Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của tổng công ty thép việt na...

Tài liệu đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của tổng công ty thép việt na

.PDF
81
45
148

Mô tả:

LUẬN VĂN: Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Tổng công ty thép Việt Na Lời nói đầu Nền kinh tế Việt Nam qua hơn mười năm đổi mới , mở của đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên thách thức phải đối đầu với cạnh tranh, hội nhập khu vực và quốc tế cũng ngày càng gay gắt. Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN, APEC và không bao lâu nữa ra nhập AFTA(2006), WTO. Xu thế hội nhập , mở cửa đã trở thành tát yếu. Tuy nhiên theo ý kiến của nhiều chuyên gia , các doanh nghiệp Việt Nam đến nay phần lớn vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng cho hội nhập , vẫn quen với sự bảo hộ của nhà nước. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiêp Việt Nam đã là thách thức lớn nhất đối với quá trình hội nhập của nước ta. Vấn đề đặt ra là phải làm gì và làm như thế nào để có thể phát huy được lợi thế cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của cả đất nước , tận dụng có hiệu quả cơ hội , giảm thiểu những thách thứ do hội nhập mang lại. Trong bối cảnh đó , Tổng công ty thép Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước , được thành lập theo mô hình tổng công ty 91 cũng nhận thức được vai trò đầu tầu của mình. Ngoài việc hoàn thành những nhiệm vụ mà nhà nước giao cho Tổng công ty là sản xuất thép , lưu thông thép trên thị trường cả nước , nhập khẩu những mặt hàng thép mà trong nước chưa sản xuất được…Tổng công ty còn chú trọng đến công tác đầu tư vào các lĩnh vực hoạt động của mình nhằm duy trì và nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm thép trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Xuất phát từ bối cảnh chung của nền kinh tế và thực trạng hoạt động của Tổng công ty Thép thì vấn đề đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh là vấn đề đang được quan tâm nhất không chỉ đối với Tổng công ty thép mà càn đối với tất cả các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì những vấn đề nêu trên nên tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “ Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Tổng công ty thép Việt Nam” Nội dung bài viết gồm: Chương I : Những vấn đề lý luận chung về đầu tư và khả năng cạnh tranh của Tổng công ty thép Việt Nam . Chương II: Thực trạng đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Tổng công ty thép Việt Nam . Chương III: Một số giải pháp về đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Tổng công ty thép Vệt nam . Chương I Những vấn đề lí luận chung về đầu tư và khả năng cạnh tranh của Tổng công ty thép Việt Nam I/Cơ sở lí luận về đầu tư: 1/Khái niệm về đầu tư: Có thể nhận thấy rằng nếu đứng trên các phương diện khác nhau thì có những cách hiểu khác nhau về đầu tư. Nếu theo nghĩa rộng nói chung thì đầu tư chính là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Những kết quả của quá trình đầu tư đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính , tài sản vật chất , tài sản trí tuệ … Tất cả các kết quả đó đều có vai trò hết sức quan trọng trong mọi lúc mọi nơi , không chỉ đối với nhà đầu tư mà còn đối với cả nền kinh tế nói chung. Nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có các hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất , nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính , nguồn lực vật chất , nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng , sửa chữa nhà cửa , cấu trúc hạ tầng , mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ , bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực , thực hiện chi phí thwờng xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội , tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. 2/Khái niệm về vốn đầu tư: Để thực hiện bất kỳ một hoạt động đầu tư nào cũng cần phải có vốn đầu tư. Vốn đầu tư bao gồm các khoản mục chi phí gắn liền với nội dung của hoạt động đầu tư. Trên giác độ quản lý vĩ mô, vốn đầu tư được phân thành 4 khoản mục lớn như sau: *Những chi phí tạo ra tài sản cố định (mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn cố định). *Những chi phí tạo ra tài sản lưu động (mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn lưu động), và các chi phí thường xuyên gắn với một chu kỳ hoạt động của các tài sản cố định vừa được tạo ra. *Những chi phí chuẩn bị đầu tư. *Chi phí dự phòng. Trên giác độ quản lý vi mô tại các cơ sở, những khoản mục chi phí trên đây được chia thành những khoản mục chi tiết hơn đó là: *Những chi phí tạo ra tài sản cố định bao gồm: Chi phí ban đầu đất đai; Chi phí xây dựng, sửa chữa nhà của, cấu trúc hạ tầng; Chi phí mua sắm lắp đặt máy móc thiết bị dụng cụ, mua sắm phương tiện vận chuyển và những chi phí khác. *Những chi phí tạo ra tài sản lưu động, bao gồm: Chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như chi phí để mua nguyên vật liệu, trả lương người lao động, chi phí điện nước, nhiên liệu, phụ tùng...; Chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm có sản phẩm dở dang tồn kho, hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền. *Chi phí chuẩn bị đầu tư : Bao gồm chi phí nghiên cứu cơ hội đầu tư, chi phí nghiên cứu tiền khả thi, khả thi và thẩm định dự án đầu tư. *Chi phí dự phòng. 3/Đầu tư và vai trò của đầu tư trong doanh nghiệp. 3.1/Đầu tư trong doanh nghiệp: Để tiến hành các hoạt động kinh doanh cũng như các hoạt động bổ trợ khác , doanh nghiệp cần phải có các cơ sở về vốn , tài sản ,vật chất , nhân lực. Các cơ sở đó có được chính là nhờ hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Đầu tư trong doanh nghiệp là việc doanh nghiệp chi dùng vốn và các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu được kết quả trong tương lai lớn hơn chi phí đã bỏ ra. Nội dung hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp được xác định dựa trên đối tượng đầu tư bao gồm: *Đầu tư đổi mới , hiện đại hoá máy móc thiết bị , nhà xwởng. *Đầu tư vào nguồn nhân lực *Đầu tư vào dự trữ *Đầu tư vào tài sản vô hình Tất cả các nội dung trên đều hết sức quan trọng và chúng có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Chẳng hạn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị thì cùng với nó là phải đầu tư phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu sử dụng , vận hành các quy trình công nghệ đó một cách hiệu quả , phát huy tối đa những tính năng ưu việt của máy móc thiết bị đó. 3.2/Vai trò của đầu tư trong doanh nghiệp: Đầu tư có vai trò rất quan trọng trong doanh nghiệp. Nó quyết định sự ra đời , tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Có thể khái quát lại một số vai trò của đầu tư trong doanh nghiệp như sau. Đầu tư tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh trạnh của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh là nguồn lực thiết yếu để doanh nghiệp tiếp tục dấn bước trên con đường hội nhập kinh tế. Các chính sách đầu tư cho sản phẩm , đầu tư đổi mới máy móc thiết bị…là những nhân tố quan trọng đi đầu để thúc đẩy tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Đầu tư tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Để có được sản phẩm có chất lượng ngày càng cao hoặc đổi mới hàm lượng công nghệ trong sản phẩm , phải có sự đầu tư chi dùng vốn cho việc nghiên cứu sáng tạo ra các sản phẩm có chất lượng ngày càng cao để đáp ứng nhu cầu đa dạng của con người. Đầu tư góp phần đổi mới công nghệ , trình độ khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Nhờ có đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ , con người sẽ không phải làm những công việc nặng nhọc , nguy hiểm. Tỷ trọng lao động giản đơn giảm dần , thay vào đó là lao động phức tạp , lao động mang nhiều yếu tố chất xám. từ đó nâng cao năng xuất lao động , hạ giá thành hàng hoá sản phẩm Đầu tư góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhờ có đầu tư phát triển trong doanh nghiệp , nguồn lao động ngày càng được nâng cao trình độ tay nghề , phương pháp quản lý để phù hợp với trình độ đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ. 4/Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư tong doanh nghiệp: Trong doanh nghiệp để tiến hành một hoạt động đầu tư, thông thường người ta căn cứ vào rất nhiều yếu tố khác nhau, cụ thể bao gồm các nhân tố sau: *Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư: Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư hay còn gọi là lợi nhuận thuần thu được từ hoạt động đầu tư. Đầu tư và lợi nhuận thuần thu được từ hoạt động đầu tư có mối quan hệ đồng biến . Các nhà đầu tư sẽ gia tăng quy mô đầu tư nếu như lợi nhuần thu được từ hoạt động đầu tư tăng và ngược lại, nếu lợi nhuận thu được giảm hay nói cách khác là mức gia tăng lợi nhuận giữa các năm giảm thì các nhà đầu tư sẽ giảm dần quy mô đầu tư. *Tỷ lệ lãi suất thực tế (Chi phí của hoạt động đầu tư): Khi các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư thì lãi suất thực tế sẽ phản ánh giá của khoản vay mượn đó. Chính vì thế quyết định có nen đầu tư hay không sẽ phải căn cứ vào mức lãi suất đi vay để tiến hành hoạt động đầu tư đó. Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa đầu tư và lãi suất bằng sơ đồ sau: r I Qua sơ đồ trên ta thấy lãi suất thực tế luôn luôn tỷ lệ nghịch với đầu tư. Lãi suất cao hơn so với tỷ suất lợi nhuận bình quân thì các nhà đầu tư sẽ giảm quy mô đầu tư, lãi suất vốn vay càng thấp thì mức đầu tư càng tăng lên. *Lợi nhuận kỳ vọng: Lợi nhuận kỳ vọng là mức lợi nhuận mà nhà đầu tư hy vong đạt được ttrong tương lai nếu tiến hành đầu tư. Các nhà đầu tư hy vọng vào tương lai chắc chắn sẽ đạt được lợi nhuận cao thì họ sẽ gia tăng quy mô đầu tư và ngược lại. Lợi nhuận kỳ vọng rất khó xác định nhưng nó lại là nhân tố kích thích các nhà đầu tư đầu tư thêm, nhất là đối với các nhà đầu tư ưa thích mạo hiểm. Trên đây là các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp. Doang nghiệp quyết định đầu tư hay hạn chế đầu tư là tuỳ thuộc vào những nhân tố đó. Để hoạt động đầu tư đạt kết quả cao cần phải căn cứ vào các nhân tố trên. 5/ Đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp: Hiệu quả đầu tư là một khái niệm rộng và tổng hợp, một phạm trù kinh tế khách quan. Trên giác độ nền kinh tế đó là mức độ thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người lao động. Trên giác độ từng ngành, từng địa phương, cơ sở, từng giải pháp kinh tế kỹ thuật thì đó là mức độ đáp ứng những nhiệm vụ kinh tế chính trị xã hội đã đề ra cho ngành, địa phương, doanh nghiệp, cho từng giải pháp kỹ thuật khi thực hiện đầu tư. Căn cứ vào bản chất của hiệu quả, người ta chia hiệu quả thành hai loại: hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội. 5.1/Hiệu quả tài chính: Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kỳ khác , các cơ sở khác hoặc so với định mức chung. Để tính toán hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư, có thể sử dụng công thức tổng quát sau: Các kết quả mà các cơ sở thu được do thực hiện đầu tư Hiệu quả tài chính = Số vốn đầu tư mà cơ sở đã thực hiện để tạo ra các kết quả trên Các kết quả do hoạt động đầu tư mang lại cho cơ sở rất đa dạng. Các kết quả đó có thể là lợi nhuận thuần, là mức tăng năng suất lao động, là số lao động có việc làm do hoạt động đầu tư mang lại...Do đó để phản ánh hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư người ta phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiệu quả và được sử dụng trong những điều kiện nhất định. *Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư (RR):Phản ánh mức độ lợi nhuận thuần thu được từ một đơn vị vốn đầu tư được thực hiện. Wipv Nếu tính cho từng năm hoạt động thì : RRi= IV0 Trong đó: Wipv: lợi nhuận thuần thu được năm i tính theo mặt bằng hiện tại. IV0:Vốn đầu tư ban đầu. NPV Nếu tính cho toàn bộ công cuộc đầu tư: npv= IV0 Trong đó: NPV: giá trị hiện tại của thu nhập thuần của cả đời dự án RRi và NPV càng lớn càng tốt. *Tỷ suất sinh lời của vốn tự có : Vốn tự có là một bộ phận của vốn đầu tư, là một yếu tố cơ bản để xem xét tiềm lực tài chính cho việc tiến hành các công cuộc đầu tư của các cơ sở không được ngân sách Nhà nước tài trợ. Wipv Nếu tính cho một năm hoạt động thì : rE = i Ei Trong đó: Ei : Vốn tự có bình quân năm i. NPV Nếu tính cho toàn bộ một công cuộc đầu tư: npvE = E pv Trong đó: E pv : Vốn tự có bình quân của cả một thời kỳ đầu tư tính ở mặt bằng hiện tại. rEi , npvE càng lớn càng tốt *Số lần quay vòng của vốn lưu động: Vốn lưu động là một bộ phận của vốn đầu tư. Vốn lưu động quay vòng càng nhanh, càng cần ít vốn và do đó càng tiết kiệm được vốn đầu tư. Oi Công thức tính: LWCi = WCi Trong đó: Oi: doanh thu thuần năm i. WCi :Vốn lưu động bình quân năm i. Chỉ tiêu : LWCi càng lớn càng tốt. *Thời hạn thu hồi vốn đầu tư (T): Là thời gian mà các kết quả của quá trình đầu tư cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra từ lợi nhuận thuần thu được. IV0 Công thức tính: T= WPV Trong đó: WPV :Lợi nhuận thuần thu được bình quân một năm . *Chỉ tiêu tính mức chi phí thấp nhất trong trường hợp các điều kiện khác như nhau. Tính cho toàn bộ một công cuộc đầu tư: IV0 + CPVT  min Trong đó: CPV: Chi phí hoạt động đầu tư bình quân năm tính theo mặt băng hiện tại. *Hệ số hoàn vốn nội bộ IRR: Là tỷ suất lợi nhuận mà nếu được sử dụng để tính chuyển các khoản thu chi của toàn bộ công cuộc đầu tư về mặt bằng hiện tại sẽ làm cho tổng thu cân bằng với tổng chi. Công thức tính IRR: 1 1 n 1 n 1  thu i =  chii i 0 i 0 (1+IRR)i (1+IRR)i Công cuộc đầu tư được coi là hiệu quả khi IRR  IRRđịnh mức IRRđịnh mức có thể là lãi suất đi vay nếu vay vốn để đầu tư, có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do Nhà nước quy định nếu vốn đầu tư do ngân sách Nhà nước cấp. *Chỉ tiêu điểm hoà vốn: Chỉ tiêu này cho thấy số sản phẩm cần sản xuất hoặc tổng doanh thu cần thu do bán số sản phẩm đó đủ để hoàn lại số vốn đã bỏ ra từ đầu đời dự án. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt, mức độ an toàn của dự án càng cao, thời hạn thu hồi vốn càng ngắn. Công thức tính: f x= (p-v) Trong đó : x:Số sản phẩm cần sản suất để hoà vốn. f:Tổng định phí v: Biến phí /1 đơn vị sản phẩm p: Giá bán 1 sản phẩm 5.2/ Hiệu quả kinh tế xã hội: Hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế và xã hội thu được với các chi phí mà nền kinh tế và xã hội đã bỏ ra khi thực hiện đầu tư. Xuất phát từ góc độ doanh nghiệp, lợi ích kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư được thể hiện qua các chỉ tiêu sau: *Mức đóng góp ngân sách. *Số chỗ việc làm tăng thêm từ hoạt động đầu tư. *Số ngoại tệ thu được từ hoạt động đầu tư. *Mức tăng năng suất lao động sau khi đầu tư so với trước đầu tư. *Mức nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động. *Tạo thị trường mới và mức độ chiếm lĩnh thị trường do tiến hành đầu tư. *Nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất. *Nâng cao trình độ quản lý của lao động quản lý *Các tác động đến môi trường *Các tác động khác. II/ Cơ sở lý luận về cạnh tranh. 1/ Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh trạnh. Cạnh tranh là hiện tượng gắn liền với nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh chỉ xuất hiện dưới những tiền đề kinh tế và pháp lí cụ thể. Ngày nay có lẽ không ai còn hoài nghi về sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường ở nước ta và vì vậy cạnh tranh đã được nhìn nhận chung như là động lực phát triển nội tại của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh cũng thực sự diễn ra khi pháp luật thừa nhận và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu , khi có tự do hoá thương mại và theo đó là tự do kinh doanh và quyền tự chủ của các cá nhân được thừa nhận và bảo đảm. Cạnh tranh chỉ xuất hiện khi không có độc quyền dưới bất cứ hình thức nào. Tất cả những tiền đề đó đã hình thành ở nước ta từ khi chuyển sang cơ chế thị trường và từ khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Có thể có nhiều định nghĩa khác nhau về cạnh tranh , song nhìn chung cạnh tranh là sự ganh đua hay chạy đua của các thành viên của một thị trường hàng hoá , sản phẩm cụ thể nhằm mục đích lôi kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng , thị trường và thị phần của một thị trường. Như vậy về phương diện kinh tế , cạnh tranh được hình thành trên cơ sở của tiền đề là:Có sự hiện diện của các thành viên , có cuộc chạy đua vì mục tiêu kinh tế giữa các thành viên và chúng đều diễn ra trên một thị trường hàng hoá cụ thể. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường , bảo đảm thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh được các nhà kinh tế học diễn đạt theo nhiều quan điểm khác nhau: Theo Fafchamps: Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm vơí chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này , doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản phẩm của doanh nghiệp khác nhưng chi phí thấp hơn được coi là khả năng cạnh tranh cao hơn. Theo Randall: Khả năng cạnh tranh là khả năng giành đượcvà duy trì được thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định. Theo Dunning: Khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó. Nhìn chung các khái niệm về cạnh tranh của các nhà kinh tế học tuy được diễn đạt khác nhau , song đều có chung hai khía cạnh là khả năng chiếm lĩnh thị trường và lợi nhuận. 2/ Các thước đo cạnh tranh. Để đánh giá khả năng cạnh tranh của một hàng hoá nói chung trên thị trường ,người ta có thể sử dụng nhiều tiêu thức khác nhau , trong đó phải kể đến một số tiêu thức quan trọng sau: 2.1/ Giá cả sản phẩm. Giá là một trong những công cụ quan trọng trong cạnh tranh , cạnh tranh bằng giá cả đồng nghĩa với việc kinh doanh với chi phí thấp để bán với mức giá hạ và thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. Mức giá có vai trò cực kỳ quan trọng trong cạnh tranh. Nếu như chênh lệch về giá giữa doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh lớn hơn chênh lệch về giá trị sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp đã đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh. Điều đó tạo điều kiện cho sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng có chỗ đứng trên thị trường và cũng có nghĩa là sản phẩm của doanh nghiệp có vị trí cạnh tranh ngày càng cao. Mậc dù khả năng định giá thường có quan hệ với các yếu tố khác như chi phí sản xuất ,chất lượng sản phẩm…Song giá vẫn là một yếu tố chiến lược quan trọng cần phải được xem xét riêng nếu doanh nghiệp muốn tăng khả năng cạnh tranh của mình. Cạnh tranh bằng giá được coi là phương pháp cạnh tranh kinh điển. 2.2/ Chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là hệ thống các đặc tính bên trong của sản phẩm được xác định bằng các thông số có thể đo được và so sánh được. Phù hợp với những tiêu chuẩn kỹ thuật và thoả mãn được những nhu cầu nhất định của xã hội. Việc cung cấp các sản phẩm có chất lượng cao sẽ tạo ra danh tiếng cho thương hiệu sản phẩm của công ty. Từ đó cho phép công ty đặt giá sản phẩm của mình cao hơn so với các sản phẩm cùng loại , tạo ra lợi nhuận lớn hơn. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ là lực hút để kéo khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp , từ đó tạo lập được lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường khi khách hàng có sự lựa chọn giữa các mặt hàng khác nhau của cùng một sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ thì vấn đề sản phẩm càng trở nên quan trọng. 2.3/Chất lượng dịch vụ. Khái niệm dịch vụ ở đây được hiểu bao gồm cả phương thức thanh toán khi bán hàng và dịch vụ sau bán hàng. Chất lượng dịch vụ cũng đóng góp một phần không nhỏ khẳng định vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Khách hàng sẽ ưa chuộng sản phẩm và biết đến sản phẩm của doanh nghiệp nhiều hơn nếu như mạng lươí tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là rộng khắp , phương thức thanh toán thuận tiện , nhanh chóng. Bên cạnh đó dịch vụ sau bán hàng cũng là một vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm , nó cũng ảnh hưởng một phần không nhỏ đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp,. 2.4/ Uy tín của doanh nghiệp . Uy tín của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có uy tín thì khách hàng sẽ tin dùng sản phẩm của doanh nghiệp đó hơn , mặc dù có rất nhiều hãng khác cùng sản xuất mặt hàng đó. Để tạo lập được uy tín thì trước hết doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính vững chắc , chất lượng sản phẩm cao , các loại hình dịch vụ phong phú , tiện lợi phù hợp với thị hiếu của khách hàng…Uy tín của doanh nghiệp được thể hiện ngay trên nhãn hiệu , biểu tượng của doanh nghiệp. 3/Các loại hình cạnh tranh. Tuỳ theo các cách phân loại khác nhau thì có các loại hình cạnh tranh khác nhau. 3.1/ Nếu căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường người ta chia cạnh tranh làm ba loại sau: *Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. *Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Là cuộc cạnh tranh theo quy luật cung cầu. Chẳng hạn khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh giữa nguời mua với nhau trở lên quyết liệt. Nó sẽ là yếu tố làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ tăng lên *Cạnh tranh giữa những người bán với nhau : Là cuộc cạnh tranh gay go quyết liệt nhất. Đây là cuộc cạnh tranh quyết định doanh nghiệp nào tồn tại và doanh nghiệp nào sẽ bị đào thải ra khỏi thị trường. Chính vì lẽ đó tất cả các doanh nghiệp đều muốn dành giật lợi thế cạnh tranh về mình , muốn dành một thế đứng vững chắc hơn đối thủ của mình. Để làm được điều này đòi hỏi mỗi một doanh nghiệp cần nỗ lực phấn đấu , tìm ra hướng đi riêng cho chính mình. 3.2/Nếu căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường người ta chia ra các loại hình cạnh tranh như sau: *Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh trên thị trường có nhiều người mua và người bán độc lập với nhau. Tất cả các đơn vị hàng hoá trao đổi được coi là giống nhau. Các doanh nghiệp tham gia trên thị trường này chủ yếu tìm biện pháp cắt giảm chi phí sản xuất sản phẩm để hưởng lợi nhuận từ chênh lệch giá đầu vào. *Cạnh tranh không hoàn hảo: Là cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn các sản phẩm là không đồng nhất với nhau. Người bán có thể ấn định giá linh hoạt theo khu vực bán sản phẩm , thời điểm bán sản phẩm , khách hàng và mức lợi nhuận mong muốn. Tóm lại ,cạnh tranh là cuộc chạy đua quyết liệt giữa các chủ thể hoạt động trong thị trường nhằm giành giật những điều kiện sản xuất thuận lợi và nơi tiêu thụ hàng hoá dịch vụ có lợi nhất. Cạnh tranh được coi là động lực của quá ttrình phát triển. Cạnh tranh có khả năng nhanh nhậy trong việc phát hiện và đáp ứng mọi nhu cầu và thị hiếu của ngươì tiêu dùng. Bên cạnh đó bằng phương thức cạnh tranh kinh điển là cạnh tranh qua giá mà nhờ đó giá cả sản phẩm , hàng hoá , dịch vụ được cải thiện theo hướng có lợi cho khách hàng và người tiêu dùng. Hơn nữa cạnh tranh luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút về mình ngày càng nhiều khách hàng nên buộc các nhà sản xuất công nghiệp , dịch vụ phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao với giá thành hạ. Vì vậy cạnh tranh là cơ hội bắt buộc các doanh nghiệp phải áp dụng công nghệ mới , tiến bộ khoa học kỹ thuật…Như vậy cạnh tranh còn là nguồn gốc , động lực của sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ cao. Trong điều kiện của cơ chế thị trường , khi các mức độ cạnh tranh đã trở lên gay gắt thì các doanh nghiệp vì sự tồn tại của mình luôn phải toan tính để vượt lên các đối thủ cạnh tranh. Chính điều này đã tạo sức ép chống trì trệ , khắc phục suy thoái và buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả tốt hơn. Và môi trường cạnh tranh là môi trường mà ở đó các doanh nghiệp luôn phải vận động đổi mới , cải tiến không ngừng về công nghệ , chủng loại ,kiểu dáng sản phẩm và phương thức kinh doanh. Theo cách đó cạnh tranh tạo ra sự đổi mới liên tục và là động lực để các doanh nghiệp phát triển. Trên đây là các loại hình cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dùng , doanh nghiệp và nền kinh tế. Tìm hiểu về cạnh tranh và vai trò của nó là xuất phát điểm để tiến hành nghiên cứu sâu hơn các nội dung sẽ trình bầy ở các chương sau. III/ Một vài nét khái quát về ngành Thép Việt Nam. 1/ Quá trình phát triển của ngành thép Việt Nam. Ngành sản xuất thép ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm xây dựng từ rất sớm. Ngay sau khi hoà bình lập lại trên miền Bắc , Đảng và Chính phủ đã quyết định xây dựng khu liên hợp gang thép Thái Nguyên do Trung Quốc giúp đõ vào năm1959 và đã cho ra đời mẻ gang đầu tiên năm 1963. Năm 1973 , nhà máy luyện cán thép Gia Sàng công suất 30.000 tấn/năm do CHDC Đức giúp đỡ đã ra đòi , góp phần bổ xung , hoàn thiện dây chuyền sản xuất luyện và cán , đảm bảo công suất thiết kế 10 vạn tấn/năm cho cả khu liên hợp gang thép Thái Nguyên. Sau khi đất nước thống nhát , năm 1976 công ty luyện kim đen miền Nam được thành lập trên cơ sở tiếp quản các nhà máy luyện , cán thép mini của chế dộ cũ ở thành phố Hồ Chí Minh và Biên Hoà , với tổng công suất 80.000 tấn thép cán/ năm. Từ 1976 đến1989 , ngành thép gặp rất nhiều khó khăn do kinh tế đất nước lâm vào khủng hoảng. Mặt khác nguồn thép nhập khẩu từ Liên Xô và các nước XHCN vẫn còn dồi dào , vì vậy ngành thép chỉ duy trì mức sản lượng40.000 đến85.000 tấn/năm. Từ 1989 đến1995 , thực hiện chủ chương đổi mới mở cửa của Đảng , ngành thép đã khắc phục được khó khăn và bắt đầu tăng trưởng mạnh , sản lượng thép trong nước đã vượt ngưỡng 100.000 tấn/ năm. Năm 1990 , Liên Xô và khối SEV tan dã , nguồn cung ứng thép cho Việt Nam bị cắt giảm cũng là nhân tố quan trọng thúc đẩy ngành thép phải phát triển mạnh để bù sự thiếu hụt. Năm 1990 , Tổng công ty thép Việt Nam thuộc Bộ công nghiệp nặng được thành lập , thống nhất quản lý ngành sản xuất thép quốc doanh trong cả nước. Đây là thời kỳ phát triển sôi động , nhiều dự án đầu tư theo chiều sâu và liên doanh với nước ngoài được thực hiện. Các ngành và các thành phần kinh tế khác đua nhau sản xuất thép mini. Sản lượng thép cán năm 1995 đã tăng gấp 4 lần năm 1990 , đạt 450.000 tấn/năm. Tháng 4 năm1995,Tổng công ty thép Việt Nam theo mô hình Tổng công ty 91 được thành lập trên cơ sở hợp nhất Tổng công ty thép Việt Nam thuộc Bộ công nghiệp và Tổng công ty kim khí thuộc Bộ thương mại. Thời kỳ 1996-2001, ngành thép vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá cao.Tiếp tục được đầu tư đổi mới và đầu tư chiều sâu mạnh mẽ. Đã hình thành và đưa vào hoạt động 13 dự án liên doanh, trong đó có 12 nhà máy liên doanh cán thép và gia công chế biến sau cán. Sản lượng thép cả nước năm 1999 đạt 1,4 triệu tấn/năm gấp hơn 3 lần năm1995 và gấp 14 lần năm 1990. Có thể nhận thấy rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng,hơn 40 năm qua ngành thép Việt Nam đã không ngừng phát triển, góp phần đáng kể vào sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quá trình xây dựng ,sản xuất và phát triển lâu dài của ngành thép Việt Nam đã đào tạo được một đội ngũ công nhân, cán bộ lành nghề, giầu kinh nghiệm. đây là vốn quý của ngành thép, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp phát triển ngành thép Việt Nam. Bước sang thời kỳ mới, thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của Đảng và tham gia hội nhập quốc tế, ngành thép Việt Nam cần được phát triển mạnh mẽ hơn với sự hỗ trợ của nhà nước để tương xứng với vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân. 2/ Cơ cấu sản xuất trong ngành thép hiện nay. Hiện nay ngành thép Việt Nam mới chỉ sản xuất các loại sản phảm dài phục vụ chủ yếu cho ngành xây dựng ( thép tròn trơn, tròn vằn dạng thanh dài  10  40mm, thép cuộn dây  6-  10 và thép hình cỡ nhỏ và cỡ vừa) và gia công sản xuất ống hàn, tôn mạ ,hình uốn nguội, cắt sẻ....từ sản phẩm dẹt nhập khẩu. Các sản phẩm dài sản xuất trong nước cũng phần lớn được cán từ phôi thép nhập khẩu. Khả năng tự sản xuất phôi thép trong nước còn nhỏ bé, chỉ đáp ứng được khoảng 25%, còn lại 75% nhu cầu phôi thép cho các nhà máy cán phải nhập từ bên ngoài. Trong nước chưa có nhà máy cán các sản phẩm dẹt ( tấm, lá cán nóng,cán nguội). Phôi thép và thép cán sản xuất trong nước có chất lượng thông thường và còn phụ thuộc vào chất lượng phôi thép nhập khẩu. Khả năng xuất khẩu còn hạn chế mà chủ yếu sản phẩm được tiêu thụ trong nước và thay thế nhập khâủ. Chưa có cơ sở tập trung sản xuất thép đặc biệt phục vụ chế tạo cơ khí. Hiện nay chỉ sản xuất một số loại thép đặc biệt với quy mô nhỏ ở một số nhà máy cơ khí và nhà máy thép của Tổng công ty thép Việt Nam . Nhìn chung trong thời gian qua, do hạn chế vốn đầu tư và do thị trường tiêu thụ thép trong nước còn nhỏ bé, ngành thép Việt Nam mới chỉ đầu tư tập trung vào sản xuất các sản phẩm dài để đáp ứng nhu cầu cấp bách trong nước. Đây là các sản phẩm có thuận lợi về thị trường, cần vốn đầu tư ít, thời gian xây dựng nhà máy ngắn, hiệu quả đầu tư khá cao, thu hút được nhiều đối tác nước ngoài bỏ vốn kinh doanh. Đối với các sản phẩm thép dẹt do nhu cầu còn thấp trong khi đó để đảm bảo hiệu quả thì yêu cầu công suất của nhà máy phải đủ lớn, vốn đầu tư lớn, ít hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài tham gia liên doanh mà bản thân ngành thép thì chưa đủ sức đầu tư. Do vậy nhìn chung cơ cấu sản xuất của ngành thép hiện nay là thiếu đồng bộ, mất cân đối giữa sản xuất phôi với cán thép, giữa cơ cấu mặt hàng và cơ cấu chất lượng sản phẩm. Vì vậy trong thời gian tới ngành thép cần phải có những chiến lược đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu để hiện đại hoá nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng cường sức cạnh tranh,giảm dần và tiến tới khắc phục sự mất cân đối trong cơ cấu sản xuất hiện nay. 3/ Đặc điểm hoạt động đầu tư trong ngành thép. Xuất phát từ đặc điểm tài nguyên phục vụ cho ngành thép thì hoạt động đầu tư trong ngành thép cũng mang những nét đặc trưng riêng khác với những ngành khác. Thứ nhất, nguyên liệu phục vụ ngành thép phải được lấy từ các mỏ khoáng sản như than mỡ than antraxit, khí thiên nhiên và các quặng sắt... Tuy nhiên để khai thác được nguồn tài nguyên này thì phải đòi hỏi một lượng vốn đầu tư tương đối lớn . Chẳng hạn mỏ quạng sắt Thạch Khê(Hà Tĩnh) có trữ lượng lớn, hàm lượng sắt cao, song lại nằm sâu dưới mực nước biển chính vì thế đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở và xây dựng mỏ lớn, chi phí khai thác cao do phải bơm tháo khô mỏ, phải khai thác với công suất lớn thì mới hiệu quả. Thứ hai, do các mỏ và điểm quặng phân bố rải rác ở các vùng, đa số ở vùng sâu vùng xa, không thuận lợi để đầu tư khai thác cơ giới, chính vì thế các công trình đầu tư của ngành thép được xây dựng ngay tại vị trí của từng mỏ, điểm quặng đó. Đây là nguyên nhân dẫn đến các công trình đầu tư này chịu tác động không nhỏ của điều kiện tự nhiên như mưa , lũ, sự bất ổn của địa chất...Đặc biệt là vấn đề bất ổn về địa chất, nó có thể coi là một thảm hoạ đáng lo ngại cho ngành thép vì nó có thể phả huỷ cả một công trình đầu tư đồ sộ ngay trong phút chốc. Đây cũng là điều rất đáng quan tâm khi lựa chọn địa điểm xây dựng nhà máy thép. Thứ ba, thời gian bắt đầu một công cuộc đầu tư từ khi bắt đầu đến khi phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng, thời gian vận hành để thu hồi vốn cũng kéo dài. Không tính đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp sản xuất thép tư nhân, hộ gia đình thì để hoàn thành một nhà máy sản xuất thép cần từ 5 đến 10 năm, thậm chí còn lâu hơn. Đó là chưa kể đến những rủi ro có thể gặp trong quá trình xây dựng do kéo dài thời gian thi công .Bên cạnh đó, đối với ngành thép, vốn đầu tư ban đầu bỏ ra là rất lớn do đó để có thể thu hồi được thì cần phải có một thời gian dài, có khi hàng chục năm. Thứ tư, do thời gian đầu tư kéo dài và vốn đầu tư lớn nên đầu tư trong ngành thép gặp nhiều rủi ro, đặc biệt là các rủi ro sau: Rủi ro về xây dựng và hoàn thành công trình:Thường là các rủi ro kéo dài thời gian thi công do tiến độ bỏ vốn chậm. Rủi ro về kỹ thuật và vân hành: Đây cũng là rủi ro hay gặp trong quá trình sử dụng máy móc để sản xuất. Đặc biệt là đối với Tổng công ty thép Việt Nam do máy móc thiết bị lạc hậu nên không đáp ứng được yêu cầu sản xuất và không thể vận hành với công suất thiết kế ban đầu. Rủi ro về thị trường : Do quy mô, thời gian thực hiện đầu tư trong ngành thép là rất lớn và dài nên có thể sẽ phải hứng chịu các rủi ro về thị trường, chẳng hạn như hàng hoá sản xuất ra không bán được dẫn đến ứ đọng vốn, giảm hiệu quả đầu tư. Nếu không nghiên cứu kỹ, dự báo nhu cầu một cách chính xác thì rủi ro về thị trường sẽ là một trở ngại lớn đối với ngành thép. Từ những đặc điểm trên ta nhận thấy đầu tư trong ngành thép là hết sức khó khăn và chịu nhiều rủi ro. Chính vì vậy để hoạt động đầu tư có hiệu quả, mang về những lợi ích nhất định cho ngành thép thì ngành cần phải có sự quan tâm, chuẩn bị một cách tốt nhất các công đoạn của quá trình đầu tư để làm sao khi tiến hành một dự án nào đó thì phải hoàn thành và đạt kết quả cao, tránh tình trạng bỏ dở gây lãng phí thất thoát vốn, vật tư và vật lực. VI/ Một vài nét khái quát về Tổng công ty thép Việt Nam . 1/ Vị trí của Tổng công ty thép trong ngành thép Việt Nam. Ngành thép Việt Nam đã và đang ngày càng hoàn thiện hướng đi của mình để đáp ứng tốt nhất nhu cầu về thép trong nước và đạt lợi nhuận cao. Hiện nay cùng với đà phát triển của ngành thì đã có rất nhiều cơ sở sản xuất thép tại Việt Nam bao gồm khoảng 14 công ty liên doanh với nước ngoài có công suất khoảng 200-300 nghìn tấn/năm/1công ty; khoảng trên 10 cơ sở sản xuất thép và gia công sau cán là các công ty trách nhiệm hữu hạn và 100% vốn nước ngoài. Bên cạnh đó còn có các cơ sở sản xuất của quốc doanh và quốc phòng có quy mô nhỏ đang sử dụng chủ yếu các máy cán mini và lò điện của cơ khí có công suất từ10.000 tấn đến 30.000 tấn /năm. Ngoài ra khu vực tư nhân hộ gia đình cũng đóng góp một phần không nhỏ vào thị trường sản xuất thép với 250 cơ sở đang sử dụng các lò
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan