Đại học quốc gia Hà Nội
Khoa luật
Hoàng Anh Tuấn
Đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu ở nước ta Thực trạng và giải pháp
Luận văn thạc sĩ luật học
Hà Nội - 2003
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG ANH TUẤN
ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM BUÔN LẬU Ở
NƯỚC TA THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 5.05.14
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2003
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................................................................
1
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BUÔN LẬU, TỘI PHẠM BUÔN LẬU
VÀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM BUÔN LẬU
1.1. Nhận thức chung về buôn lậu và tội phạm buôn lậu ............................
5
1.2. Nhận thức chung về đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn
lậu....................................................................................................................... ...........................................
22
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TỘI PHẠM BUÔN LẬU
Ở NƯỚC TA TRONG 5 NĂM (TỪ 1998 - 2002)
2.1. Thực trạng tình hình tội phạm buôn lậu ở nước ta trong 5 năm (từ
1998 đến 2002) .................................................................................................................................
28
2.2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm buôn lậu ........
55
CHƯƠNG 3
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG
TỘI PHẠM BUÔN LẬU Ở NƯỚC TA
3.1. Dự báo tình hình kinh tế-xã hội và hoạt động buôn lậu, tội
phạm buôn lậu trong thời gian tới ...............................................................................
67
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội phạm buôn lậu .......................................................................................................
76
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. .........................
90
Phụ lục
91
Tài tham khảo.........................................................................................................................................
93
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, trong nhiều năm gần đây, tình hình buôn lậu và tội phạm
buôn lậu đã và đang có những diễn biến hết sức phức tạp, có xu hướng tăng
nhanh cả về quy mô đến chủng loại hàng hoá và thiệt hại gây ra. Hoạt động
buôn lậu hình thành nên các tuyến, địa bàn trọng điểm, nóng bỏng ở biên giới
phía Bắc, phía Tây và Tây Nam Bộ, trải dài từ biên giới đất liền đến biên giới
trên biển, các cửa khẩu đường không, đường biển, đường bộ, ở đâu cũng có
buôn lậu. Đối tượng tham gia buôn lậu ngày càng đa dạng với các thành phần
khác nhau trong xã hội, từ bọn buôn lậu chuyên nghiệp đến cả những cán bộ,
đảng viên tha hoá, biến chất trong bộ máy cơ quan nhà nước, trong lực lượng
vũ trang, trong các cơ quan bảo vệ pháp luật và cả người nước ngoài đến Việt
Nam công tác, thăm thân hay du lịch... Phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh
vi, xảo quyệt. Để có được lợi nhuận bọn tội phạm buôn lậu không bỏ qua một
phương thức, thủ đoạn nào, từ những hoạt động lén lút bí mật đến công khai
trắng trợn, từ lợi dụng những thiếu sót trong quản lý biên giới của các cơ quan
nhà nước, lợi dụng các kẽ hở trong chính sách xuất nhập khẩu đến dùng tiền,
lợi ích vật chất móc nối với những cán bộ, đảng viên tha hoá, biến chất trong
các cơ quan nhà nước để buôn lậu. Đồng thời, để chống lại các cơ quan chức
năng, tội phạm buôn lậu còn lôi kéo sử dụng dân thường, đối tượng chính
sách vận chuyển hàng thuê. Khi bị phát hiện thì chính những người dân
nghèo, đối tượng chính sách làm thuê này trở thành lực lượng gây sức ép
chống lại các cơ quan chức năng để tẩu tán hàng hoá buôn lậu.
Buôn lậu nói chung và tội phạm buôn lậu nói riêng đang từng ngày, từng
giờ phá hoại kinh tế nước ta, gây thiệt hại rất lớn cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh như làm đình trệ, phá sản các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong nước;
làm nghèo đi các nguồn lợi tự nhiên... Bên cạnh đó, buôn lậu còn làm giảm uy
tín, hiệu lực quản lý của nhà nước; góp phần gia tăng nhiều tiêu cực trong xã
1
hội và tội phạm khác, như tham nhũng; vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ
qua biên giới; đưa hối lộ, nhận hối lộ; sản xuất, buôn bán hàng giả... Do vậy,
buôn lậu là một thứ "quốc nạn" gây nhiều tác động xấu đến kinh tế, chính trị,
văn hoá và an ninh trật tự và là một trong những thách thức, nguy cơ cản trở
quá trình đổi mới đất nước.
Những năm vừa qua, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu
đã được Đảng và Nhà nước ta tập trung thực hiện, nhưng hiệu quả đạt được
chưa cao. Các cơ quan chức năng chống buôn lậu ở nước ta đã phát hiện hàng
chục ngàn vụ buôn lậu với giá trị hàng hoá phạm pháp lên đến hàng trăm tỷ
đồng, trong đó có những đường dây lớn như vụ Mai Văn Huy (Đồng Tháp),
Tân Trường Sanh (TP. Hồ Chí Minh), vụ Hang Dơi (Lạng Sơn), vụ Trảng
Bàng (Tây Ninh)... Tuy nhiên, số vụ buôn lậu bị phát hiện và xử lý trong thời
gian qua mới chỉ bằng khoảng 10% số vụ buôn lậu xảy ra.
Trước tình hình buôn lậu có những diễn biến phức tạp nêu trên, việc
nghiên cứu các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm này vẫn phải tiếp
tục để có thể từng bước ngăn chặn, hạn chế, đẩy lùi loại tội phạm này trong xã
hội, góp phần làm lành mạnh nền kinh tế đất nước. Với các lý do nêu trên, tác
giả viết luận văn cao học luật đề tài “Đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn
lậu ở nước ta - Thực trạng và giải pháp” nhằm đáp ứng được tính cấp thiết
thực tế đòi hỏi hiện nay và mong muốn góp phần mình vào cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm buôn lậu nói riêng trên đất nước
ta.
2. Tình hình nghiên cứu
Như trên đã phân tích, buôn lậu và đấu tranh chống buôn lậu hiện nay
đang là vấn đề nóng bỏng cần có sự quan tâm, đáng giá đúng mức. Vì vậy,
vấn đề này đã được đề cập trong một số công trình khoa học, bài viết đăng
trên các báo và tạp chí, cụ thể: sách tham khảo "Chống buôn lậu và gian lận
thương mại" của tác giả Lê Thanh Bình, NXB Chính trị quốc gia 1998; "Buôn
lậu và chống buôn lậu - Nhận diện và giải pháp" của tác giả Lê Văn Tới, NXB
2
Chính trị quốc gia 2000; Đề tài khoa học cấp bộ "Đấu tranh chống buôn lậu
trên tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc" của Viện Nghiên cứu Chiến
lược và Khoa học Công an, năm 2000. Bên cạnh đó, còn có một vài luận văn
thạc sĩ, luận văn cử nhân như: "Đấu tranh phòng chống tội buôn lậu và vận
chuyển hàng hoá, tiền tệ trái phép qua biên giới" của ThS. Nguyễn Văn Giàu;
"Công tác phòng ngừa và đấu tranh chống buôn lậu trên tuyến biển miền
Trung của Bộ đội biên phòng" của ThS. Nguyễn Thành Luỹ 1996. Các công
trình nghiên cứu này đã đề cập một cách khái quát về mặt lý luận của buôn
lậu và tội phạm buôn lậu cũng như đề cập đến công tác đấu tranh phòng
chống buôn lậu của những cơ quan, lực lượng chức năng.
Tuy nhiên, như trên đã trình bày, mặc dù có các công trình đã được công
bố, nhưng việc nghiên cứu về đấu tranh phòng chống tội phạm này vẫn phải
tiếp tục ở nhiều khía cạnh khác nhau. Mặt khác cũng phải thấy rằng, các công
trình đó chưa đặt kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực
nên các dự báo đưa ra chưa thực sự sát hợp với điều kiện thực tế hiện nay, các
giải pháp đưa ra mới chỉ dừng lại ở khía cạnh đấu tranh chống buôn lậu và tội
phạm buôn lậu mà chưa tìm ra giải pháp phòng ngừa thích hợp đối với loại tội
phạm này. Vì vậy, tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về các biện pháp đấu tranh
phòng chống tội phạm buôn lậu trong điều kiện hiện nay là cần thiết trong điều
kiện nước ta từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đi từ những vấn đề lý luận đến thực trạng tội phạm buôn lậu và
thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu để đưa ra những
dự báo về tình hình tội phạm buôn lậu trong những năm tới. Trên cơ sở đó xây
dựng giải pháp đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với tội phạm buôn lậu,
góp phần vào việc đẩy lùi tội phạm, xây dựng nền an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là làm rõ hơn những lý luận
cơ bản về buôn lậu, tội phạm buôn lậu và các biện pháp đấu tranh phòng,
chống tội phạm buôn lậu; thực trạng tình hình tội phạm buôn lậu ở nước ta
trong thời gian 5 năm (từ năm 1998 đến 2002) và các đặc điểm tội phạm học
của tội phạm buôn lậu, trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm buôn lậu; dự báo tình hình tội phạm buôn lậu ở nước ta trong
những năm tới và từ đó đề ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm đấu tranh
phòng, chống có hiệu quả đối với loại tội phạm này.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn là: thực tiễn hoạt động đấu tranh
phòng, chống tội phạm buôn lậu trong phạm vi toàn quốc ở Việt Nam, từ năm
1998 đến năm 2002.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: lịch sử, thống
kê, phân tích tổng hợp, so sánh đối chiếu, trao đổi chuyên gia... để phân tích
tình hình tội phạm buôn lậu và luận chứng các vấn đề cần nghiên cứu trong
phạm vi đề tài này.
6. Điểm mới của luận văn
- Tổng kết những phương thức thủ đoạn mới nổi lên của tội phạm buôn
lậu, đồng thời nghiên cứu làm rõ các đặc điểm tội phạm học của tội phạm
buôn lậu và nguyên nhân, điều kiện tội phạm buôn lậu một cách hệ thống trên
tất cả các tuyến biên giới.
- Dự báo tình hình buôn lậu và tội phạm buôn lậu ở nước ta trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực để đưa ra những giải pháp đấu tranh
phòng, chống thích hợp.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn có kết cấu
chính gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về buôn lậu, tội phạm buôn lậu và
đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu
4
Chương 2: Thực trạng tình hình tội phạm buôn lậu ở nước ta trong 5
năm (từ 1998 - 2002)
Chương 3: Nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng, chống tội
phạm buôn lậu ở nước ta
5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BUÔN LẬU, TỘI PHẠM BUÔN
LẬU
VÀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM BUÔN LẬU
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ BUÔN LẬU VÀ TỘI PHẠM BUÔN LẬU
1.1.1. Khái niệm buôn lậu và tội phạm buôn lậu
Hoạt động trao đổi, buôn bán hàng hoá xuất hiện từ khi nền kinh tế - xã
hội đã phát triển đến một trình độ nhất định, của cải trong xã hội không những
đủ đảm bảo cho đời sống của các thành viên trong xã hội mà còn có tích luỹ
và dư thừa. Quá trình trao đổi, buôn bán lúc đầu chỉ là sự trao đổi những mặt
hàng thiết yếu phục vụ cho đời sống và sản xuất trong phạm vi nhỏ hẹp giữa
các cá nhân có nhu cầu. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, trao
đổi hàng hoá cũng không ngừng phát triển và làm xuất hiện tầng lớp thương
nhân chuyên làm trung gian trao đổi hàng hoá giữa người sản xuất và người
tiêu dùng. Hoạt động của tầng lớp thương nhân khiến cho việc trao đổi hàng
hoá không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà còn ngày càng phát
triển rộng trên phạm vi toàn cầu. Sự mở rộng phạm vi của hoạt động mua bán,
trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, sản xuất dần đi tới sự chuyên môn hoá cao. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển của thương mại quốc tế thì hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại
cũng phát triển làm tổn hại đến lợi ích của các quốc gia tham gia thương mại
quốc tế. Có thể nói buôn lậu là hiện tượng kinh tế - xã hội tiêu cực, phức tạp,
xuất hiện trong hoạt động lưu thông hàng hoá cùng với sự ra đời của hàng rào
thuế quan [37, tr.7]. Một trong những nguyên nhân tồn tại và phát triển của
tình trạng buôn lậu là sự chênh lệch về giá cả và nhu cầu sử dụng hàng hoá ở
các vùng địa lý khác nhau, giữa các nền kinh tế có sức sản xuất khác nhau.
Khái niệm về buôn lậu cho đến nay vẫn còn là một vấn đề gây nhiều
tranh cãi. Một số quốc gia trên Thế giới thì coi buôn lậu là hành vi gian lận
thương mại đặc biệt nguy hiểm. Công ước Quốc tế Nairobi đã đưa ra khái
6
niệm "buôn lậu là gian lận thương mại nhằm che giấu sự kiểm tra, kiểm soát
của hải quan bằng mọi thủ đoạn, phương tiện trong việc đưa hàng hoá lén lút
qua biên giới" [37, tr.9].
Ở Việt Nam, "buôn lậu" có lúc được hiểu là "Mua bán lén lút, trái phép
những hàng hoá thuộc diện Nhà nước cấm hoặc Nhà nước thống nhất quản
lý"[7, tr.60]. Theo Từ điển Tiếng Việt, buôn lậu có nghĩa là “buôn bán hàng
hoá trốn thuế hoặc hàng quốc cấm”[49, tr.87]; còn Từ điển Bách khoa Việt
Nam thì định nghĩa “buôn lậu” là “hành vi buôn bán trái phép qua biên giới
những loại hàng hoá hoặc ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, những vật phẩm
thuộc di tích lịch sử, văn hoá mà Nhà nước cấm xuất khẩu hay nhập khẩu
hoặc buôn bán hàng hoá nói chung mà trốn thuế và trốn sự kiểm tra của hải
quan; hành vi buôn bán trốn thuế, lậu thuế những loại hàng hoá ở trong nước
mà Nhà nước cấm kinh doanh”[22, tr.291]. Như vậy, có thể hiểu buôn lậu là
buôn bán trái phép qua biên giới các loại hàng hoá, tiền tệ nói chung, kể cả
các loại hàng cấm hoặc hàng không cấm, vi phạm các quy định về xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hoá, tiền tệ mà nhà nước đã ban hành. Các hành vi buôn bán
trái phép các loại hàng hoá, tiền tệ qua biên giới được nhiều người thực hiện
trong khoảng thời gian dài từ năm này sang năm khác, mặc dù đã bị các cơ
quan chức năng của nhà nước xử lý bằng nhiều hình thức khác nhau mà vẫn
không thể ngăn chặn, loại trừ được có thể gọi là tệ nạn buôn lậu. Tệ nạn buôn
lậu tồn tại, phát triển ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả ở Việt Nam đã
kéo dài hàng trăm năm.
Để đấu tranh với nạn buôn lậu, nhiều nước trên thế giới nói chung và
nhà nước ta nói riêng có quy định các hình thức xử lý khác nhau, tuỳ thuộc
vào tính chất và mức độ vi phạm của hành vi buôn bán trái phép hàng hoá,
tiền tệ qua biên giới. Một trong những hình thức xử lý hành vi buôn lậu
nghiêm khắc nhất là quy định hình phạt đối với tội phạm buôn lậu trong luật
hình sự. Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
Quốc hội thông qua ngày 21-12-1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-77
2000 đã có quy định về tội phạm buôn lậu tại Điều 153, chương XVI - Các
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Theo Điều 153, người nào buôn bán
trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá
quý có giá trị từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc dưới 100 triệu
đồng nhưng đã bị xử phạt về hành chính theo quy định tại Điều luật này (tái
phạm hành chính) hoặc tại một trong các Điều 154, 155, 156, 157, 158, 159,
160, 161 của Bộ luật Hình sự hoặc đã bị kết án về một trong các tội này,
chưa được xoá án tích mà còn vi phạm (tái phạm hình sự); vật phẩm thuộc di
tích lịch sử, văn hoá; hàng cấm có số lượng lớn hoặc hàng cấm có số lượng
chưa được coi là lớn nhưng lại tái phạm hành chính hoặc tái phạm hình sự
thì cấu thành tội buôn lậu. Như vậy chúng ta có thể xây dựng một khái niệm
chung nhất về tội buôn lậu như sau: Tội phạm buôn lậu là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định tại điều 153, Bộ luật Hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện, do cố ý bằng cách buôn bán trái phép qua
biên giới những loại hàng hoá, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, những vật phẩm
thuộc di tích lịch sử, văn hoá, hàng cấm.
1.1.2. Khái quát tình hình buôn lậu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, buôn lậu xuất hiện từ rất sớm và được xem là một hiện
tượng tiêu cực của kinh tế - xã hội. Những tập quán sinh hoạt, tâm lý xã hội
và điều kiện địa lý, chính trị... là những lý do đã góp phần làm cho người Việt
Nam trong một thời gian dài không quen với hoạt động kinh doanh giao lưu
thương mại và cung cách làm ăn lớn. Bên cạnh đó, ta thấy rằng trong suốt một
thời gian dài, Nhà nước ta luôn phải đương đầu với các cuộc chiến tranh xâm
lược, thời gian và công sức dành cho các hoạt động thương mại chưa nhiều.
Tuy vậy, khi đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập, tự chủ và đặc biệt là từ
triều đại nhà Lý (Thế kỷ X) đến các triều đại phong kiến Việt Nam (Trần, Lê,
Nguyễn) đã rất chú ý đến vấn đề chống buôn bán gian lận qua biên giới. Khái
niệm buôn lậu lúc đầu được hiểu chung chung bao gồm các hành vi buôn bán
8
hàng cấm, buôn bán hàng trốn thuế, lậu thuế và cũng chỉ mới tập trung vào
loại hàng hoá là thuốc phiện [50, tr.20].
Qua các giai đoạn lịch sử, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã ban hành
nhiều đạo luật khác nhau để đấu tranh, ngăn chặn hoạt động buôn lậu và tội
phạm buôn lậu. Năm 1149, vua Lý Anh Tông đã định ra chức quan Án sát để
kiểm soát việc buôn bán của các tàu thuyền nước ngoài tại các tụ điểm quan
trọng ở cửa ngõ biên giới, như bến Vân Đồn (một cửa biển thuộc huyện Cẩm
Phả, tỉnh Quảng Ninh ngày nay). Tại đây, án sát quan làm nhiệm vụ chỉ huy
thuỷ binh để canh phòng, kiểm soát bờ biển và thu thuế những hàng hoá được
buôn bán với nước ngoài [25, tr.32]. Đến nhà Lê, triều đình đặt ra chức Tuần
ty để thu thuế ở các cửa ải và các khu chợ. Thời kỳ này, cả nước có khoảng
400 Tuần ty, điều này chứng tỏ rằng việc kiểm soát, thu thuế, ngăn chặn buôn
lậu đã được Nhà nước phong kiến coi trọng. Nhà Lê còn ban hành chiếu chỉ
cho các trấn lân cận phải dùng mọi cách để ngăn chặn việc gian thương
chuyên chở ra nước ngoài các loại hàng quốc cấm, tiền, vàng bạc... Điều 615,
Bộ luật Hồng Đức (ban hành năm 1483) quy định: Biếm hoặc bãi chức An
phủ ty nếu không ngăn chặn được việc chở hàng trốn thuế của người ngoại
quốc phương Bắc; bên cạnh đó, triều đình sẽ trừng trị (hạ chức - biếm, đồ)
nếu các quan vâng mệnh đi sứ nước ngoài chỉ lo buôn bán kiếm lời tư túi, nếu
giấu diếm không khai với quan ải thì xử hạ chức hoặc bãi chức, đồ vật bị tịch
thu sung công (Điều 221, Bộ luật Hồng Đức) [34, tr.95-96]. Cuối thời Lê, để
ngăn chặn nạn lái buôn Trung Quốc mua gom hết gạo trong nhân dân, năm
1785, Chúa Trịnh đã chọn đất mở chợ, định giá mua bán rõ ràng và lệnh cho
các trấn tuần xét vùng biển kỹ lưỡng, chống việc buôn bán trộm gạo ra nước
ngoài bằng đường biển [25, tr.32]. Đồng thời, triều đình cũng rất chú trọng
đến việc quản lý, khám soát thuyền buôn nước ngoài chở hàng vào Việt Nam.
Theo Lê Quý Đôn, tại cảng Hội An thời Trịnh - Nguyễn, tàu buôn nước ngoài
khi vào Hội An thì Thuyền trưởng và Tài phó phải trình cai bạ, sau khi cai bạ
xác nhận đã làm tờ khai đầy đủ và báo cho cai tàu, Tuần ty đưa tàu vào bến
9
cửa biển rồi bến Sở tuần; sau đó, các Nha đến khám xét, điểm mục kê khai
của Thuyền trưởng, Tài phó về số người, hàng hoá. Thuyền trưởng phải kê
khai cụ thể hoá vật trong tàu, nếu giấu diếm từ một vật trở lên khi khám thấy
sẽ bị tịch thu và trị tội theo phép nước [24, tr.232-233].
Triều Gia Long còn có thể chế thành luật pháp về thuế quan, ngăn ngừa
buôn lậu. Điều 133, Luật Gia Long quy định rõ: Tất cả các tàu buôn nước
ngoài khi cập cảng phải khai báo ngay lập tức, đầy đủ và thành thật mọi loại
hàng để chịu thuế Nhà nước, những hàng hoá không kê khai đầy đủ đều bị
tịch thu sung công. Ai gian lận đem ra khỏi bờ cõi ngựa, bò, quân dụng hay
sắt thép để làm khí giới hay tiền, tơ lụa, gấm vóc, bông vải để bán cho nước
ngoài sẽ bị phạt một trăm trượng. Thuyền dùng để chở đều bị sung công, 3/10
của tổng số hàng hoá sẽ được dùng để thưởng cho người tố giác kẻ buôn lậu
[50, tr.22]. Ngoài ra, triều đình đã ban hành lệnh cấm tất cả các thuyền buôn
từ Tân Châu (Trung Quốc) vào Việt Nam và khám xét tất cả các thuyền buôn
nước ngoài vào các cảng dọc theo bờ biển nước ta [40, tr.34].
Như vậy, các triều đình phong kiến Việt Nam từ Thế kỷ X đã rất chú ý
đến việc chống buôn lậu, đặc biệt là tại các cảng và tàu buôn nước ngoài.
Trong lịch sử hiện đại của Việt Nam, ngay sau khi giành được chính
quyền, nhận thức rõ những tác động tiêu cực của tệ buôn lậu đối với nền kinh
tế quốc dân nên Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ban
hành Sắc lệnh số 27/SL ngày 10-9-1945 thành lập Sở thuế quan và thuế gián
thu. Cơ quan này có nhiệm vụ thu thuế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, chống
buôn lậu thuốc phiện và giải quyết các vi phạm về thuế quan và thuế gián thu.
Đồng thời, Nhà nước ta cũng đã ban hành Sắc lệnh số 50/SL ngày 09-10-1945
- là văn bản pháp luật hình sự đầu tiên của Chính phủ mới [50, tr.13], trong đó
có quy định về cấm xuất cảng ngũ cốc. Điều 1, Sắc lệnh 50/SL ghi rõ: “Từ
ngày Sắc lệnh này cho đến khi có Sắc lệnh mới, khắp toàn cõi Việt Nam cấm
hẳn xuất cảng ra ngoại quốc thóc, gạo, ngô, đỗ hoặc các chế phẩm về ngũ
cốc”. Ngày 21-8-1946, Nhà nước ban hành tiếp Sắc lệnh 160/SL cấm nhập
10
cảng xe hơi, phụ tùng xe hơi, các máy móc và đồ vật bằng kim khí. Để xử lý
những vi phạm trong hoạt động xuất nhập khẩu, ngày 15-8-1951, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Điều lệ tạm thời số 116/TTg quy định các hình thức
xử phạt những vi phạm Điều lệ xuất nhập khẩu. Ngày 22-12-1952, Chính phủ
lại ban hành Nghị định số 225/TTg, trong đó quy định: Tịch thu thuốc phiện
tàng trữ hoặc vận chuyển, buôn bán trái phép, phạt tiền từ 1 đến 5 lần giá trị
của hàng hoá. Người vi phạm có thể bị truy tố trước Toà án nhân dân.
Sau khi miền Bắc giải phóng, trong điều kiện đất nước bước vào thời kỳ
cải tạo và xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, cùng với việc tập trung khôi phục kinh tế, phát triển sản xuất,
Nhà nước ta tiếp tục chú trọng đến việc đấu phòng, chống các loại tội phạm,
trong đó có tội phạm buôn lậu nhằm bảo vệ sản xuất nội địa, mở rộng giao lưu
thương mại. Nghị định số 580/TTg ngày 15-9-1955 đã quy định xử lý những
trường hợp có thể đưa ra toà xét xử, trong đó có buôn lậu thuốc phiện mà nhiều
người tham dự, dùng thủ đoạn gian lận. Ngày 03-7-1966, Thủ tướng Chính phủ
ra Chỉ thị số 118/TTg về tăng cường quản lý thị trường, đấu tranh chống đầu cơ
buôn lậu trong tình hình mới. Chỉ thị nêu rõ: "Đối với các hoạt động đầu cơ
buôn lậu cần phải xử lý nghiêm khắc theo các thể lệ Nhà nước đã ban hành".
Chỉ thị cũng quy định: "Việc xử lý các vụ việc vi phạm sẽ căn cứ và các quy
định của Sắc luật số 001/Sl ngày 14-4-1957, Nghị định số 163/TTg ngày 19-41957". Có thể nói từ năm 1945 đến những năm cuối của thập kỷ 60, hoạt động
chống buôn lậu của chúng ta chủ yếu tập trung vào phòng chống các tội phạm
buôn lậu thuốc phiện và các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống.
Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước hoàn toàn độc lập, việc
thống nhất và khôi phục nền kinh tế càng được Nhà nước ta quan tâm hơn.
Đồng thời, để bảo hộ nền sản xuất trong nước, Hội đồng Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 76/CP ngày 25-3-1977 về chống đầu cơ, buôn lậu. Đến
năm 1982, nhằm ban hành những quy định pháp lý cụ thể, rõ ràng hơn và có
hiệu lực cao hơn để đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu, ngày 30-611
1982, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh chống đầu cơ, buôn lậu. Sau
đó, ngày 10-5-1983, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 46/HĐBT
quy định về việc xử lý hành chính đối với các hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm
hàng giả và kinh doanh trái phép. Tuy vậy, buôn lậu vẫn không có dấu hiệu
thuyên giảm. Thời kỳ này, tội buôn lậu thường gắn với tội đầu cơ, kinh doanh
trái phép; đối tượng tác động của tội phạm buôn lậu là các mặt hàng thiết yếu
cho cuộc sống của nhân dân, số lượng hàng hoá buôn lậu thường không lớn.
Trước tình hình đó, năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định
số 68/HĐBT ngày 25-4-1984 về chống buôn lậu và vận chuyển hàng hoá, tiền
tệ qua biên giới.
Cùng với sự phát triển của đất nước, Bộ luật Hình sự của nước ta, được
Quốc hội thông qua ngày 27-6-1985 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng
trong hoạt động lập pháp của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các
quy định về tội buôn lậu trong Bộ luật Hình sự năm 1985 đã có sự xác định rõ
ranh giới giữa tội buôn lậu và các hành vi vi phạm hành chính về buôn lậu,
đồng thời tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng
trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu. Tội buôn lậu hoặc
vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới được quy định tại Điều
97, Chương các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia. Điều luật này đã được
Quốc hội sửa đổi lần thứ nhất vào ngày 18-12-1989 theo hướng cụ thể hoá đối
tượng tác động của tội phạm buôn lậu là: các loại hàng hoá, tiền Việt Nam,
ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá. Để
ngăn chặn, đấu tranh mạnh hơn với tội phạm buôn lậu, vận chuyển hàng hoá,
tiền tệ trái phép qua biên giới, Quốc hội nước ta đã sửa đổi điều luật này lần
thứ 2 vào ngày 22-12-1992 theo hướng quy định mức hình phạt nặng hơn
(khung hình phạt cao nhất được tăng từ tù chung thân lên tử hình), hình phạt
bổ sung có quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 năm đến 5 năm; người phạm tội có
thể bị phạt tiền đến gấp 10 lần giá trị hàng hoá phạm pháp; có thể bị tịch thu
12
một phần hoặc toàn bộ tài sản. Ngoài ra, người phạm tội có thể bị tước một số
quyền công dân từ 1 năm đến 5 năm.
Trước những thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội và yêu cầu thực tế
của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm buôn lậu
nói riêng, Bộ luật Hình sự năm 1985 đã được Quốc hội sửa đổi và thông qua
ngày 21-12-1999 (có hiệu lực thi hành vào ngày 01-7-2000). Theo đó, để thực
hiện nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự, xử lý có phân biệt trong Luật
hình sự nước ta, Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua
biên giới ( Điều 97, Bộ luật Hình sự 1985) được tách thành hai tội: Tội buôn
lậu (Điều 153, Bộ luật Hình sự 1999) và Tội vận chuyển trái phép hàng hoá,
tiền tệ qua biên giới (Điều 154) [1, tr.186]; đồng thời, trên cơ sở xác định lại
khách thể của tội phạm, tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá tiền
tệ qua biên giới trước đây được chuyển về chương các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế (Chương XVI, Bộ luật Hình sự) [1, tr.181].
Nhìn chung, trong thời kỳ nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp thì buôn lậu chỉ là một khái niệm bao gồm các hành
vi buôn bán hàng cấm, buôn bán trốn lậu thuế. Khi kinh tế - xã hội chuyển
sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì hoạt
động buôn lậu lại càng diễn ra nghiêm trọng và phức tạp hơn. Do đó, Nhà
nước đã nhanh chóng xây dựng những chế định pháp luật phù hợp nhằm kịp
thời điều chỉnh vấn đề này, trong đó luật Hình sự cũng quy định về tội danh
buôn lậu một cách cụ thể và khái quát hơn.
1.1.3. Phân biệt tội buôn lậu với một số tội và hành vi tương tự
Để phân biệt tội phạm buôn lậu với các hành vi tương tự cần nắm được
các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này được quy định trong Bộ luật hình sự.
Theo Điều 153 Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội buôn lậu cho thấy: Khách
thể của tội buôn lậu là sự xâm phạm trật tự quản lý Nhà nước về ngoại
thương; xâm phạm chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước, chính sách bảo
13
hộ sản xuất trong nước. Mặt khách quan của tội phạm buôn lậu được thể
hiện ở các loại hành vi sau đây:
a) Buôn bán trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ,
kim khí quý, đá quý (hành vi này được coi là tội phạm khi hàng hoá, tiền Việt
Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên hoặc
người có hành vi đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án và chưa được
xoá án tích về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các Điều 154,
155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 Bộ luật Hình sự);
b) Buôn bán trái phép qua biên giới vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn
hoá (hành vi này luôn bị coi là tội phạm, không phụ thuộc vào giá trị của vật
phẩm bị buôn bán qua biên giới);
c) Buôn bán trái phép qua biên giới các loại hàng cấm theo danh mục
do Nhà nước ban hành (hành vi này bị coi là tội phạm khi hàng cấm được
buôn bán qua biên giới có số lượng lớn hoặc người buôn bán đã bị xử phạt
hành chính hoặc đã bị kết án và chưa được xoá án tích về hành vi quy định
tại Điều 153 hoặc một trong các Điều 154, 155, 156, 157, 157, 159, 160, 161
Bộ luật hình sự).
Buôn bán trái phép qua biên giới các mặt hàng kể trên là hành vi trao
đổi các mặt hàng này qua biên giới quốc gia thông qua các tuyến đường bộ,
đường biển, hàng không, đường sắt, đường bưu điện quốc tế... trái với các
quy định của Nhà nước về hải quan, thương mại như: không khai báo, khai
báo gian dối, dùng giấy tờ giả mạo, giấu diếm hàng hoá, không có giấy tờ hợp
lệ của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền, trốn tránh sự kiểm soát của
cơ quan hải quan, biên phòng, thuế vụ [30, tr.421]. Tội phạm buôn lậu được
coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi trao đổi hàng
hoá một cách trái phép qua biên giới Việt Nam. Địa điểm phạm tội là dấu hiệu
bắt buộc của cấu thành tội phạm buôn lậu. Ở đây, việc xác định hành vi buôn
bán trái phép đã qua biên giới hay chưa phải dựa vào hàng hoá - đối tượng tác
14
động của tội phạm buôn lậu đã thoát khỏi sự kiểm soát của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hay chưa.
Mặt chủ quan của tội phạm buôn lậu thể hiện rõ ở lỗi của người phạm
tội luôn là lỗi cố ý trực tiếp, tức là người thực hiện hành vi buôn lậu nhận thức
được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhận thức rõ sự phản ứng mang
tính tiêu cực của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi này nhưng họ vẫn
mong muốn thực hiện hành vi của đến cùng. Mục đích của người phạm tội
buôn lậu là lợi nhuận thu được từ hành vi buôn bán trái phép qua biên giới mà
họ thực hiện. Chủ thể của tội phạm buôn lậu là bất cứ ai (người Việt Nam
hay người nước ngoài, kể cả người không quốc tịch) có năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi theo luật định, đã thực hiện hành vi buôn bán trái phép
hàng hoá qua biên giới Việt Nam nhằm mục đích kiếm lời.
Hiện nay, trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu,
các cơ quan, lực lượng chức năng có lúc, có nơi chưa có sự nhận thức sâu sắc,
thống nhất giữa một số loại tội phạm nói chung với nhau, trong đó chưa có sự
phân biệt chưa rõ ràng giữa tội phạm buôn lậu và hành vi buôn lậu không phải
là tội phạm; tội phạm buôn lậu với tội phạm vận chuyển hàng hoá trái phép
qua biên giới; tội phạm buôn lậu với tội phạm buôn bán hàng cấm; hành vi
buôn lậu và hành vi gian lận thương mại. Do đó, việc tìm hiểu những điểm
giống nhau, khác nhau và mối quan hệ giữa chúng có một ý nghĩa rất quan
trọng không chỉ về mặt lý luận mà cả trong thực tiễn.
1. Phân biệt tội buôn lậu và hành vi buôn lậu không phải là tội phạm
Giữa tội phạm buôn lậu và hành vi buôn lậu không phải là tội phạm có
nhiều điểm giống nhau và khác nhau đòi hỏi phải được phân biệt rạch ròi để
tránh những sai lầm đáng tiếc trong việc xác định mức độ vi phạm và áp dụng
các biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm đó. Ở đây ta nhận thấy, tội phạm
buôn lậu và hành vi buôn lậu không bị coi là tội phạm có những điểm chung
sau đây:
15
Thứ nhất, tội phạm buôn lậu và hành vi buôn lậu không phải là tội
phạm đều xâm phạm đến chế độ, chính sách xuất khẩu, nhập khẩu của Nhà
nước - quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ.
Thứ hai, cả tội phạm buôn lậu và hành vi buôn lậu không phải là tội
phạm đều được thể hiện bằng hành vi buôn bán trái phép qua biên giới các
loại hàng hoá, tiền tệ, kim khí quý, đá quý và hàng cấm.
Thứ ba, cả hai đều giống nhau về yếu tố lỗi. Tội phạm buôn lậu và
hành vi buôn lậu không phải là tội phạm đều được thực hiện do lỗi cố ý (cố ý
trực tiếp). Nói cách khác, người thực hiện hành vi nhận thức được hành vi
buôn bán trái phép qua biên giới là hành vi vi phạm pháp luật, thấy trước
được hậu quả xảy ra và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Thứ tư, người phạm tội buôn lậu và người thực hiện hành vi buôn lậu
không phải là tội phạm đều có mục đích giống nhau là hướng tới lợi nhuận
thu được từ việc mua bán trái phép qua biên giới bằng các thủ đoạn gian dối:
trốn thuế, khai sai sự thật, trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của hải quan và
các lực lượng chức năng khác...
Mặc dù có sự giống nhau nhưng giữa tội phạm buôn lậu và hành vi
buôn lậu không phải là tội phạm có những điểm khác nhau cơ bản sau: Trước
hết, đối tượng tác động của hành vi buôn lậu không phải là tội phạm hẹp hơn
đối tượng tác động của tội phạm buôn lậu. Đối tượng tác động của hành vi
buôn lậu không phải là tội phạm bao gồm các loại hàng hoá, tiền Việt Nam,
ngoại tệ, kim khí quý, đá quý; và hàng cấm; đối tượng tác động của Tội phạm
buôn lậu ngoài những đối tượng nêu trên còn có thêm loại đối tượng nữa là
vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá. Theo quy định của Điều 153, Bộ luật
Hình sự thì hành vi buôn bán trái phép qua biên giới vật phẩm thuộc di tích
lịch sử, văn hoá luôn bị coi là tội phạm không kể số lượng vật phẩm hay giá
trị của vật phẩm [35, tr.47].
Thứ hai, hành vi phạm tội buôn lậu là hành vi có tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội cao hơn hành vi buôn lậu không phải là tội phạm. Cụ thể theo
16
Điều 153, Bộ luật Hình sự 1999: Nếu người nào thực hiện hành vi buôn bán
trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý
có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên (hay hàng cấm có số lượng lớn) thì bị coi là
phạm tội buôn lậu; đồng thời, nếu giá trị hàng hoá dưới một 100 triệu đồng
(hoặc hàng cấm có số lượng chưa được coi là lớn) nhưng người thực hiện hành
vi đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc là hành vi quy định
tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật
Hình sự, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này chưa được xoá án tích mà
còn vi phạm cũng bị coi là phạm tội buôn lậu. Điều đó cũng có nghĩa là người
thực hiện hành vi như trên nhưng giá trị hàng hoá phạm pháp dưới 100 triệu
đồng (hàng cấm có số lượng chưa được coi là lớn) và chưa bị xử phạt hành
chính lần nào về hành vi buôn lậu hoặc một trong các hành vi được quy định
trong các điều từ 154 đến 161, Bộ luật Hình sự thì không bị coi là tội phạm
buôn lậu, mà bị coi là hành vi buôn lậu không phải là tội phạm và được xử lý
theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan.
Thứ ba, hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi buôn bán trái phép
qua biên giới của tội phạm buôn lậu nếu bị kết án và bị áp dụng hình phạt thì
còn bị coi là có án tích. Trong khi đó người có hành vi buôn lậu không bị coi là
tội phạm nếu bị xử lý chỉ là xử phạt vi phạm hành chính và không có án tích.
2. Phân biệt tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ
qua biên giới (Điều 154, Bộ luật Hình sự 1999)
Trước đây, Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định hai tội phạm này trong
cùng một điều luật (Điều 97, Bộ luật Hình sự 1985, Tội buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới). Nhưng Bộ luật Hình sự năm
1999 lại tách riêng hai tội phạm này và quy định tại hai điều khoản khác nhau:
Tội buôn lậu được quy định tại Điều 153, Tội vận chuyển trái phép hàng hoá,
tiền tệ qua biên giới được quy định tại Điều 154.
17
- Xem thêm -