩm chứa hàm lượng chất xám lớn, sản phẩm có
chính xác, có phù hợp với thiết kế kĩ thuật hiện đại hay không đều phụ thuộc rất
nhiều vào trình độ, năng lực, kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên làm công tác
khảo sát, thí nghiệm, thiết kế, tư vấn của công ty cùng với độ chính xác , hiện đại
của trang thiết bị máy móc thí nghiệm khảo sát. Do đó, đầu tư nâng cao năng lực
sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ ở công ty có vai trò quan trọng trong
chiến lược sản xuất kinh doanh.
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần tư vấn xây dựng Sông Đà,
được sự hướng dẫn tận tình của cô Phạm Thị Thêu-GVC bộ môn Kinh tế đầu tư
cùng sự giúp đỡ của các cô, các anh, chị trong phòng Dự án và tư vấn đấu thầu, đã
giúp em nhận thức được tầm quan trọng của việc đầu tư nâng cao năng lực sản
xuất kinh doanh trong doanh nghiệp và lựa chọn đề tài: “Đầu tư nâng cao năng
lực sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần tư vấn xây dựng Sông Đà”
Trên cơ sở nghiên cứu của chuyên nghành Kinh tế đầu tư và các tài liệu
tham khảo khác. Chuyên đề của em đã phân tích và đánh giá thực trạng công tác
đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh tại công ty CP tư vấn xây dựng
Sông Đà, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng
hoạt động đầu tư của công ty.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết câu chuyên đề gồm 3 chương:
*ChươngI: Lí luận chung về đầu tư, đầu tư phát triển và sự cần thiết phải đầu
tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
*ChươngII: Thực trạng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh
doanh của công ty CP tư vấn xây dựng Sông Đà.
*ChươngIII: Mục tiêu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu
tư tại công ty CP tư vấn xây dựng Sông Đà.
Do trình độ nhận thức còn có hạn, thời gian thực tập tại công ty không
nhiều, những thiếu sót xuất hiện trong chuyên đề này là điều không tránh khỏi. Vì
vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô cùng các cô, chú và các
anh, chị trong công ty để chuyên đề này được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nội dung
Chương I: Lí luận chung về đầu tư, đầu tư phát triển và
sự cần thiết phải đầu tư trong hoạt động sản xuất
kinh doanh
I- Đầu tư và đầu tư phát triển :
1. Đầu tư:
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của
mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về
nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Các nguồn lực phải hy sinh cho hoạt động đầu tư có thể là tiền , tài nguyên
thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ của con người.
Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền
vốn), tài sản vật chất( nhà xưởng, đường xá, bệnh viện, trường học…), tài sản trí
tuệ( trình độ văn hoá, chuyên môn, quản lí, khoa học kĩ thuật...) và nguồn nhân lực
có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy
sinh các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan
trọng trong mọi lúc mọi nơi, không chỉ với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ
nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội
được thụ hưởng. Chẳng hạn một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của
người đầu tư trực tiếp tăng thêm, đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của
nền kinh tế cũng được tăng thêm.
Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho người đầu tư
là lợi nhuận còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho sản xuất và
cho sinh hoạt) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách , giải quyết việc
làm cho lao động....
Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không chỉ
có lợi cho chính họ (trong việc có thu nhập cao và địa vị cao trong xã hội) mà còn
bổ sung nguồn lực có kĩ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày
càng hiện đại, góp phần nâng cao trình độ công nghệ và kĩ thuật của nền sản xuất
quốc gia.
Loại đầu tư đem lại các kết quả không chỉ cho người đầu tư mà cả nền kinh
tế xã hội được hưởng thụ trên đây, không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của người
chủ đầu tư mà cả của nền kinh tế xã hội chính là đầu tư phát triển. Ngoài ra, còn có
các loại hình đầu tư khác mà chỉ làm tăng tài sản, lợi ích của cá nhân người đầu tư
và không làm tăng tài sản và lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế, đó chính là đầu tư tài
chính và đầu tư thương mại. Tuy nhiên, do đặc điểm của đầu tư phát triển nên đây
cũng là loại đầu tư quyết định trực tiếp sự phát triển của xã hội, là chìa khoá của
sự tăng trưởng, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển
của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
2. Đầu tư phát triển:
Đầu tư phát triển chính là một phạm trù hẹp của đầu tư chỉ những hoạt động
sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Nghĩa là, người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản
mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã
hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm nâng cao đời sống của mọi người
dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các
kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên bệ và bồi dưỡng đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của
các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo
tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Xét trong phạm vi quốc gia thì đó là những
hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật
chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và
nguồn nhân lực sẵn có.
Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển chính là quá trình chi tiêu để duy
trì sự phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ bản mới cho
nền kinh tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển xã hội trong dài hạn.
II- Phân loại và tác động của các hoạt động đầu tư phát triển trong sản xuất
kinh doanh:
Có nhiều cách phân loại hoạt động đầu tư tuỳ theo bản chất , phạm vi lợi
ích do hoạt động đầu tư đem lại, tuỳ theo thời hạn đầu tư, phương thức đầu tư.
1. Theo bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể phân
biệt đầu tư thành các dạng sau:
1.1. Đầu tư tài chính:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền cho vay hoặc mua các chứng
chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước ( gửi tiết kiệm, mua trái phiếu Chính phủ)
hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát
hành( mua cổ phiếu hoặc trái phiếu công ty). Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra
tài sản mới cho nền kinh tế quốc dân( nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong
lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư
(đánh bạc, đánh đề...cũng là một hình thức đầu tư tài chính nhưng không được
pháp luật cho phép do gây nên các tệ nạn xã hội). Với sự hoạt động của hình thức
đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra
một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu, cổ phiếu cho
người khác). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư. Để giảm độ rủi
ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là nguồn cung cấp vốn
quan trọng cho đầu tư phát triển.
1.2. Đầu tư thương mại:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó
bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán.
Loại hình đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét
đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản của người đầu tư trong quá trình mua
đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán và người đầu tư và
người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng
thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc
đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản
xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung( Chúng ta cần
lưu ý là đầu cơ trong kinh doanh cũng thuộc đầu tư thương mại xét về bản chất,
nhưng bị pháp luật cấm vì gây ra tình trạng thừa thiếu hàng hoá một cách giả tạo,
gây khó khăn cho việc quản lí lưu thông phân phối, gây mất ổn định cho sản xuất,
làm tăng chi phí của người tiêu dùng).
1.3. Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động
nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và
mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo ra việc làm, nâng cao đời
sống của mọi người dân trong xã hội. Đó là việc bỏ tiền ra xây dựng, sửa chữa nhà
cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi
dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự
hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang
tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Loại đầu tư này được gọi chung
là đầu tư phát triển.
Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển là quá trình chi tiêu để duy trì sự
phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ bản mới cho nền kinh
tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong dài hạn.
2. Theo thời hạn đầu tư, hoạt động đầu tư phát triển được phân thành các
loại sau:
2.1. Đầu tư dài hạn:
Là kế hoạch đầu tư mang tính chất lâu dài, định hướng sự phát triển của
công ty, thường kế hoạch đầu tư dài hạn có thời gian đầu tư từ 10 năm trở nên và
có quy mô thường to lớn. Do có thời hạn đầu tư dài và mang ý nghĩa định hướng
lâu dài trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp nên đầu tư dài hạn có khối
lượng tài sản số lượng lao động huy động là rất lớn.
Đầu tư dài hạn là hoạt động chủ yếu nhằm xây dựng cơ sở vật chất lâu dài
cho nền kinh tế, cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đồng thời dựa trên các
mục tiêu kế hoạch của đầu tư dài hạn, doanh nghiệp, nền kinh tế sẽ đào tạo xây
dựng được một đội ngũ cán bộ công nhân viên kĩ thuật, cán bộ quản lí có trình độ
cao hơn. Thông qua các kế hoạch dài hạn, doanh nghiệp sẽ có chiến lược mở rộng
thị trường, xây dựng thương hiệu cho mình. Kế hoạch đầu tư dài hạn đòi hỏi
những người lập kế hoạch đầu tư dài hạn của công ty phải rất cẩn thận và có tầm
nhìn chiến lược thật tốt nếu không sẽ làm cho kế hoạch đầu tư không được thành
công và kéo theo là sự sụp đổ của doanh nghiệp hoặc làm cho doanh nghiệp không
thể phát triển được. Do thời hạn của đầu tư dài hạn là rất dài so với sự thay đổi của
tình hình phát triển của nền kinh tế thị trường nên bên cạnh các kế hoạch đầu tư
dài hạn có tính chất định hướng, doanh nghiệp còn luôn luôn phải đề ra những kế
hoạch ngắn hạn nhằm từng bước hiện thực hoá kế hoạch đầu tư dài hạn, tránh sự
phát triển lệch lạc và bám sát hơn với sự phát triển của nền kinh tế.
2.2. Đầu tư ngắn hạn:
Là kế hoạch đầu tư có thời gian đầu tư ngắn, thường là dưới 10 năm. Đầu tư
ngắn hạn có tác dụng tạo lực đẩy cho sự phát triển của công ty tuỳ theo mỗi thời kì
ngắn. Là cách mà doanh nghiệp có thể bổ trợ, củng cố kế hoạch dài hạn. Thông
qua đầu tư ngắn hạn, doanh nghiệp sẽ có đối sách tốt hơn, phản ứng nhanh nhạy
hơn với sự biến động của thị trường. Đầu tư ngắn hạn của doanh nghiệp sẽ sớm
thu hồi vốn và lợi nhuận hơn so với đầu tư dài hạn. Đầu tư ngắn hạn không yêu
cầu phải huy động một khối lượng vốn đầu tư lớn và một số lượng nhân lực nhiều
nhưng đòi hỏi những nhà quản lí của doanh nghiệp phải có một cái nhìn, một phản
ứng nhanh nhạy đối với thị trường trong mỗi sự biến động của thị trường.
Đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn bổ sung những khuyết điểm của nhau và
tạo cho sự phát triển thông thoáng nhanh nhạy của doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường đầy biến động. Các kế hoạch đầu tư tạo cho doanh nghiệp hoạt động
một cách trơn tru và phản ứng tốt với biến động của thị trường.
III- Vai trò của hoạt động đầu tư :
Từ việc xem xét bản chất của đầu tư phát triển, các lí thuyêt kinh tế, cả lí
thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lí thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư
phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng
trưởng.
1. Tác động của đầu tư phát triển trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất
nước :
Đối với một nền kinh tế, hoạt động đầu tư có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, nó không chỉ đóng vai trò trong quá trình tái sản xuất của xã hội mà còn tạo
ra những cú hích cho sự phát triển của nền kinh tế ở những nước đang phát triển
thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nợ nần và nghèo đói, tạo ra sự phát triển của các
nền kinh tế phát triển.
a.Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:
- Về mặt cầu:
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỉ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh
tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24% -28%
trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động
của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư
làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch chuyển sang D’) kéo sản lượng cân bằng
tăng theo từ Q0 -Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0-P1. Điểm cân
bằng dịch chuyển từ E0-E1.
-Về mặt cung:
Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt
động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên( đường S dịch chuyển
sang S’), kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q0-Q1 và do đó giá cả sản phẩm
giảm từ P0-P1. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu
dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là
nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho
người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
b. Đầu tư tác động đến sự ổn định của nền kinh tế theo 2 mặt:
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu
và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là
tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá
vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá
của các hàng hoá có liên quan tăng( giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật
tư) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát
làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền
lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt
khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các
nghành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng
cao đời sống của người lâo động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo
điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư( như Việt Nam thời kì 1982-1989) cũng dẫn đến tác động
2 mặt, nhưng theo chiều hướng ngược láio với tác động trên đây. Vì vậy, trong
điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạch định chính sách cần thấy hết tác động
hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác
động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
c. Đầu tư tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế:
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con dường tất yếu có thể
tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn ( từ 9-10% ) là tăng trưởng đầu tư nhằm tạo
ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các nghành nông, lâm,
ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc
độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá
trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở các nước nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng
nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kếm phát triển thoát khỏi tình
trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh
tế, chính trị... những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy
những vùng khác cùng phát triển.
d. Đầu tư làm tăng khả năng khoa học và công nghệ của đất nước :
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện tiên quyết
của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo
đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu
nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát
triển công nghệ thế giới thành 7 giai đoạnthì Việt Nam đang là một trong 90 nước
kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp
hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược
đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên
cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là sự nghiên
cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi
phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những
phương án không khả thi.
f. Đầu tư tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế:
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ tăng
trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc
vào ICOR của mỗi nước.
Vốn đầu tư
Vốn đầu tư
ICOR = -------------------------- = ----------------
GDP
GDP do vốn tạo ra
Từ đó suy ra:
Vốn đầu tư
Mức tăng GDP = ---------------ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng trưởng của GDP hoàn toàn phụ thuộc vào
vốn đầu tư.
ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao động,
vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại
có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2-3 do thiếu vốn, thừa
lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn do sử dụng
công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo
trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Số liệu thống kê trong
những năm qua của các nước và lãnh thổ về ICOR như sau:
Chỉ tiêu ICOR của các nước
Các nước
Thời kì 1963-
Thời kì 1973-
Thời kì 1981-
1973
1981
1988
Hồng Kông
3,6
3,4
3,9
Hàn Quốc
2,0
4,0
2,8
Singapo
3,1
5,0
7,0
Đài Loan
1,9
3,7
2,8
Nguồn :
Bela
Balassa,
Policy
Choices
in
the
Newly
Industrializing
Contries . Working papers of the Wold Bank WPS 432.1990,tr.5
2. Đầu tư tác động đến các cơ sở sản xuất kinh doanh:
Đối với mỗi doanh nghiệp thì đầu tư có vai trò quyết định dến cả sự ra đời,
tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Khi tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho sự ra
đời của bất kì cơ sở nào cũng cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua
sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành công tác xây dựng cơ bản
và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kì của các
cơ sở vật chất kĩ thuật vừa được tạo tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động
đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại sau một thời
gian hoạt động, các cơ sở vật chất kĩ thuật của các cơ sở này đã hao mòn, hư
hoảng. Để duy trì dc sự hoạt động bình thường cần định kì tiến hành sửa chữa lớn
hoặc thay mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học
kĩ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết
bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
3. Đối với các cơ sở vô vị lợi ( hoạt động không thể thu lợi nhuận cho bản thân
mình) :
Để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kì các cơ sở vật
chất- kĩ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt
động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
Như vậy, hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng và tác động đến mọi đối
tượng kinh tế của xã hội. Hoạt động đầu tư phát triển là động lực chủ yếu thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế, tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, duy trì và phát
triển cơ sở vật chất của nền kinh tế.
IV- Vốn đầu tư và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư:
1. Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là khái niệm dùng để chỉ các nguồn lực hiện tại chi dùng cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu về một nguồn lực mới có khối lượng
và giá trị lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra. Đối với đầu tư phát triển nói riêng thì vốn
đầu tư chính là các khoản tiền, khoản của cải vật chất, nguyên nhiên vật liệu và
hàng hoá chi dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh để thu về khoản lợi nhuận
lớn hơn trong tương lai.
Đối với một doanh nghiệp thì vốn đầu tư xuất hiện từ khi doanh nghiệp còn
chưa hình thành và sẽ tiếp tục phát triển đến khi nào doanh nghiệp dừng hoạt
động. Hiện nay, vốn đầu tư là một trong những nhân tố tiên quyết trong sự phát
triển của bất kì một doanh nghiệp nào
2. Nguồn vốn đầu tư :
Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân
phối cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của Nhà nước và của xã
hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước
ngoài.
Xét về bản chất thì nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay
tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã
hội.
3. Các nguồn huy động vốn:
3.1. Vốn trong nước :
a. Nguồn vốn Nhà nước:
Bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà
nước .
-Nguồn vốn ngân sách Nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách
Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia. Đây chính là nguồn vốn dùng để đầu
tư xây dựng các công trình công cộng, các hạng mục công trình an ninh quốc
phòng và đầu tư cho các cơ sở phúc lợi xã hội... Nguồn vốn này được hình thành
chủ yếu từ nguồn thu của ngân sách Nhà nước thông qua việc thu thuế, bán tài
nguyên, thu lệ phí...
-Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Nền kinh tế đất nước càng
phát triển thì vốn tín dụng của Nhà nước càng đóng vai quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn này có tác dụng tích cực trong việc giảm
đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế này, các đơn vị sử
dụng phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay, vì vậy đòi hỏi các chủ đầu tư phải
cân nhắc kĩ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Thông qua nguồn vốn này,
Nhà nước thực hiện việc quản lí và điều tiết kinh tế vĩ mô, thực hiện việc khuyến
khích phát triển kinh tế của các ngành, các vùng, miền. Góp phần tích cực trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
-Vốn đầu tư từ các doanh nghiệp Nhà nước: Các doanh nghiệp Nhà nước
là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế nước ta, do vậy, các doanh nghiệp Nhà
nước vẫn nắm giữ một khối lượng lớn vốn. Đây chính là nguồn vốn có vai trò
quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế theo định hướng của Đảng và Nhà
nước. Hiện nay, với chủ trương tiếp tục dổi mới doanh nghiệp Nhà nước, hiệu quả
hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các
doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô
vốn đầu tư của toàn xã hội.
b. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân:
Bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân
doanh, các hợp tác xã. theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vẫn
sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để. Hiện
nay, do tập tính tiêu dùng của dân cư nước ta là tiết kiệm dành những khi gặp rủi
ro, nên lượng vốn này tích luỹ trong dân còn chưa được khai thác triết để, chưa
được huy động một cách tích cực để bù đắp nhu cầu về vốn của nền kinh tế đất
nước. Mấy năm gần đây, khi nền kinh tế có những bước phát triển khả quan, các
doanh nghiệp tư nhân càng ngày càng được tự do hơn trong hoạt động nên hoạt
động đầu tư trong khu vực tư nhân ngày càng gia tăng, vốn trong dân cũng được
sử dụng một cách có hiệu quả hơn.
c.Thị trường vốn:
Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của
các nước có nền kinh tế thị trường. Đây là kênh bổ sung chủ yếu các nguồn vốn
trung và dài hạn cho các chủ đầu tư bao gồm cả Nhà nước và các loại hình doanh
nghiệp, là cái van điều tiết hữu hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả
sang nới sử dụng có hiệu quả hơn. Trên thị trường vốn, bất kì các khoản vốn sử
dụng nào cũng đều phải trả gia, vì vậy các chủ đầu tư muốn sử dụng vốn phải cân
nhắc kĩ lưỡng về hiệu quả đầu tư và việc sử dụng tiết kiệm các nguồn vốn huy
động từ thị trường vốn.
3.2. Nguồn vốn nước ngoài:
- Vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ
nước ngoài cung cấp với mục tiêu tài trợ các nước đang phát triển. Đây chính là
nguồn vốn mang tính ưu đãi nhiều nhất đối với các nước đi vay, ngoài các điều
kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn lớn, bao giờ ODA
cũng có thêm yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25%.
- Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại, tuy không có lãi suất
ưu đãi và dễ dàng như nguồn vốn ODA, nhưng nó lại có ưu điểm là không gắn với
các ràng buộc về chính trị xã hội. Vì lãi suất cao và không dễ dàng để có thể vay
nguồn vốn này nên nguồn vốn này thường chỉ được sử dụng trong việc đáp ứng
nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Đối với nguồn vốn này hiện nay
đối với Việt Nam vẫn còn khá hạn chế.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI ) là nguồn vốn quan trọng
cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả các nước công
nghiệp phát triển. Đây là nguồn vốn mà việc tiếp nhận không phát sinh nợ đối với
các nước tiếp nhận, thay vì nhận lãi suất trên vốn, nhà đầu tư sẽ được nhận phần
lợi nhuận thích đáng khi dự án đi vào hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, nguồn
vốn này còn mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó
có thể thúc đẩy phát triển nghành nghề mới, đặc biệt là các dây chuyền công nghệ
đòi hỏi kĩ thuật cao hay cần nhiều vốn.Vì vậy, nguồn vốn này có vai trò cực kì
quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của nước tiếp nhận.
- Thị trường vốn quốc tế: Với xu hướng toàn cầu hoá nhanh chóng hiện
nay, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài
chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm
tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn thế giới. Đối với nước ta hiện
nay, để thúc đảy kinh tế phát triển nhanh chóng và bền vững, nhằm mục tiêu công
nghiệp hoá và hiện đại hoá, Nhà nước rất coi trọng việc huy động mọi nguồn
vổntong và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nguồn huy động qua thị trường vốn cũng
được chính phủ rất quan tâm, tuy rằng đây là một nguồn vốn còn mới mẻ và rất
phức tạp đối với Việt Nam.
4.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư:
Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết
quả kinh tế-xã hội đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phải bỏ ra để có được
các kết quả đó trong một thời kì nhất định. Có nhiều cách đánh giá theo các chỉ
tiêu đánh giá khác nhau về hiệu quả đầu tư tuỳ theo tính chất và kết quả cuối cùng
của hoạt động đầu tư đem lại cho nhà đầu tư.
4.1. Đánh giá hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư:
Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát
triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao
động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở số vốn đầu tư mà cơ
sở đã sử dụng so với các kì khác, các cơ sở khác hoặc so với định mức chung.
Các kết quả mà cơ sở thu được do thực hiện đầu tư
Etc=--------------------------------------------------------------------------------Số vốn đầu tư mà cơ sở đã thực hiện để tạo ra các kết quả trên
Etc được coi là hiệu quả khi Etc Etc0
Trong đó:
Etc - Chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của các kì khác mà
cơ sở đã đạt được chọn làm cơ sở so sánh, hoặc của đơn vị khác đã đạt tiêu chuẩn
hiệu quả.
4.1.1.Để đánh giá hiệu quả tài chính của một dự án người ta sử dụng hệ thống
chỉ tiêu sau:
a. Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án:
Đây là các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tuyệt đối của dự án đầu tư, chỉ tiêu lợi
nhuận thuần tính cho từng năm của đời dự án, phản ánh hiệu quả hoạt động trong
từng năm của đời dự án, hoặc hiệu quả hoạt động của toàn bộ công cuộc đầu tư.
b. Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư ( hệ số thu hồi vốn):
Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thu được từng năm
W
RRi ipv
I v0
trên một đơn vị vốn đầu tư và mức thu nhập thuần được tính cho 1
đơn vị vốn đầu tư npv
NPV
I v0
.
Trong đó:
- Ivo- Vốn đầu tư tại thời điểm hiện tại( dự án bắt đàu hoạt động).
- Wipv- Lợi nhuận thuần năm i tính chuyển về thời điểm hiện tại.
- NPV- Thu nhập thuần tính chuyển về thời điểm hiện tại.
c. Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn tự có (rE):
Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thuần từng năm tính trên 1 đơn vị vốn tự có
bình quân của năm đó.
rE=
Wi
Ei
Trong đó: rE- Tỷ suất sinh lời vốn tự có.
Ei-Vốn tự có bình quân năm i.
Wi- Lợi nhuận thuần năm i.
Nếu tính cả đời dự án(npvE) chỉ tiêu này phản ánh mức thu nhập thuần của
cả đời dự án tính cho một đơn vị vốn tự có bình quân năm của cả đời dự án.
NpvE =
NPV
E pv
d. Chỉ số vòng quay của vốn lưu động:
Vốn lưu động là một bộ phận của vốn đầu tư, vốn lưu động quay vòng càng
nhanh, càng cần ít vốn và trong điều kiện khác không đổi thì hiệu quả sử dụng vốn
càng cao.
LWci =
Oi
Wci
Trong đó: Oi- Doanh thu thuần năm i
Wci- Vốn lưu động bình quân nămi của dự án.
Hoặc:
Trong đó:
LWc
O pv
Wc pv
O pv - Doanh thu thuần bình quân năm i của dự án.
Wc pv - Vốn lưu động bình quân của cả đời dự án.
e. Chỉ tiêu tỷ số lợi ích- chi phí ( B/C ):
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ số giữa lợi ích thu được với chi phí phải bỏ ra, dự
án có hiệu quả khi B/C 1. Dự án không có hiệu quả khi B/C 1.
f. Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư ( T ):
Chỉ tiêu này cho biết thời gian mà dự án cần hoạt động để thu hồi vốn đầu
tư đã bỏ ra từ lợi nhuận và khấu hao thu được hàng năm. Dự án có hiệu quả khi
T tuổi thọ của dự án hoặc T T định mức. Thời gian thu hồi vốn càng ngắn thì
hiệu quả của dự án càng cao.
g. Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR):
Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu
để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng
thu cân bằng với tổng chi. Dự án có hiệu quả khi IRR r giới hạn và ngược lại. Tỷ
suất giới hạn được xác định căn cứ vào các nguồn vốn huy động của dự án.
h. Chỉ tiêu điểm hoà vốn:
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu vừa đủ để trang trải các khoản
chi phí phải bỏ ra. Điểm hoà vốn được biểu hiệ bằng chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu
giá trị. Nếu sản lượng hoặc doanh thu của cả đời dự án lớn hơn sản lượng hoặc
doanh thu hoà vốn thì dự án có lãi và ngược lại. Điểm hoà vốn càng nhỏ càng tốt,
mức an toàn của dự án càng cao, thời gian thu hồi vốn càng ngắn.
4.1.2.Đối với doanh nghiệp:
a.Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư:
+ Tính cho từng năm:
m
W j
j 1
=
RRi =
I vb I vr I ve
m
W j
j 1
Ivhd i
Trong đó: Wj - Lợi nhuận thuần của dự án j
m
W j với j=1,2,...,m - lợi nhuận thuần của các DA hoạt động năm i.
j 1
Ivb- Vốn đầu tư thực hiện nhưng chưa phát huy tác dụng ở đầu năm của doanh
nghiệp.
Ivr- Vốn đầu tư thực hiện trong năm của doanh nghiệp.
Ive- Vốn đầu tư chưa phát huy tác dụng ở cuối năm của doanh nghiệp.
+ Tính bình quân:
RR =
W pv
I vhdpv
I vhdpv - Vốn đầu tư được phát huy tác dụng bình quân năm của thời kì nghiên cứu
được tính theo cùng mặt bằng với lợi nhuận thuần.
W pv - Lợi nhuận bình quân năm của kỳ nghiên cứu tính theo giá trị ở mặt bằng hiện
tại của tất cả các dự án hoạt động trong kì.
b. Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời tăng thêm của vốn tự có của doanh nghiệp do đầu tư
từng năm ( rEi ) hoặc bình quân năm thời kì nghiên cứu ( rE ).
t
rEi =(rEi- rEi-1)K > 0
rE =( rEt - rEt 1 )K >0
t
Trong đó: K- hệ số mức ảnh hưởng của đầu tư.
I
- Năm nghiên cứu
i-1 - Năm trước năm nghiên cứu
t
- Thời kí nghiên cứu
t-1 - Thời kì trước thời kì nghiên cứu.
c. Chỉ tiêu số lần quay vòng tăng thêm của vốn lưu động từng năm( LWCi) hoặc
bình quân năm ( LWCt ) thời kì nghiên cứu:
LWci=( LWCi - LWCi 1 )K > 0
LWCt =( LWCt - LWCt 1 )K > 0
d. Chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư giảm kỳ nghiên cứu(t ) so với kỳ trước( t-1):
T = (Tt - Tt-1)K < 0
e. Chỉ tiêu mức hoạt động hoà vốn giảm:
xp xp
xp
=
K < 0
XP
XP t XP t 1
f. Chỉ tiêu tăng năng suất lao động của doanh nghiệp từng năm hoặc bình quân
năm thời kì ngiên cứu so với trước thời kì do đầu tư:
ELi = (ELi - ELi-1)K > 0
E Lt = ( E Lt - E Lt 1 )K > 0
Trong đó:
E Lt - Mức tăng năng suất lao động bình quân năm thời kì t so với thời kì trước
(t-1).
ELi - Mức tăng năng suất lao động năm i so với năm i-1
V- Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp:
1. Môi trường bên ngoài doanh nghiệp:
Đối với một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, môi trường bên ngoài tác
động trực tiếp đến sự tồn vong và phát triển của doanh nghiệp.
1.1. Môi trường pháp lí:
Môi trường pháp lí bao gồm các luật và các văn bản dưới luật. Mọi quy
định về kinh doanh đều tác động trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh. Môi trường pháp lí tạo ra sân chơi để các doanh nghiệp cùng tham gia hoạt
động kinh doanh, vừa cạnh tranh vừa hợp tác lẫn nhau. Mọi định hướng, mục tiêu
của doanh nghiệp khi đưa ra đều dựa trên cơ sở các luật định của Nhà nước, các
doanh nghiệp hoạt động dưới sự định hướng của Nhà nước thông qua các luật
định. Do vậy, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp trong mỗi thời kì hoạt động nên
dựa trên quy định của các văn bản pháp luật, tuỳ theo định hướng phát triển kinh
tế của đất nước để đề ra phương hướng cho đầu tư của doanh nghiệp mình.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển nhanh chóng,
nhu cầu đầu tư xây dựng cơ bản là rất lớn, do vậy Nhà nước cũng có nhiều những
- Xem thêm -