Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đào tạo thẩm phán của học viên tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp ở việt nam ...

Tài liệu đào tạo thẩm phán của học viên tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp ở việt nam hiện nay

.PDF
73
40
50

Mô tả:

LUẬN VĂN: Đào tạo thẩm phán của Học viên Tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kể từ khi thành lập cho đến nay công tác đào tạo các chức danh tư pháp nói chung và công tác đào tạo chức danh Thẩm phán nói riêng của Học viện Tư pháp đã có những bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Học viên Tư pháp đã không ngừng nâng cao trình độ của các giảng viên, hoàn thiện chương trình, đổi mới phương pháp, tăng cường cơ sở vất chất…để đào tạo và cung cấp cho ngành tòa án những cán bộ có trình độ chuyên môn, có năng lực trong hoạt động xét xử. Tuy vậy, trong quá trình nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống quốc tế, nhất là hội nhập kinh tế quốc tế, với chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhiều vấn đề, nhiều yêu cầu mới đang được đặt ra trước mắt cũng như lâu dài. Trong quá trình hoạt động của mình các Thẩm phán được đào tạo trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành công nhưng khi đối mặt với những đòi hỏi của quá trình cải cách tư pháp hiện nay thì đội ngũ thẩm phán của chúng ta chưa đáp ứng được. Tình trạng xét xử oan, sai tuy không nhiều nhưng vẫn còn, nhiều vấn đề liên quan đến xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài, sỡ hữu trí tuệ, thương mại quốc tế, các loại tội phạm hình sự xuyên quốc gia, hầu như còn mới lạ, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học vào nghiên cứu luật pháp quốc tế phục vụ cho hoạt động xét xử đối với nhiều thẩm phán đã được đào tạo còn hạn chế. Điều đó cho thấy đội ngũ thẩm phán đã được đào tạo chưa đủ năng lực để đối mặt với những thách thức mới. Trong bối cảnh đó, việc đào tạo được một đội ngũ thẩm phán có trình độ, có năng lực toàn diện và phẩm chất tốt để giải quyết tốt những yêu cầu xét xử của ngành tòa án do công cuộc cải cách tư pháp đặt ra trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế là một yêu cầu vô cùng bức xúc. Đội ngũ thẩm phán có trình độ, năng lực phục vụ cho công cuộc cải cách tư pháp phải là những người có kiến thức về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, làm chủ các tiến bộ của khoa học kỹ thuật, có phẩm chất đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ chức danh tư pháp nói chung và đội ngũ thẩm phán nói riêng. Đồng thời đặt ra mục tiêu phải đào tạo: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ, tiến tới thi tuyển đối với một số chức danh” [2]. Công cuộc cải cách tư pháp của nước ta hiện nay đòi hỏi Học viên Tư pháp phải đào tạo một đội ngũ thẩm phán có trình độ, năng lực đủ khả năng xét xử các vụ án và giải quyết các vấn đề quan trọng khác của ngành tòa án trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Tuy vậy việc đào tạo đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu của công cuộc cuộc cách tư pháp hiện nay ở nước ta không đơn giản. Cần phải tìm hiểu những vấn đề thuộc về phẩm chất và năng lực của đội ngũ thẩm phán, xác định các tiêu chí theo yêu cầu của cải cách tư pháp, cũng như cách thức để đạt được các tiêu chí đó. Việc này đòi hỏi sự nghiên cứu, tìm hiểu cả về lý luận và thực tiễn. Nhất là nghiên cứu quy trình đào tạo thẩm phán của Học viên Tư pháp, tìm ra cách thức khắc phục những khiếm khuyết của quy trình đó. Dựa vào các tiêu chí, đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ thể nhằm đào tạo đội ngũ thẩm phán đáp ứng các yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Trên quan điểm quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp quyền về cải cách hệ thống cơ quan tư pháp, quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục. Những vấn đề trên đã đặt ra yêu cầu nghiên cứu đề tài: “Đào tạo thẩm phán của Học viên Tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ lâu công tác đào tạo thẩm phán đã được quan tâm và coi trọng nhằm đảm bảo xây dựng được một đội ngũ thẩm phán có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp. Đào tạo thẩm phán đã được nghiên cứu trong đào tạo các chức danh tư pháp nói chung của Bộ Tư pháp, Học viện Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và một số nhà khoa học khác, có thể kể đến các công trình nghiên cứu như sau: * Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp Trường: + Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: - Đào tạo thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao, (2004) - Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng môn đạo đức nghề nghiệp tư pháp cho các chức danh tư pháp, (2004). - Đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam, (2006). - Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương, (2007). - Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng tập hệ thống hóa các vụ án điển hình dùng làm tài liệu cho công tác đào tạo các chức danh tư pháp, (2008). - Hoàn thiện phương pháp đào tạo các chức danh tư pháp, (2009). + Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: - Xây dựng chương trình đào tạo kiểm sát viên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, (2004). - Đào tạo các chức danh tư pháp phục vụ công cuộc cải cách tư pháp, (2006). * Đề án xây dựng Học viên Tư pháp ngày 11/8/2003 - Luận án Tiến sĩ Luật học: Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán của NCS Đỗ Gia Thư, năm 2006 - Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay TS Trần Đình Thắng – NXBCTQG, năm 2009. Nội dung nghiên cứu của các công trình trên đây đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, thực tiễn quan trọng về đào tạo các các chức danh tư pháp nhưng chưa luận chứng một cách toàn diện cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất phương hướng giải pháp về đào tạo thẩm phán - Một chức danh đặc thù, có vị trí, vai trò quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Mặc dù vậy các công trình khoa học đã được công bố trên sẽ là những tài liệu có giá trị nghiên cứu khi viết luận văn này. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề đào tạo thẩm phán của Học viên Tư pháp theo yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4. Mục đích và nhiêm vụ nghiên cứu Đề tài đặt ra mục đích xác định một số nguyên nhân chủ yếu đã dẫn đến tình trạng hạn chế trong công tác đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp, trên cơ sở đó phát hiện, tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng hiệu quả của công tác đào tạo thẩm phán của Học viên Tư pháp theo yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Từ mục đích nghiên cứu trên, đề tài đã đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: - Phân tích cơ sở lý luận và đánh giá vai trò công tác đào tạo thẩm phán của Học viên Tư pháp ở Việt Nam hiện nay. - Phân tích thực trạng chất lượng đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp, qua đó chỉ ra những hạn chế bất cập cần khắc phục và tìm ra những nguyên nhân của những của hạn chế đó. - Đề xuất các giải pháp đổi mới công tác đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp theo yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra luận văn đã dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và nhà nước về đào tạo chức danh tư pháp trong đó có đào tạo thẩm phán, về cải cách tư pháp Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, trong đó các phương pháp sử dụng chủ yếu là: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn …Tuy nhiên do tính chất của từng chương, từng phần của luận văn mà có thể sử dụng một trong các phương pháp trên làm chủ đạo. Trong chương 1, phương pháp sử dụng chủ yếu là phương pháp phân tích tổng hợp; chương 2 và chương 3, phương pháp sử dụng chủ yếu là phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, phương pháp thống kê, so sánh… 6. Những điểm mới của luận văn - Góp phần hệ thống hoá các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đào tạo thẩm phán. - Đánh giá đúng thực trạng chất lượng đào tạo thẩm phán ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo thẩm phán theo yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp, ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 10 tiết. MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO THẨM PHÁN THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo thẩm phán 6 1.2. Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với công tác đào tạo thẩm phán ở nước ta hiện nay 1.3. Đào tạo thẩm phán ở một số quốc gia và bài học kinh nghiệm 24 30 Chương 2: TÌNH HÌNH ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN VÀ THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THẨM PHÁN CỦA HỌC VIỆN TƯ PHÁP GIAI ĐOẠN 1998-2008 38 2.1. Tình hình số lượng, chất lượng đội ngũ thẩm phán hiện nay 38 2.2. Thực trạng đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp 41 2.3. Kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong công tác đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp 46 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO THẨM PHÁN THEO YÊU CẦU CÁI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Quan điểm đổi mới công tác đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp 58 58 theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay 3.2. Giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo thẩm phán của Học viện Tư pháp ở Việt Nam hiện nay 62 KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79 DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Trang Bảng 2.1: Về số lượng thẩm phán tham gia giảng dạy các lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử 45 Bảng 2.2: Về học hàm, học vị của giảng viên 46 Bảng 2.3: Về tỷ lệ giảng dạy 46 Bảng 2.4: Thống kê số lượng đào tạo thẩm phán từ 2004-2008 48 Biểu đồ 2.1: Đào tạo thẩm phán 1998-2008 47 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO THẨM PHÁN THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG, HÌNH THỨC, PHƯƠNG PHÁP ĐÀO TẠO THẨM PHÁN 1.1.1. Khái niệm đào tạo và đào tạo thẩm phán 1.1.1.1. Khái niệm đào tạo Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển học “Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra [34, tr.739]. Từ định nghĩa giáo dục trên cho thấy về bản chất, giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp thu những kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người. Về hoạt động, giáo dục là quá trình tác động đến đối tượng giáo dục để hình thành cho họ những phẩm chất, nhân cách. Khác với giáo dục, Đào tạo là “làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định” [34, tr.298]. Đào tạo được xem là quá trình tác động đến con người làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo..một cách hệ thống, nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định. Như vậy khái niệm “đào tạo có nghĩa hẹp hơn khái niệm giáo dục, thường đào tạo đề cập đến giai đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, có một trình độ nhất định” [35]. Đào tạo được xác định như là quá trình làm biến đổi hành vi con người một cách có hệ thống, thông qua việc học tập, việc học tập này có được là kết quả của việc giáo dục, hướng dẫn, phát triển và lĩnh hội kinh nghiệm một cách có kế hoạch. Ủy ban nhân lực Anh đã đưa ra định nghĩa: Đào tạo được xác định là một quá trình có kế hoạch làm biến đổi thái độ, kiến thức hoặc kỹ năng thông qua việc học tập rèn luyện để làm việc có hiệu quả trong một hoạt động hay trong một loạt các hoạt động nào đó. Mục đích của nó, xét theo tình hình công tác ở cơ quan là phát triển nâng cao năng lực cá nhân và đáp ứng nhu cầu nhân lực hiện tại và tương lai của cơ quan [28, tr.529]. Từ phân tích các quan niệm khác nhau về đào tạo trên cho thấy, đào tạo có các đặc điểm sau: - Đào tạo là một quá trình học tập có hệ thống, được tổ chức theo một quy trình cụ thể, với những bước đi thích hợp, có nội dung chương trình và yêu cầu đặt ra đối với giảng viên, học viên theo từng giai đoạn, được đánh giá qua các bài giảng, sự tiếp thu, các bài kiểm tra, thi tốt nghiệp... - Các yếu tố của quá trình đào tạo tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Tạo nên một sự biến đổi về chất sau quá trình học tập của người học. Giúp cho người học không những nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng được yêu cầu đặt ra mà còn trang bị những phương pháp, kỹ năng tạo nền móng để tiếp tục tiếp thu, vận dụng những kiến thức mới, đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của nhân loại. Hay nói một cách cụ thể đào tạo nhằm các mục tiêu sau: phát triển năng lực và nâng cao khả năng làm việc thực tế của người được đào tạo; giúp cho họ luôn phát triển để họ có thể đáp ứng được nhu cầu nhân lực trong tương lai của tổ chức; giảm thời gian học tập, làm quen với công việc mới, do thuyên chuyển, đề bạt, thay đổi nhiệm vụ và đảm bảo cho họ có đầy đủ khả năng làm việc một cách nhanh chóng và tiết kiệm. 1.1.1.2. Khái niệm đào tạo Thẩm phán Ở Việt Nam thẩm phán là ngạch công chức thuộc cơ quan tòa án, đồng thời thẩm phán cũng là một Chức danh nhà nước, trong hệ thống cơ quan tư pháp. Theo từ điển tiếng việt Chức danh của cán bộ công chức là tên gọi thể hiện cấp bậc, quyền hạn, nhiệm vụ, của mỗi công chức. Trong khoa học pháp lý thường sử dụng thuật ngữ chức danh tư pháp để chỉ những người có chức vụ quyền hạn trong hoạt động tố tụng. Theo đó “chức danh tư pháp” là “tên gọi thể hiện vị trí chuyên môn, cấp bậc, chức năng đặc thù công việc của những người thường xuyên và trực tiếp tiến hành hoạt động tư pháp” [22, tr.18]. Thẩm phán là chức danh tư pháp thể hiện vị trí chuyên môn, cấp bậc, quyền hạn nhiệm vụ trong hệ thống tòa án nhân dân các cấp. Tại Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm nhân dân 2002 quy định: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền Tòa án”. Như vậy khái niệm thẩm phán “dùng để chỉ những người làm công việc xét xử chuyên nghiệp, được tuyển chọn theo một quy trình chặt chẽ, làm việc thường xuyên trong cơ quan tòa án, thực hiện nhiệm vụ xét xử nhân danh nhà nước” [22, tr.22]. Xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật. Các Mác đã khẳng định: Đối với thẩm phán thì không có cấp trên nào khác ngoài luật pháp. Thẩm phán có trách nhiệm giải thích luật pháp trong việc vận dụng vào từng trường hợp cá biệt, đúng như ông ta hiểu luật pháp khi xem xét nó một cách có lương tri…Thẩm phán độc lập không thuộc về tôi cũng không thuộc về chính phủ. Thẩm phán xem xét hành động của tôi, trên cơ sở một đạo luật nhất định [17, tr.137]. Áp dụng pháp luật là hoạt động phức tạp, ở đây không phải là cứng nhắc mà là một quá trình tư duy sáng tạo, phải huy động tổng thể những hiểu biết cả về pháp luật và những hiểu biết tổng hợp về xã hội, con người để đưa ra phán quyết hợp với lẽ phải, sự công bằng. Xuất phát từ tính chất khó khăn phức tạp và yêu cầu đạt đến độ chính xác cao của hoạt động xét xử, pháp luật quy định “khi tiến hành xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [19, tr.9]. Nguyên tắc này xác định trách nhiệm của thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật một cách nghiêm chỉnh, không bị tác động từ bên ngoài, không bị tình cảm cá nhân và quyền lợi riêng tư ảnh hưởng đến việc xét xử. Thẩm phán chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Các phán quyết của thẩm phán thể hiện trực tiếp thái độ của nhà nước đối với các vụ án cụ thể, phản ánh trực tiếp và sâu sắc bản chất của pháp luật, bản chất nhà nước. Ở đó con người tìm thấy lẽ công bằng, tính nhân đạo, pháp luật vì con người, cho con người, đề cao quyền con người trở thành hiện thực. Qua đó cho thấy hoạt động xét xử của thẩm phán có vai trò rất lớn. Trước hết sự ổn định của trật tự pháp luật trong nước, việc giữ vững kỷ cương của xã hội, sự tự do và an toàn của con người…Việc xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, đúng người, đúng tội, không những có tác dụng trừng trị, giáo dục cải tạo các phần tử phạm tội mà còn góp phần ngăn chặn phòng ngừa các ảnh hưởng tiêu cực đối với nhà nước và xã hội. Với vai trò là người trực tiếp áp dụng pháp luật, là nhân tố quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử của ngành tòa án, do vậy một người để được bổ nhiệm vào chức danh thẩm phán trước tiên phải có đủ tiêu chuẩn cán bộ công chức. Tiêu chuẩn cán bộ công chức là những quy định làm căn cứ tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức. Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê nin thì tiêu chuẩn của người cán bộ phải hội tụ của hai yếu tố phẩm chất đạo đức và tri thức năng lực hoặc như Hồ Chủ Tịch thường nói ngắn gọn “có đức có tài”. Ngoài ra người đó phải có các tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng với chức danh khi tuyển dụng. Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm thẩm phán là: Công dân Việt Nam trung thành với tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của pháp luật, có năng lực làm công tác xét xử, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao...[24, tr.49]. Từ việc phân tích khái niệm thẩm phán và quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm thẩm phán như trên, đã phản ánh mục đích của việc đào tạo thẩm phán. Đào tạo thẩm phán, là một mô hình đào tạo mới ở Việt Nam. Đây có thể được xem là mô hình đào nghề đặc thù – nghề luật. Một nghề đòi hỏi người đó phải có trình độ chuyên môn pháp lý cao, có kiến thức xã hội sâu rộng, có năng lực xét xử, có đạo đức trong sáng, có lập trường chính trị và bản lĩnh vững vàng. Với tính chất nghề “là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội” [35] thì mục tiêu xuyên suốt của đào tạo thẩm phán là một quá trình trang bị hệ thống và toàn diện kỹ năng nghề nghiệp cơ bản nhất, để học viên hội đủ các tiêu chuẩn không chỉ về chuyên môn nghiệp vụ mà cả về phẩm chất, nhân cách có thể đảm đương được nhiệm vụ xét xử các vụ án, và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền Tòa án sau khi được bổ nhiệm. Quá trình đó không những phát triển có hệ thống, có phương pháp, các tri thức khoa học pháp lý, học viên đã được đào tạo và rèn luyện trước đó, mà còn tạo nền móng để tiếp tục tiếp thu, vận dụng những kiến thức mới, đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Từ các phân tích trên có thể định nghĩa: đào tạo thẩm phán là một quá trình trang bị hệ thống và toàn diện kỹ năng nghiệp vụ xét xử và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, nguồn để bổ nhiệm vào chức danh thẩm phán của ngành tòa án. Tóm lại: với tư cách là một mô hình đào tạo nghề, nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn lực cho thực tiễn, nên ngoài sự kế thừa các vấn đề cơ bản của quá trình đào tạo chung như: mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện, đội ngũ giảng viên, thì trong quá trình đào tạo thẩm phán còn phải cụ thể hóa mục đích chung vào điều kiện riêng và gắn việc đào tạo của nhà trường phù hợp với đặc điểm của hoạt động xét xử, phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển của ngành tòa án và xã hội. 1.1.2. Đặc điểm của đào tạo thẩm phán Từ khái niệm trên có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản sau đây về đào tạo thẩm phán. Thứ nhất: Đào tạo thẩm phán là đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, đào tạo đội ngũ cán bộ kế cận để bổ nhiệm thẩm phán, làm nhiệm vụ xét xử. Đó là quá trình nâng cao trình độ, phương pháp, kỹ năng nghề nghiệp cho người được đào tạo. Theo đó đối tượng đào tạo thẩm phán phải là công chức của hệ thống cơ quan tòa án nhân các cấp đã tốt nghiệp cử nhân luật, có thâm niên công tác từ ba năm trở lên và có khả năng đảm đương được công việc xét xử của thẩm phán, sẽ được bổ nhiệm sau quá trình đào tạo. Từ các tiêu chuẩn nêu trên của đối tượng đào tạo thẩm phán, cho thấy đối tượng đào tạo thẩm phán hiện nay chỉ bó hẹp là những công chức đang đảm nhận nhiệm vụ như thư kí, thẩm tra viên, chuyên viên…trong các bộ phận của hệ thống tòa án nhân dân các cấp, ở các địa bàn từ đồng bằng, đô thị đến nông thôn miền núi hải đảo. Do bị bó hẹp về tiêu chuẩn chỉ là công chức của ngành tòa án và do vị trí công tác có yêu cầu chuyên môn và nhiệm vụ, thuộc các địa bàn hành chính khác nhau nên về trình độ, năng lực, độ tuổi của đội ngũ công chức đào tạo nguồn để bổ nhiệm thẩm phán không đồng đều… Đây là đặc điểm của đối tượng đào tạo thẩm phán một trong những yếu tố giữ vai trò trung tâm để các cơ quan quản lý và thực hiện đào tạo xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo cho phù hợp, Thứ hai: Đào tạo thẩm phán để thực hiện chuyên môn hóa, chuẩn xác, chức năng xét xử nên nội dung, chương trình đào tạo luôn gắn với đặc trưng cơ bản của nghề nghiệp như tính chuyên nghiệp, kinh nghiệm trong hoạt động nghề nghiệp và nhu cầu phát triển của xã hội. Đặc biệt phải xuất phát từ yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập, hợp tác quốc tế trong hoạt động tư pháp. Đặc điểm này thể hiện tính mục đích rõ nét của đào tạo đồng thời đặt ra yêu cầu nội dung, chương trình của đào tạo thẩm phán không chỉ trang bị và cập nhật đầy đủ những kiến thức mới về pháp lý, chính trị, kinh tế, xã hội mà cần đặc biệt chú trọng rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo về nghiệp vụ xét xử, tăng cường thực hành tác nghiệp, nâng cao nhận thức và trau dồi đạo đức nghề nghiệp cho học viên trong quá trình đào tạo. Nội dung đào tạo thẩm phán có các đặc thù sau: Mang tính nghề nghiệp cụ thể: không chỉ cung cấp các kiến thức kỹ năng về nghiệp vụ xét xử mà còn bao gồm các kiến thức, pháp luật chuyên ngành, đạo đức nghề nghiệp bản lĩnh chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao Mang tính toàn diện: Cơ cấu hợp lý giữa lý luận và thực tiễn, gắn lý thuyết và thực hành, giữa bổ sung kiến thức chuyên môn nghiệp vụ với nâng cao nhận thức trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp, kiến thức bổ trợ về tin học và kiến thức pháp luật chuyên ngành, hội nhập kinh tế quốc tế Cơ cấu chương trình và bố trí thời lượng phù hợp với đối tượng và từng nội dung đào tạo để đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả của việc đào tạo, phù hợp với yêu cầu người học là những người đang đảm nhận công tác chỉ có thể tham gia một thời gian nhất định cho việc học tập nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức. Tóm lại nội dung chương trình đào tạo thẩm phán theo hướng đào tạo nghề, đảm bảo người học sau khi tốt nghiệp khóa học có thể đảm nhiệm được nhiệm vụ xét xử của người thẩm phán, đạt mục tiêu của đào tạo đã được xác định. Thứ ba: Trong đào tạo chức danh tư pháp nói chung và đào tạo thẩm phán nói riêng, xuất phát từ yêu cầu của công tác tư pháp đặc biệt là công tác xét xử luôn đòi hỏi công chức phải tuân theo trình tự thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định và sự chủ động sáng tạo trong việc triển khai nhiệm vụ, áp dụng chính xác pháp luật vào thực tiễn sinh động. Do đó phương pháp đào tạo thẩm phán là những những phương pháp đào tạo hiện đại, rèn luyện, tạo được sự chủ động cho người học không chỉ tiếp nhận kiến thức mà còn có khả năng áp dụng kiến thức và nâng cao năng lực tư duy đánh giá độc lập trong công vụ đặc biệt là giải quyết các tình huống cụ thể. Các phương pháp đào tạo được ưu tiên lựa chọn trong đào tạo thẩm phán là phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm. Đặc điểm này một mặt phản ánh tính đặc thù của đối tượng đào tạo thẩm phán là những cử nhân luật đã được trang bị đầy đủ hệ thống tri thức cơ bản, cơ sở và chuyên ngành. Được tuyển dụng công chức theo ngạch công chức của hệ thống cơ quan tòa án, có thời gian trải nghiệm qua thực tiễn công tác. Mặt khác phản ánh yêu cầu của mục đích, nội dung, cũng như tính chất phong phú phức tạp của quá trình đào tạo thẩm phán là đào tạo nghề trong đó coi trọng rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo về nghiệp vụ xét xử, tăng cường thực hành tác nghiệp, nên đòi hỏi trong quá trình đào tạo, đội ngũ giảng viên phải có nhiều kinh nghiệm thực tiễn nghề nghiệp và đồng thời phải vận dụng các hình thức, phương pháp đào tạo linh hoạt nhằm phát huy cao độ tính tích cực, độc lập sáng tạo của học viên, gắn “học đi đôi với hành” gắn phương pháp đào tạo với các thiết bị và phương tiện dạy học hiện đại, để truyền tải nội dung đào tạo đến đối tượng đào tạo nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Thứ tư: Ở nước ta kể từ năm 1998 đến nay đào tạo thẩm phán được nhà nước xác định chủ thể đào tạo là Học viện Tư pháp trực thuộc Bộ Tư pháp. Điều 2 của Quyết định 23/2004/QĐ-TTg ngày 25/2/2004 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Học viện Tư pháp, chỉ rõ: “Học viên Tư pháp là cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học trực thuộc Bộ Tư pháp, hoạt động theo Điều lệ Trường Đại học”. Cũng tại Điều 5 của Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg nêu rõ trách nhiệm phối hợp của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp trong công tác quy hoạch sử dụng cán bộ chức danh tư pháp, để xác định nhu cầu đào tạo hàng năm, làm cơ sở cho Học viên Tư pháp xây dựng kế hoạch đào tạo phù hợp nhu cầu sử dụng của ngành. Với địa vị pháp lý là đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp, cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động tư pháp nên hoạt động đào tạo thẩm phán của Học viên Tư pháp đã được gắn kết, thống nhất trong công tác quản lý đào tạo, điều phối, xây dựng chiến lược phát triển chung, toàn diện lâu dài cho cả hệ thống tư pháp. Đào tạo cán bộ tư pháp không còn là công việc riêng của từng ngành mà là công việc của toàn hệ thống. Đây là bước hiện thực hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngành tư pháp, thể hiện một bước chuyển biến mới trong thực tiến đào tạo cán bộ tư pháp nói chung và đào tạo thẩm phán nói riêng ở Việt Nam. Tóm lại: với tư cách là một mô hình đào tạo mới, Đào tạo thẩm phán có những đặc điểm cơ bản của đào tạo nói chung, đồng thời mang những đặc điểm riêng có của mình như đã phân tích ở trên. Các đặc điểm của đào tạo thẩm phán chúng có mối liên hệ qua lại với nhau. Từ các đặc điểm của đào tạo thẩm phán sẽ giúp cho các cơ quan quản lý và thực hiện đào tạo xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo phù hợp. 1.1.3 Nội dung, chương trình đào tạo thẩm phán Nội dung đào tạo là những kiến thức, kỹ năng được truyền tải đến cho đối tượng đào tạo. Nội dung đào tạo thẩm phán quy định hệ thống tri thức pháp lý chuyên nghành; quy định hệ thống những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng gắn liền với hoạt động nghề nghiệp của thẩm phán.Về nguyên tắc khi xây dựng nội dung đào tạo nói chung, hay nội dung đào tạo thẩm phán nói riêng đều phải phải đảm bảo tính toàn diện, tính hệ thống, đảm bảo lôgíc khoa học chặt chẽ, cũng như sự cân đối giữa các môn học, giữa lý thuyết với thực hành, sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục. Với tính chất đặc thù của đối tượng đào tạo, và mục tiêu của đào tạo nên cấu trúc nội dung đào tạo thẩm phán gồm: hệ thống tri thức chuyên nghành, hệ thống tri thức có liên quan trực tiếp đến hoạt động nghề nghiệp. Hệ thống kỹ năng, kỹ xảo về nghề nghiệp: Kỹ năng được hiểu “là năng lực tự giác hoàn thành một hoạt động nhất định dựa trên sự hiểu biết và vận dụng những tri thức tương ứng. Kỹ xảo là năng lực thực hiện một cách tự động hóa một thao tác hay một công việc nhất định nó thể hiện sự thành thạo trong hoạt động của con người” [30, tr.36]. Cũng từ tính chất của hoạt động nghề nghiệp mà hệ thống kỹ năng được xác định gồm các kỹ năng chuyên biệt về nghiệp vụ xét xử như: kỹ năng phân tích và áp dụng pháp luật, kỹ năng điều khiển phiên tòa, kỹ năng soạn thảo văn bản tố tụng.. Hệ thống kinh nghiệm hoạt động sáng tạo: Đó là quá trình làm tăng khả năng độc lập, mang kiến thức đã biết vào một tình huống mới; phát hiện những vấn đề mới trong tình huống đã biết, phát hiện cách thức giải quyết tối ưu trong hàng loạt cách thức giải quyết cho học viên. Gắn chặt hoạt động học tập với thực tế nghề nghiệp, không truyền nghề một cách máy móc, áp đặt. Những chuẩn mực về thái độ đối với xã hội và nghề nghiệp: đây là một nội dung đào tạo đang được đặt ra với yêu cầu trong điều kiện hiện nay trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về: “xây dựng đội ngũ thẩm phán thư ký tòa án, điều tra viên, kiểm sát viên, chấp hành viên, công chứng viên, giám định viên, luật sư..có phẩm chất chính trị và đạo đức chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, đảm bảo bộ máy trong sạch vững mạnh” [6, tr.90]. Nội dung của phần này chú trọng, bồi dưỡng rèn luyện những phẩm chất cơ bản nhân cách của người thẩm phán. Giác ngộ đầy đủ về nghề nghiệp, phấn đấu nắm được nghề nghiệp ở trình độ ngày càng cao càng sâu, không ngừng cải tiến phương pháp làm việc nâng cao chất lượng, hiệu quả. Chương trình và các môn học: “chương trình đào tạo là bản thiết kế về hoạt động giảng dạy trong đó phản ánh các yếu tố mục đích, nội dung, phương pháp và kết quả giảng dạy. Những yếu tố này được cấu trúc theo quy trình chặt chẽ về thời gian biểu” [29, tr.109]. Một chương trình đào tạo dù ở cấp độ nào chương trình khung hay chương trình chi tiết chỉ có giá trị pháp lý khi được các cấp quản lý nhà nước về giáo dục có thẩm quyền phê duyệt. Chương trình đào tạo thẩm phán được xây dựng và phê duyệt tại quyết định số 1269/QĐ-TTg ngày 18/11/2003 của Thủ tướng chính phủ. Theo đó, thời gian đào tạo thẩm phán là 12 tháng được chia làm ba phần với số đơn vị học trình cụ thể: Phần 1: chương trình đào tạo chuyên đề Phần chuyên đề liên quan đến nghiệp vụ xét xử chiếm 10% tổng số đơn vị học trình, phần học này giúp học viên có những nhận thức chung về nghề Thẩm phán như: những khó khăn, thách thức và yêu cầu đặt ra đối với thẩm phán; ý thức trách nhiệm và trau dồi rèn luyện đạo đức nghề nghiệp; xác định vị trí và mối quan hệ giữa của từng chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư trong hoạt động tố tụng; bổ sung và cập nhật các kiến thức pháp luật cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp; giới thiệu một số vấn đề mang tính chất bổ trợ cho hoạt động nghề nghiệp của các chức danh tư pháp như các chuyên đề về văn hoá tư pháp, tâm thần học tư pháp, đánh giá kết quả giám định, nghệ thuật hùng biện. Phần 2: chương trình đào tạo kỹ năng Bao gồm các môn học liên quan đến kỹ năng nghiệp vụ xét xử chiếm 60% đây là nội dung chính và quan trọng nhất của Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử. Mục đích của phần đào tạo kỹ năng là trang bị cho học viên một cách toàn diện và hệ thống các kỹ năng nghề nghiệp cơ bản của Thẩm phán để có thể xét xử được tất cả các loại án hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động. Phần 3: chương trình thực tập và thi tốt nghiệp Phần này chiếm 30% tổng số đơn vị học trình. Địa điểm thực tập sẽ tiến hành tại các Toà án địa phương. Do đối tượng đào tạo là nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện nên phần lớn thời gian thực tập sẽ được tiến hành ở Toà án cấp huyện. Các nội dung thực tập chủ yếu liên quan đến án hình sự, hành chính và dân sự sơ thẩm. Hoạt động thực tập được thiết kế nhằm tạo môi trường để học viên có điều kiện thực hành trong thực tế những thao tác nghiệp vụ đã được học tập. Qua đó sẽ giúp cho học viên khái quát hóa các kinh nghiệm từ thực tiễn nghề nghiêp. Bằng việc xác định hướng tiếp cận theo sự phát triển trong xây dựng chương trình đào tạo. Đặt mối quan tâm hàng đầu là phát triển sự hiểu biết ở học viên. Dạy học viên “cách học” hơn là việc truyền thụ kiến thức đơn thuần. Vì vậy chương trình đào tạo thẩm phán khi xây dựng đã rất chú ý đến việc đáp ứng tối đa nhu cầu và hứng thú học tập của học viên. Cũng từ cách tiếp cận này, chương trình đào tạo thẩm phán đã lựa chọn hình thức thiết kế theo mô đun (Module). Đây là cách thiết kế hiện đại và phổ biến hiện nay, nhất là trong lĩnh vực đào tạo nghề nghiệp. Thuật ngữ modunle “được dùng để chỉ một đơn vị kiến thức hoặc một hệ thống kỹ năng vừa tương đối độc lập, vừa có thể kết hợp với kiến thức hoặc kỹ năng khác tạo thành hệ thống trọn vẹn có quy mô lớn hơn. Những kiến thức hoặc kỹ năng này thường được thể hiện dưới dạng việc làm của học viên” [29, tr.115]. Chương trình đào tạo thiết kế theo modunle là hệ thống các modunle được kết nối với nhau theo các hình thức nhất định, Với cách thiết kế này khi hoàn thành các modunle đó, học viên đạt được mục tiêu học tập của mình. Trong chương trình đào tạo thẩm phán phần đào tạo kỹ năng tập trung ở ba môn học: Kỹ năng giải quyết vụ án hình sự; kỹ năng giải quyết vụ án dân sự; kỹ năng giải quyết vụ án hành chính. Đây là ba môn học trang bị các tri thức và kỹ năng cần thiết như: kỹ năng thụ lý, điều tra thu thập chứng cứ nghiên cứu hồ sơ, xét xử phiên tòa sơ thẩm, ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án của ba loại án hình sự, dân sư, hành chính. Trong từng môn học có các bài học: “Bài học là đơn vị cơ bản tạo thành hệ thống môn học” [29, tr.124]. Các bài học kỹ năng đều được thiết kế: bài lý thuyết trang bị kiến thức pháp luật tố tụng trong một giai đoạn tố tụng của quá trình giải quyết vụ án. Bài học tình huống thực hành kỹ năng qua hồ sơ vụ án. Bài học đối thoại - kiểm tra. Bài học kỹ năng theo module MODULE BÀI HỌC KỸ NĂNG Giải quyết tình huống Lý thuyết (Presentation) ) (Exercice MODULE BÀI HỌC KỸ NĂNG Đối thoại (Discution) Phát triển tình huống (Skill development) Diễn án (Similuation) ài hòa, Sáng tạo tư duy, Bản lĩnh hiện đại, Định hướng nhân văn, Phát triển chuyên nghiệp! Tài liệu học tập (học liệu): “là nơi hiện thực hóa, vật chất hóa và là nơi tồn tại của nội dung dạy học” [29, tr.126]. Tài liệu học tập có nhiều loại, trong chương trình đào tạo thẩm phán bộ giáo trình kỹ năng xét xử vụ án hình sự; kỹ năng xét xử dân sự, kỹ năng xét xử vụ án hành chính, hệ thống hồ sơ các vụ án, các bộ phiếu kỹ thuật, hệ thống ngân hàng đề kiểm tra thường xuyên, đề thi học phần. Đây là những tài liệu tương ứng với ba bộ môn học và phục vụ cho một module bài học. Hệ thống tài liệu này có vị trí đặc biệt quan trọng đối với cả học viên và giảng viên trong quá trình đào tạo thẩm phán, với mục tiêu chỉ cập nhật kiến lý thuyết cho học viên, nên hồ sơ tình huống là tài liệu học tập quan trọng để học viên rèn luyện kỹ năng giải quyết các vụ án trong thực tế. Nội dung, chương trình là phần tri thức và kỹ năng cần truyền thụ cho học viên trong quá trình đào tạo. Đó là yếu tố trọng tâm của quá trình đào tạo, là sự thể hiện mục tiêu của nhiêm vụ đào tạo thẩm phán. Có thể nói chất lượng hoạt động nghề nghiệp của học viên sau quá trình đào tạo được quyết định bởi “dạy cái gì”. Vì vậy, nội dung chương trình đào tạo luôn là vấn đề đặt ra cho quá trình cải tiến nâng cao chất lượng đào tạo, là trung tâm chú ý của những người làm công tác quản lý giáo dục và cả những người đón nhận sản phẩm của quá trình đào tạo đó. 1.1.4. Hình thức đào tạo thẩm phán Hiện vẫn có quan điểm đồng nhất khái niệm hình thức đào tạo với khái niệm phương pháp đào tạo. Tuy nhiên nhìn chung người ta quan niệm rằng hình thức đào tạo được hiểu là hình thức hoạt động giảng dạy được tổ chức theo trật tự và chế độ nhất định nhằm thực hiện các nhiệm vụ đào tạo đã quy định. Hình thức đào tạo là cách thức tổ chức tiến hành đào tạo, có nhiều hình thức đào tạo khác nhau tùy theo mối quan hệ giữa việc dạy học có tính chất tập thể hay cá nhân, tùy theo phương thức tổ chức điều khiển của giáo viên cũng như tùy theo địa điểm thời gian học tập. Đào tạo có thể diễn ra dưới hình thức tập trung, chính quy, tại chức, từ xa. Cũng cần phân biệt giữa hình thức đào tạo với hình thức tổ chức một khóa học (khóa đào tạo; khóa bồi dưỡng; khóa huấn luyện). Với cơ sở lý luận về hình thức của đào tạo nói chung, thì hình thức đào tạo thẩm phán hiện nay là đào tạo tập trung thời gian 12 tháng. Đào tạo tập trung có ưu điểm là quá trình đào tạo được thực hiện một cách bài bản, tích cực và được chuẩn hóa. Học viên có điều kiện tập trung mọi khả năng, sức lực và thời gian vào việc học tập không bị phân tán bởi những công việc khác nên có điều kiện nghiên cứu hồ sơ tình huống, đọc sách, tài liệu, giải bài tập về nhà, nhớ nhanh, nhớ lâu các kiến thức lý luận và thực tiễn được giảng viên truyền thụ. Cách thức tổ chức đào tạo thẩm phán như sau: Hệ thống giờ lên lớp, đây là hình thức đào tạo cơ bản gồm nhiều bài học lý thuyết và tình huống cụ thể, có quy định rất chặt chẽ về nội dung, kết quả, thời gian địa điểm học, số lượng học viên tham gia và được tiến hành theo thời khóa biểu nghiêm ngặt. Những bài học trên lớp kế tiếp nhau một cách hệ thống sẽ giúp cho học viên nắm được hệ thống tri thức và kỹ năng của môn học. Hình thức thảo luận: Là hình thức thường xuyên được sử dụng rộng rãi trong đào tạo nói chung, đặc biệt trong đào tạo thẩm phán. Hình thức thảo luận được sử dụng trong các tình huống, thảo luận trên lớp, thảo luận nhóm nhỏ, Xemina..Đây là hình thức giúp cho học viên đưa ra nhiều ý kiến quan điểm riêng của mình nhằm hướng đến mục đích chung. Với hình thức này, sẽ tạo cơ hội cho giảng viên có thông tin phản hồi về học viên. Giảng viên có thể thu được tri thức, kinh nghiệm qua suy nghĩ và sáng tạo của học viên bởi các học viên đào tạo thẩm phán là những người đã có trình độ và thực tế nghề nghiệp nhất định. Hình thức tự học, đây cũng là hình thức giảng dạy cơ bản của đào tạo thẩm phán hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức kỹ năng do chính bản thân học viên tiến hành trên lớp hoặc ở ngoài lớp, hoặc không theo chương trình và giáo trình. Hình thức này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy tính chủ động, năng lực độc lập sáng tạo trong nghiên cứu học tập, giúp học viên rèn luyện năng lực, hứng thú thói quen có phương pháp nghiên cứu khoa học, hoàn thiện hơn vốn kiến thức và hiểu biết của mình trong hoạt động đặc thù của nghề thẩm phán. Thực tập, kiến tập hình thức học tập có tính chất ngọai khóa được tiến hành ngoài giờ lên lớp. Đây hình thức đào tạo quan trọng của đào tạo nghề giúp cho học viên củng cố, mở rộng, khơi sâu thêm tri thức về hoạt động nghề nghiệp đã được trang bị trong nhà trường, gắn liền giữa lý luận và thực tiễn Tất cả các hình thức đào tạo thẩm phán trên đây đều có vị trí và chức năng nhất định trong hoạt động đào tạo thẩm phán. Chúng có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau nhưng không thể thay thế nhau
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan