Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá chất lượng các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở đảng bộ thành phố hà nội ...

Tài liệu đánh giá chất lượng các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở đảng bộ thành phố hà nội giai đoạn hiện nay

.PDF
94
40
134

Mô tả:

LUẬN VĂN: Đánh giá chất lượng các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực tiễn cách mạng Việt Nam 79 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố chủ yếu, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Để xứng đáng với vai trò đó, Đảng đã luôn coi trọng và đề ra các chủ trương, giải pháp đúng đắn về xây dựng Đảng với mục đích làm cho Đảng ngày càng vững mạnh từ Trung ương đến cơ sở và ở các ngành, các cấp. Trong đó, Đảng đã rất quan tâm đến việc xây dựng, củng cố nâng cao chất lượng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ làm cho các TCCSĐ xứng đáng với vị trí, vai trò là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng và nhân dân, nơi biến những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực sinh động. Hiện nay, toàn Đảng có hơn 52.000 TCCSĐ, trong đó TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn chiếm phần lớn trong tổng số TCCSĐ, nằm ở khắp các vùng miền của đất nước. Các đảng bộ xã, phường, thị trấn trực tiếp lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội, các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế, xã hội, nghề nghiệp. Các đảng bộ xã, phường, thị trấn lãnh đạo và quyết định trên thực tế việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quyết định sự phát triển lành mạnh, đúng định hướng XHCN của các hoạt động trên địa bàn quận, huyện, thị. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ hằng năm cho nên trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong những năm gần đây Đảng ta luôn coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo sát đối với công tác này. Nhờ đó mà Đảng đã có các biện pháp phù hợp để ngày càng củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các TCCSĐ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đánh giá chất lượng TCCSĐ hằng năm cũng còn không ít những hạn chế, khuyết điểm được Đảng chỉ rõ trong báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X: Không ít cơ sở đảng yếu kém, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu thấp; sinh hoạt đảng và quản lý đảng viên lỏng lẻo, nội dung sinh hoạt nghèo nàn; tự phê bình và phê bình yếu. Việc đánh giá tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên không ít trường hợp chưa đúng thực chất, còn hình thức [16, tr.271]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu BCHTW Đảng (khóa X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên vẫn tiếp tục chỉ rõ: “Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm còn hình thức, kết quả chưa phản ánh đúng thực chất” [18, tr.93]. Trong quá trình xây dựng và phát triển Thủ đô, Thành ủy Hà Nội luôn xác định công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ, chất lượng đội ngũ đảng viên được xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đánh giá đúng chất lượng TCCSĐ và đảng viên hàng năm lại luôn được coi là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Quán triệt quan điểm này, trong thời gian qua, Thành ủy Hà Nội đã triển khai thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của Đảng về công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ hằng năm. Chính vì vậy, công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ hằng năm ở Đảng bộ Hà Nội nhìn chung bước đầu đã đạt được kết quả nhất định, góp phần xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, có tác dụng tích cực đến việc phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô. Tuy vậy, công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ hằng năm trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế được chỉ ra trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2006 2010): “Không ít nơi, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên chưa ngang tầm nhiệm vụ, vai trò lãnh đạo còn mờ nhạt … việc đánh giá, phân loại tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên ở nhiều nơi chưa phản ánh đúng thực chất” [7, tr.48]. Giai đoạn hiện nay, từ khi thực hiện chủ trương mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội theo Kết luận của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) và Nghị quyết 15/NQ-QH ngày 29/5/2008 của Quốc hội khoá XII, trong Báo cáo số 14BC/TU ngày 06/11/2008 của Thành ủy Hà Nội về phương hướng, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại hội XIV (2005 - 2010) đã đề ra phải “tiếp tục đổi mới công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên bảo đảm tiêu chuẩn, quy trình chặt chẽ, khách quan, phản ánh đúng thực chất” [41, tr.6]. Như vậy, cùng với tình hình chung của cả nước, đánh giá chất lượng TCCSĐ hằng năm ở Đảng bộ thành phố Hà Nội cũng là công tác yếu, chậm được khắc phục. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc chưa kịp thời đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ sát với thực tế. Hiện nay, số TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội là 577 TCCSĐ, 8.096 chi bộ với tổng số 204.495 đảng viên (chiếm 65% tổng số đảng viên của toàn Đảng bộ thành phố Hà Nội). Có thể khẳng định, chất lượng hiệu quả hoạt động, lãnh đạo của các TCCSĐ xã, phường, thị trấn là phần không thể xem nhẹ ảnh hưởng đến chất lượng hiệu quả hoạt động của toàn Đảng bộ. Tuy nhiên thời gian qua, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng viên của không ít tổ chức đảng ở xã, phường, thị trấn ở Hà Nội vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Thành phố trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay. Chính vì vậy, việc đánh giá đúng chất lượng TCCSĐ và đảng viên hằng năm là một vấn đề quan trọng, là yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài. Đánh giá đúng là căn cứ để đề ra chủ trương, giải pháp nhằm củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và giáo dục, rèn luyện nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Điều này có ý nghĩa sống còn đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Vì vậy, phải nghiên cứu một cách căn bản, khoa học và đưa ra các giải pháp có tính khả thi cao nhằm đánh giá đúng thực chất chất lượng TCCSĐ hằng năm, đáp ứng mục tiêu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng viên ở cơ sở. Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của thời kỳ đổi mới đất nước và thực trạng của Đảng bộ thành phố Hà Nội, tác giả chọn đề tài: “Đánh giá chất lượng các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tư tưởng, quan điểm về đánh giá chất lượng TCCSĐ cũng đã được C.Mác Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đề cập. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nêu lên những tư tưởng, quan điểm về chất lượng TCCSĐ và công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng, việc nghiên cứu một cách khoa học về đánh giá chất lượng TCCSĐ trên cơ sở tư tưởng, quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cũng như của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách chuyên sâu nhìn chung chưa có nhiều. Trong những tác phẩm khoa học, qua những bài viết, bài báo thì có một số vấn đề liên quan đến công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ đã được nhiều nhà lãnh đạo, các cấp ủy đảng và các nhà khoa học quan tâm như: * Một số báo cáo, tài liệu liên quan: - Các báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng tại các kỳ Đại hội, nhất là tại các kỳ Đại hội gần đây. - Các báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng hằng năm của Đảng bộ Thành phố Hà Nội. - Các báo cáo kết quả đánh giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên hằng năm của Trung ương và Thành ủy Hà Nội. - Các tài liệu hướng dẫn đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên của Ban Tổ chức Trung ương và Thành ủy Hà Nội từ năm 1993 đến nay. * Một số bài báo, bài viết liên quan: - “Bốn kinh nghiệm thực hiện đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên” (số 9-2006) của tác giả Phúc Sơn, đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng. Bài báo đưa ra một số kinh nghiệm chung trong công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ. - “Để đánh giá đúng thực chất tổ chức cơ sở đảng và đảng viên ở Bình Phước” (số 9-2008) của tác giả Phạm Hùng Sơn, đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng. Bài báo đưa ra một số giải pháp cho công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ trên cơ sở tình hình thực tế ở Đảng bộ tỉnh Bình Phước. - “Cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết Trung ương về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” (số 5-2008) của tác giả Nguyễn Đức Hà, đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng. - “Khó khăn và giải pháp trong nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên” (số 11-2007) của tác giả Phúc Sơn, đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng. - “Hằng tháng đánh giá chất lượng tổ chức đảng ở Đảng bộ Công an tỉnh Phú Thọ” (số 12-2007) của Đại tá Đỗ Đức Kính đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng. - “Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở Hà Nội” (số 5-2008) của tác giả Nguyễn Công Soái đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng. Bài báo đánh giá thực trạng các TCCSĐ ở Đảng bộ Hà Nội và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các TCCSĐ trong giai đoạn hiện nay. * Một số luận văn Thạc sĩ liên quan: - “Đánh giá cán bộ xã diện Ban Thường vụ huyện ủy quản lý ở tỉnh Hải Dương trong giai đoạn hiện nay” (2008) của Phạm Thùy Dương, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - “ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ xã ở tỉnh Hà Tây hiện nay - thực trạng và giải pháp” (2004) của Tạ Thị Minh Phú, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn - Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đánh giá chất lượng các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay. - Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm đánh giá đúng thực chất chất lượng các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Làm rõ quan niệm, nội dung, quy trình, phương pháp đánh giá chất lượng các đảng bộ xã, phường, thị trấn thuộc Đảng bộ thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay. - Đánh giá đúng thực trạng công tác đánh giá chất lượng hàng năm ở các đảng bộ xã, phường, thị trấn thuộc Đảng bộ thành phố Hà Nội từ năm 2004 đến năm 2008. - Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu, có tính khả thi nhằm đánh giá đúng thực chất và nâng cao chất lượng công tác đánh giá các đảng bộ xã, phường, thị trấn thuộc Đảng bộ thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Công tác đánh giá chất lượng các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội. (Trong phạm vi đề tài này thuật ngữ đảng bộ xã, phường, thị trấn được tác giả diễn đạt bằng thuật ngữ TCCSĐ xã, phường, thị trấn). 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu công tác đánh giá chất lượng của các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội từ năm 2004 đến nay. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về TCCSĐ và đánh giá chất lượng TCCSĐ. Đồng thời có sự kế thừa kết quả nghiên cứu được rút ra từ các báo cáo tổng kết, các bài báo, bài viết của các nhà khoa học về những vấn đề luận văn quan tâm. 5.2. Cơ sở thực tiễn Luận văn dựa trên cơ sở thực tiễn là công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng ở các xã, phường, thị trấn thuộc Đảng bộ thành phố Hà Nội từ năm 2004 đến năm 2008. Có sử dụng kết hợp các kết quả khảo sát trực tiếp và các báo cáo về công tác xây dựng Đảng, tình hình TCCSĐ và đội ngũ đảng viên ở cơ sở, các số liệu thống kê về kết quả đánh giá chất lượng TCCSĐ hằng năm của Đảng bộ thành phố Hà Nội. 5.3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận Mác xít (duy vật biện chứng, duy vật lịch sử), kết hợp với các phương pháp khác như: lịch sử, lôgic, phân tích, tổng hợp, điều tra, khảo sát, so sánh, tổng kết thực tiễn… 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học của công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng ở các xã, phường, thị trấn thuộc Đảng bộ thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay. - Đánh giá thực trạng công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội hiện nay. - Tìm ra nguyên nhân của thực trạng, những kinh nghiệm thực tiễn và đề xuất một số giải pháp chủ yếu, có tính khả thi nhằm đánh giá đúng chất lượng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn có thể cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ nói chung, công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội nói riêng. - Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể gợi mở cho các cấp uỷ quan tâm hơn về mục đích, yêu cầu, nội dung, quy trình, phương pháp đánh giá chất lượng TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ ở địa phương, đặc biệt là ở các xã, phường, thị trấn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. Chương 1 ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN Ở ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1.1. Khái quát về các xã, phường, thị trấn ở thành phố Hà Nội hiện nay Trong hệ thống chính trị ở nước ta, xã, phường, thị trấn là một thiết chế xã hội, có đầy đủ các tổ chức, bao gồm: Tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị, các tổ chức kinh tế, xã hội hoạt động trong khuôn khổ pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Do đó xã, phường, thị trấn được xác định là nền tảng cơ sở của hệ thống tổ chức hành chính 4 cấp của Nhà nước ta. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, xã, phường, thị trấn có vị trí đặc biệt quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Thực hiện chủ trương điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội theo theo Kết luận Hội nghịz lần thứ 6 BCH Trung ương Đảng (khoá X) và Nghị quyết số 15/NQ-QH ngày 29/5/2008 của Quốc hội khóa XII về điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội kể từ ngày 01/8/2008, Thủ đô Hà Nội đã được mở rộng với diện tích tự nhiên 3.344 km2, dân số hơn 6,32 triệu người với điều kiện tự nhiên phong phú hơn, các nguồn lực dồi dào hơn. Đến nay, thành phố Hà Nội có 29 đơn vị hành chính quận, huyện, thị xã với 408 xã, 148 phường và 21 thị trấn (Phụ lục số 1). Xã, là nơi cộng đồng dân cư làm ăn sinh sống, liên kết chặt chẽ với nhau trong các quan hệ anh em, họ tộc, xóm làng, tín ngưỡng, tôn giáo, nghề nghiệp và quan hệ kinh tế… Xã được hình thành từ các làng, mỗi làng, xã đều có các đặc điểm chung về cấu trúc văn hoá, phong tục, tập quán… nhưng cũng có nhiều nét riêng biệt, riêng có. Là nơi tập trung một lực lượng lớn lao động, đất đai, nơi sản xuất ra lương thực, thực phẩm nuôi sống toàn xã hội, là nơi cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy, xí nghiệp và các sản phẩm xuất khẩu… Xã, thị trấn là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện, biến mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng ở nông thôn thành hiện thực trong cuộc sống. Xã, thị trấn cũng là nơi phản ánh trực tiếp tâm tư, tình cảm, yêu cầu và nguyện vọng của quần chúng nhân dân, là nơi kiểm nghiệm trên thực tế sự đúng đắn của các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; là nơi cung cấp các kinh nghiệm thực tiễn để Đảng, Nhà nước và lãnh đạo thành phố điều chỉnh bổ sung, hoàn chỉnh các chủ trương, đường lối về phát triển nông nghiệp nông thôn và với toàn thể nông dân. Là nơi cư trú và hoạt động của người nông dân, nên mọi biến động tích cực hay tiêu cực của nông thôn đều tác động trực tiếp đến sự phát triển chung của toàn thành phố nói riêng cũng như của cả nước nói chung: như các vấn đề về dân số, dân cư, dân chủ… Đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị, xã hội và sự phát triển. Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị, tổ chức theo khu vực dân cư đô thị, có vị trí rất quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trước hết là địa bàn nội thị, nội thành. Phường là đơn vị tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; nơi trực tiếp phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động; là nơi cư trú của nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội và là nơi có tiểm năng lớn về lao động, tay nghề, chất xám, cơ sở vật chất kỹ thuật, tiền vốn… Các phường được hình thành sau xã, chậm ổn định. Cộng đồng dân cư ở đây không cố kết bền vững như ở xã. Số dân tăng cơ học nhanh và số người nghỉ hưu, mất sức ngày càng nhiều. Đây là địa bàn vốn đã phức tạp, sôi động, trong nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế và quá trình đô thị hoá, tính chất phức tạp, sôi động đó càng tăng lên. Tại đây, hằng ngày hằng giờ diễn ra cuộc đấu tranh rất quyết liệt giữa cái mới với cái cũ, cái tiến bộ với cái lạc hậu; giữa tư tưởng đổi mới, năng động với tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Cũng tại đây, kẻ địch và những phần tử xấu thường xuyên lén lút hoạt động phá hoại, kể cả âm mưu gây bạo loạn lật đổ; lợi dụng những sơ hở của cơ chế, chính sách để làm ăn phi pháp, gây rối loạn nền kinh tế - xã hội. Thủ đô Hà nội - đầu não chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Hà Nội đã được Nhà nước ta hai lần tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, là thành phố được phong tặng danh hiệu cao quý “Thủ đô anh hùng”, cũng là thành phố đầu tiên ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương được nhận danh hiệu “Thành phố vì hòa bình”. Vốn là vùng đất nghìn năm văn hiến, với những nét tinh hoa của người Hà Nội, xã, phường, thị trấn của Thủ đô Hà Nội là một trong những nơi lưu giữ nhiều nhất những giá trị lịch sử - văn hóa truyền thống hết sức quý báu của nhân dân ta. Những di tích lịch sử văn hóa, di tích cách mạng, những phong tục tập quán, truyền thống, tập tục tốt đẹp của địa phương, những giá trị, những nét đẹp văn hóa qua các câu vè, làn điệu dân ca… đều có giá trị thẩm mỹ và giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, văn hóa sâu sắc, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc. Hiện nay, ở cơ sở nói chung, ở xã, phường, thị trấn nói riêng của Thủ đô thật sự là nền tảng, nơi bắt đầu và là hạt nhân cơ bản hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở. Cuộc vận động này có ý nghĩa rất quan trọng, mang tính chất toàn dân, toàn diện và sâu sắc, góp phần tạo ra động lực mới, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Chính quyền và nhân dân các địa phương trong toàn Thành phố đã phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng địa phương giàu đẹp, an ninh và đảm bảo công bằng xã hội. Tuy vậy, một bộ phận nhân dân ở các địa phương vẫn chưa nêu cao ý thức làm chủ, còn mang nặng tư tưởng ỷ lại, ngại họp hành, đấu tranh… Về phía cán bộ xã, phường, thị trấn, một số người quen với phong cách lãnh đạo, quản lý, làm việc theo kiểu quan liêu, giấy tờ, sự vụ, không sâu sát dân, làm việc cầm chừng, sợ mất lòng… Đó là những lực cản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Do đó, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh, thực sự là của dân, do dân và vì dân, có đầy đủ khả năng, hiệu lực xem xét, xử lý kịp thời những ý kiến, kiến nghị, yêu cầu hằng ngày của nhân dân. 1.1.2. Vị trí, vai trò và đặc điểm của các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở thành phố Hà Nội 1.1.2.1. Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên nói chung Học thuyết về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân đã khẳng định: các tổ chức cơ sở của đảng cộng sản dù quy mô như thế nào, thuộc loại hình nào đều là một khâu quan trọng trong hệ thống tổ chức và hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng. TCCSĐ là tổ chức của Đảng ở cơ sở, các TCCSĐ lập thành nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị lãnh đạo các nhiệm vụ và mọi hoạt động ở cơ sở, là cầu nối liền giữa Đảng với nhân dân, là đơn vị chiến đấu trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Ngay từ những ngày đầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đưa ra tư tưởng, quan điểm về vị trí, vai trò của TCCSĐ. Tư tưởng đó được thể hiện trong quá trình xây dựng và lãnh đạo “Liên đoàn những người cộng sản”. Tại Điều 5 của “Liên đoàn những người cộng sản” đã xác định: “về cơ cấu, Liên đoàn gồm chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, Ban chấp hành trung ương và Đại hội” [28, tr.733]. Sau đó, từ kinh nghiệm của cuộc cách mạng 1848 - 1849, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: giai cấp công nhân phải xây dựng một chính đảng có tổ chức thống nhất, độc lập và hai ông đi đến kết luận: Để khỏi tụt xuống làm vai trò của kẻ vỗ tay bọn dân chủ tư sản, công nhân mà trước hết là Liên đoàn phải cố gắng thành lập song song với phái dân chủ chính thức một đảng riêng biệt, bí mật và công khai của công nhân và biến mỗi chi bộ của mình thành trung tâm và hạt nhân của các hội liên hiệp công nhân. Những tư tưởng của hai ông tuy chưa đầy đủ nhưng cũng là cơ sở của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trên lĩnh vực tổ chức, để tiến hành xây dựng chính đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp công nhân, V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng dó trong nhiều tác phẩm viết trước Cách mạng Tháng Mười Nga. Với sự phát triển của cách mạng và đặc biệt sau khi Đảng Cộng sản (b) Nga trở thành đảng cầm quyền, với vai trò là lãnh tụ chính trị của toàn xã hội, các tổ chức cơ sở của Đảng được thành lập không chỉ trong các nhà máy, công xưởng mà còn ở tất cả các đơn vị cơ sở trong hệ thống tổ chức xã hội. Thuật ngữ TCCSĐ được V.I.Lênin chính thức dùng trong bài báo viết về “Cải tổ Đảng” [23, tr.108], Người chỉ rõ các chi bộ lúc ấy là các TCCSĐ. V.I.Lênin luôn coi trọng và đặt vấn đề phải “tìm cách làm cho TCCSĐ, trên thực tế chứ không phải trên lời nói, trở thành hạt nhân tổ chức cơ bản của Đảng” [24, tr.77]. Những luận điểm của V.I.Lênin được lý giải và phát triển cả về mặt xây dựng tổ chức và toàn bộ hoạt động lãnh đạo của TCCSĐ trong hai thời kỳ: thời kỳ đầu, đấu tranh xây dựng chính Đảng kiểu mới và thời kỳ đất nước Nga chuyển sang nhiệm vụ xây dựng CNXH. V.I.Lênin viết: Những chi bộ ấy phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm công tác cổ động, tuyên truyền, công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy phải thông qua công tác muôn hình muôn vẻ đó mà rèn luyện mình và rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống [25, tr.232-233]. và nhấn mạnh các chi bộ của đảng phải “đem hết sức lực, đem hết chú ý để tạo ra, để phát huy một tính chủ động lớn hơn ở cơ sở” [26, tr.279]. Người còn cho rằng bằng nhiều biện pháp nâng cao vai trò của TCCSĐ, phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ sở thì những nhiệm vụ, mục tiêu của chính sách kinh tế của Nhà nước Xô - viết mới thành hiện thực. Vị trí, vai trò của TCCSĐ không chỉ tìm thấy trong các di sản lý luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa xã hội khoa học mà còn được minh chứng bằng những kết quả hoạt động thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản và hoạt động lãnh đạo cách mạng vô sản của các ông. Những chỉ dẫn đó trở thành định hướng cho việc xây dựng TCCSĐ của các đảng cộng sản trên thế giới. Nghiên cứu những luận điểm của V.I.Lênin về vị trí, vai trò của TCCSĐ có thể rút ra bốn điểm có tính nguyên tắc: Một là, hình thức tổ chức cơ sở đảng được phát triển, V.I.Lênin chỉ rõ: “Hình thức mới của tổ chức cơ sở đảng công nhân phải tuyệt đối rộng rãi hơn so với những tiểu tổ cũ” [21, tr.107-108]. Những hình thức đó thích ứng với đòi hỏi mới, từ xây dựng các mắt xích phía dưới của Đảng (1902) đến nhóm, tiểu tổ (1919). Nhưng mãi đến năm 1924 mới tiến hành thí nghiệm việc lập các chi bộ đảng và đến năm 1934 mới quyết định chuyển các chi bộ thành các TCCSĐ. Hai là, chức năng, nhiệm vụ của TCCSĐ cũng luôn luôn phát triển, từ công tác tuyên truyền, giáo dục trở thành tổ chức chiến đấu chủ yếu trong công tác kinh tế của Đảng. Ba là, từ chỗ lấy nguyên tắc sản xuất làm cơ sở để xây dựng các TCCSĐ, dần dần các TCCSĐ còn được thành lập ở nơi cư trú (nguyên tắc sản xuất và lãnh thổ). Như vậy việc hình thành các TCCSĐ là do yêu cầu tất yếu khách quan của nhiệm vụ chính trị chứ không phải tùy tiện theo sở thích như một số phần tử lầm tưởng, xuyên tạc. Bốn là, mọi đảng viên (không phân biệt cán bộ, đảng viên) đều tham gia trong một TCCSĐ. Họ đều có quyền hạn như nhau và đều có nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu của Điều lệ Đảng. Các nội dung trên, trong sự nghiệp đổi mới và chỉnh đốn Đảng, phải khẳng định là còn giá trị không thể đổi được, vấn đề là phải phát triển nội dung của nó trên cơ sở những nguyên tắc đã được quy định. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người trực tiếp tổ chức và lãnh đạo Đảng ta, đã vận dụng những nguyên lý trên vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền cũng như khi trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Khi bàn về vị trí, vai trò của chi bộ, Người nhấn mạnh, các chi bộ, đảng bộ cơ sở dù được thành lập ở loại hình đơn vị cơ sở nào trong xã hội đều có vai trò là “nền móng” của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở, là “sợi dây chuyền” để Đảng liên hệ với quần chúng. (Hiểu theo nghĩa trực tiếp thì “nền móng” là phần vững chắc ở dưới, cái gốc, làm điều kiện cho sự phát triển của sự vật). Vì thế, chất lượng của các TCCSĐ là một trong những nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, quyết định việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cơ sở: “Tổ chức gốc rễ của Đảng là chi bộ. Chi bộ do chi uỷ lãnh đạo; các đảng viên chịu sự lãnh đạo của chi uỷ” [29, tr.240], “chi bộ tốt thì mọi công việc đều tốt” [31, tr.533]. Trên cơ sở định hướng của những quan điểm, tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, ở mọi thời kỳ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặc biệt quan tâm xây dựng các tổ chức cơ sở của Đảng, luôn coi các TCCSĐ là những đơn vị chiến đấu cơ bản và đặt công tác xây dựng cơ sở đảng là trách nhiệm của toàn Đảng. Vì thấy rất rõ điều này nên Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc xây dựng, củng cố các TCCSĐ và chỉ rõ: Đảng ta không phải là Đảng làm quan, Đảng là ai? Là tất cả các đảng viên, các chi bộ hợp lại thành Đảng. Đảng muốn lãnh đạo cách mạng phải có chủ trương, đường lối chính trị đúng đắn và phải đưa được những chủ trương, đường lối đó đi vào quần chúng nhân dân, trở thành hiện thực sinh động trong cuộc sống. Muốn vậy, Đảng phải có một hệ thống các TCCSĐ và một đội ngũ cán bộ, đảng viên hiểu rõ quần chúng, có đủ trí tuệ và năng lực tuyên truyền, vận động, thuyết phục và tổ chức, lãnh đạo quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Như vậy, khẳng định vai trò lãnh đạo của các TCCSĐ và việc phải xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ, trực tiếp là chi bộ đảng là yêu cầu hết sức quan trọng, còn là một tất yếu, khách quan. Để làm tốt chức năng của TCCSĐ đóng vai trò là cầu nối giữa Đảng với nhân dân thì cán bộ, đảng viên phải vừa là những người đem đường lối, chính sách của Đảng, của Nhà nước đến với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu và thực hiện. Đồng thời, lại là người nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân báo cáo với Đảng, với Nhà nước hiểu rõ để hoạch định ra đường lối, chính sách cho phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân. Nhưng sự liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân có được tốt và thường xuyên hay không, điều này phụ thuộc vào sự quản lý, giáo dục và rèn luyện thường xuyên của cán bộ, đảng viên và chi bộ đảng. Xác định rõ vị trí, vai trò nền tảng của chi bộ đảng và TCCCĐ luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định qua các kỳ đại hội từ Đại hội lần thứ VI đến nay. Trong các đại hội Đảng và nghị quyết Trung ương, Đảng ta đều nhấn mạnh một số công tác trung tâm để củng cố, xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn TCCSĐ. Trong giai đoạn mới hiện nay, nói vị trí, vai trò của TCCSĐ có những nét mới đáng chú ý: Một là, quá trình đổi mới kinh tế - xã hội đã làm phong phú thêm nhận thức của chúng ta về vai trò hạt nhân chính trị lãnh đạo thực hiện ở cấp cơ sở. Nói cách khác, thành công của đổi mới phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các TCCSĐ, trước những khó khăn vẫn kiên định đường lối và quan điểm cách mạng của Đảng. Qua các đợt chấn chỉnh Đảng, đã có một bước tiến trong việc sàng lọc đảng viên, kiện toàn cấp uỷ, rõ nét nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp và doanh nghiệp nhà nước. Hai là, một nét đặc biệt trong đổi mới ở nước ta là quá trình này bắt đầu nảy sinh sôi động từ những sáng kiến bên dưới, đó là sáng kiến của quần chúng, đảng viên, các cơ sở kinh tế - xã hội, mà hạt nhân lãnh đạo là các TCCSĐ. Nhờ đó những khó khăn được tháo gỡ, những tiềm năng được khai thác, tổng kết được những kinh nghiệm phong phú có giá trị đóng góp cho việc cụ thể hóa đường lối, xây dựng chính sách bắt đầu từ cơ sở. Ba là, vai trò, tầm quan trọng của cơ sở đảng thời kỳ này bị ảnh hưởng bởi những tác động của nền kinh tế thị trường, xu hướng toàn cầu hoá… Chính những điều này đã tác động nhạy cảm chính trị tới một số cán bộ, đảng viên lão thành cách mạng. Từ việc phân tích vị trí, vai trò lãnh đạo của TCCSĐ, trực tiếp là các chi bộ đảng, cho chúng ta những chỉ dẫn không những có giá trị về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn đối với việc đổi mới, chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ trong giai đoạn hiện nay, trong đó có công tác đáng giá chất lượng TCCSĐ. 1.1.2.2. Vị trí, vai trò và đặc điểm của các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở thành phố Hà Nội Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm xây dựng các TCCSĐ. Bởi vì, dù ở bất cứ giai đoạn cách mạng nào, các TCCSĐ luôn luôn giữ vai trò là nền tảng, hạt nhân lãnh đạo chính trị của Đảng ở cơ sở, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được cụ thể hoá và thực hiện thắng lợi ở cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Mỗi chi bộ của Đảng là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng” [32, tr.23]. Người luôn coi trọng và khẳng định vai trò của TCCSĐ, đặc biệt là chi bộ đối với sự vững mạnh của Đảng và với thắng lợi của cách mạng. Người còn viết: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” [33, tr.92]. TCCSĐ trực tiếp giáo dục, rèn luyện đảng viên. Người khẳng định: “Đảng viên tốt thì chi bộ mới tốt. Muốn đảng viên tốt thì chi bộ phải thường xuyên giáo dục mỗi đồng chí” [33, tr.80]. Người còn chỉ rõ: “Chi bộ là nền móng của Đảng” [33, tr.210], vì vậy chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến bộ không ngừng. TCCSĐ còn là cầu nối giữa Đảng và quần chúng nhân dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, phản ánh với Đảng để Đảng sửa đổi chủ trương, chính sách cho đúng đắn hơn và đề ra chủ trương, chính sách mới phù hợp hơn. Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu, làm rõ vai trò của TCCSĐ và được ghi vào Điều lệ Đảng. Tại Điều 21, chương V, Điều lệ Đảng do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X thông qua ghi rõ: “TCCSĐ (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở” [17, tr.34]. Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng cũng nhấn mạnh: “Với vị trí là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, vai trò của TCCSĐ rất quan trọng. Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ, làm cho tổ chức này thực sự trong sạch, vững mạnh” [17, tr.298]. Thực tiễn cách mạng nước ta và phong trào cộng sản công nhân quốc tế đã chứng minh: TCCSĐ càng được củng cố và nâng cao chất lượng, thì sức chiến đấu của Đảng càng mạnh, uy tín của Đảng trong nhân dân càng cao. Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế thì vai trò của TCCSĐ lại càng quan trọng. TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở thành phố Hà Nội là loại hình tổ chức cơ sở được thành lập theo đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn - cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức hành chính bốn cấp của Nhà nước. Tính đến 31/12/2008, Đảng bộ Hà Nội có 577 TCCSĐ xã, phường, thị trấn, với 204.495 đảng viên (chiếm 65% tổng số đảng viên của toàn Đảng bộ Hà Nội). Bảng 1.1: Tổng số TCCSĐ và đảng viên ở xã, phường, thị trấn Tổ chức đảng trong cơ sở Loại hình Tổng số TCCSĐ TCCSĐ 1. Xã 408 2. Phường 148 3. Thị trấn 21 Cộng 577 Tổng số ĐB bộ phận Chi bộ trực 3 3 đảng viên thuộc 4.604 103.343 3.183 92.820 309 8.332 8.096 204.495 Nguồn: Ban Tổ chức Thành uỷ Hà Nội, 2008. Trong tổng số TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ thành phố Hà Nội thì số lượng TCCSĐ ở khu vực nông thôn chiếm số lượng lớn. Đội ngũ đảng viên nông thôn về cơ cấu và phân bố lực lượng giữa các vùng chưa thật hợp lý, trình độ nhiều mặt còn thấp chưa đáp ứng được những yêu cầu của thời kỳ mới, nhất là đối với đảng viên ở vùng sâu, vùng xa. Hoạt động trong môi trường nông thôn, trực tiếp lãnh đạo giai cấp nông dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, các TCCSĐ nông thôn có những thuận lợi cơ bản trong quá trình lãnh đạo, nhưng cũng gặp không ít khó khăn, phức tạp như: những hạn chế của giai cấp nông dân, những tác động tiêu cực của phong tục, tập quán, truyền thống làng xã, quan hệ gia đình, họ tộc … TCCSĐ phải quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội, các mâu thuẫn nội bộ nhân dân. Trong hệ thống chính trị ở phường, các đảng bộ phường là một bộ phận cấu thành hệ thống ấy có vị trí, vai trò riêng do tính chất đặc thù của đơn vị hành chính phường đặt ra. Các phường ở Hà Nội là nơi tập trung dân cư và thường là những trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của thành phố, là nơi đầu mối giao thông, giao lưu rất quan trọng. Đặc điểm nổi bật của các TCCSĐ phường là sự đa dạng về loại hình các chi bộ, trong đó chiếm số đông là chi bộ tổ dân phố. Đảng viên ở dây rất đông, phần lớn là đảng viên tuổi cao, sức yếu. Là nền tảng của Đảng và là cầu nối liền giữa Đảng với quần chúng, các TCCSĐ phường trực tiếp đưa đường lối của Đảng đến với quần chúng và lãnh đạo tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối ấy. Thông qua đội ngũ đảng viên hoạt động cư trú rộng khắp trong các khu dân cư, các tổ chức cơ sở phường nắm bắt thông tin, dư luận, tâm tư, nguyện vọng, những nhu cầu chính đáng của quần chúng để phản ánh và tham gia cùng cấp uỷ đảng, chính quyền cấp trên kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện nội dung và phương thức lãnh đạo, thúc đẩy sự phát triển của phường và của cả nước. Nhìn chung, các TCCSĐ xã, phường, thị trấn là nơi giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đội ngũ đảng viên; phát hiện, rèn luyện đội ngũ cán bộ cho Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội; chăm sóc, bảo vệ những nhân tố mới, tích cực. Đồng thời, là nơi trực tiếp tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động, giáo dục, thuyết phục và tổ chức quần chúng quán triệt, thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, kế hoạch công tác của cấp trên và của cấp mình nhằm mục tiêu ổn định chính trị xã hội, giữ vững an ninh trật tự, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân trong địa bàn. 1.1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ của các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở thành phố Hà Nội Quy định số 95-QĐ/TW ngày 03/3/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ của các đảng bộ, chi bộ cơ sở xã. Quy định số 94-QĐ/TW ngày 03/3/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ của các đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, thị trấn. a, Chức năng của các đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn: Là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị ở xã vững mạnh, nông thôn giàu đẹp, văn minh (đối với đảng bộ xã), lãnh đạo thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước và quản lý đô thị trên địa bàn, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, phường, thị trấn giàu đẹp, văn minh (đối với đảng bộ phường, thị trấn); không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Trong giai đoạn cách mạng mới muốn thực hiện tốt là chức năng lãnh đạo chính trị ở cơ sở, các đảng bộ xã, phường, thị trấn phải thông hiểu, nắm vững, chấp hành, quán triệt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo nghị quyết, chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và các cơ quan cấp trên cho phù hợp với điều kiện thực tế ở từng nơi. Trên cơ sở đó đề ra chủ trương, đề án, giải pháp cho đảng bộ. Đồng thời đảng bộ lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính quyền, các tổ chức quần chúng, các tổ chức kinh tế - xã hội khác. Các đảng bộ có kế hoạch tiến hành kiểm tra thường xuyên các hoạt động trong hệ thống chính trị ở cơ sở, kịp thời biểu dương những đơn vị làm tốt, phê phán, uốn nắn đơn vị làm chưa tốt, ngăn chặn những tiêu cực…để đảm bảo cho những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và cấp trên thực hiện có hiệu quả để đạt được những thành tựu thiết thực. Mọi hoạt động lãnh đạo của đảng bộ nhằm phát triển toàn diện kinh tế, xây dựng đời sống văn hoá mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, khơi dậy các phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, thực hiện tốt các quyền lợi và nghĩa vụ đối với công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc tại địa phương. Đồng thời các đảng bộ xã, phường, thị trấn phải tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chính bản thân Đảng. b, Nhiệm vụ của các đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn: Trên cơ sở chức năng cơ bản đó và những yêu cầu lãnh đạo của đảng bộ xã, phường, thị trấn cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. - Lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo nghị quyết đại hội của đảng bộ, chi bộ xã, phường, thị trấn và của cấp trên; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh tế và hộ gia đình phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tạo thêm việc làm mới cho người lao động; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước; xây dựng nông thôn, phường, thị trấn giàu đẹp, văn minh. - Lãnh đạo chính quyền thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa công nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, quản lý và sử dụng đất hợp lý, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích; thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm; quản lý và sử dụng tốt các nguồn vốn vay, vốn nhân dân đóng góp và các nguồn vốn khác (đối với đảng bộ xã); lãnh đạo chính quyền thực hiện đúng chức năng quản lý hành chính nhà nước và công tác quản lý đô thị trên địa bàn, thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy hoạch (đối với đảng bộ phường, thị trấn); phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, thực hiện tốt các chính sách xã hội, xóa đói, giảm nghèo. - Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; giám sát mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong cộng đồng dân cư ở cơ sở theo đúng pháp luật, không để tích tụ mâu thuẫn trở thành những
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan