Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đảng lãnh đạo hoạt động kinh tế đối ngoại từ năm 2005 đến năm 2015...

Tài liệu đảng lãnh đạo hoạt động kinh tế đối ngoại từ năm 2005 đến năm 2015

.PDF
86
265
133

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ ===o0o=== BÙI THỊ QUỲNH NGA ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Trần Thị Vui đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn thầy cô trong Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt các thầy cô trong Khoa Lịch sử đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt thời gian qua. Với những hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Em rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng tôi. Công trình này được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Trần Thị Vui. Các kết quả nêu trong khóa luận chưa công bố trong bất kỳ công trình nào và cũng không trùng với kết quả nghiên cứu của bất kỳ một tác giả nào. Các số liệu sử dụng trong khóa luận là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc rõ ràng. Sinh viên Bùi Thị Quỳnh Nga MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010 ..................................... 7 1.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng............................................................................................... 7 1.2. Chủ trương và sự chỉ đạo hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 2005 - 2010 .......................................................................................... 13 1.3. Đánh giá thành tựu và hạn chế về sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động kinh tế đối ngoại giai đoạn 2005 - 2010 ........................................................ 33 CHƢƠNG 2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI GIAI ĐOẠN 2010 - 2015 ............................................................................ 40 2.1. Tình hình mới và chủ trương của Đảng ................................................. 40 2.2. Đảng chỉ đạo phát triển kinh tế đối ngoại giai đoạn 2010- 2015 ............ 44 2.3. Đánh giá thành tựu và hạn chế về sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động kinh tế đối ngoại trong giai đoạn 2010 - 2015 .............................................. 60 CHƢƠNG 3. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ...................... 65 3.1. Nhận xét ................................................................................................ 65 3.2. Một số kinh nghiệm ............................................................................... 70 KẾT LUẬN ................................................................................................. 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 78 BẢNG QUY ƢỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADB: Ngân hàng phát triển châu Á AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương ASEM: Diễn đàn hợp tác Á- Âu ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa DN: Doanh nghiệp EU: Liên minh châu Âu FDI: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FTA: Hiệp định Thương mại tự do GDP: Tổng sản phẩm quốc nội IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế KH&CN: Khoa học và công nghệ NAFTA: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ NSNN: Ngân sách nhà nước MFN: Tối huệ quốc ODA: Vốn hỗ trợ phát triển chính thức OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế RCEP: Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực SHTT: Sở hữu trí tuệ TNCs: Các công ty xuyên quốc gia TPP: Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TTCK: Thị trường chứng khoán WB: Ngân hàng thế giới WTO: Tổ chức Thương mại thế giới XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Những năm đầu thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới phát triển mạnh mẽ, tạo bước nhảy vọt về chất, thúc đẩy sản xuất vật chất, tạo ra nhiều ngành kinh tế mới. Toàn cầu hóa diễn ra sâu sắc dẫn đến nền sản xuất vật chất và đời sống người dân các nước cũng có sự thay đổi. Toàn cầu hóa kinh tế nổi lên như một xu hướng định hướng, dẫn dắt quá trình phát triển của thế giới. Mở cửa và hội nhập các quốc gia vào cộng đồng quốc tế dẫn đến cải cách thể chế và cơ cấu lại nền kinh tế để có sức mạnh trong cạnh tranh. Đây là quá trình mang lại cơ hội và xung lực cho sự phát triển đồng thời cũng đặt ra những thách thức. Khi toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan và cách mạng khoa học kỹ - thuật trở thành động lực của sự phát triển thì hoạt động kinh tế đối ngoại ngày càng khẳng định là chỗ dựa thiết yếu. Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kinh tế, kĩ thuật lạc hậu, trình độ phát triển xã hội thấp do đó việc tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài có tầm quan trọng đặc biệt. Phát triển kinh tế đối ngoại trở thành một trong những định hướng lớn của nền kinh tế quốc dân. Qua đó, Việt Nam mở rộng được thị trường xuất - nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, phát triển các lĩnh vực dịch vụ và đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài. Nhu cầu đó ngày càng trở nên bức xúc trước nguy cơ ngày càng tụt hậu xa hơn về kinh tế so với khu vực và thế giới. Trong công cuộc đổi mới, Đảng tập trung nhiều nguồn lực cho việc đổi mới, mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại. Thời kì này Đảng 1 đã ban hành nhiều nghị quyết có liên quan và nghị quyết chuyên đề về hoạt động kinh tế đối ngoại: Nghị quyết số 13 - NQ/TW của Bộ Chính trị năm 2001. Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới, có phần đánh giá thực tiễn trước khi xác định phương hướng, nhiệm vụ của hoạt động kinh tế đối ngoại, nêu rõ tư tưởng chỉ đạo, phương châm và cách thức thực hiện. Các văn kiện của Đảng gắn việc đổi mới, mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại với “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập vào kinh tế quốc tế, góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế xã hội thoát ra khỏi khủng hoảng và có bước phát triển ổn định, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, sự chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh tế đối ngoại còn bất cập. Khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế còn yếu, thiếu sức cạnh tranh, nhập siêu lớn ... Một chương trình tổng kết hệ thống toàn diện những chủ trương của Đảng đối với hoạt động kinh tế đối ngoại đánh giá những thành công, hạn chế, rút kinh nghiệm để khắc phục và phát triển là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Với lý do trên, em chọn vấn đề “Đảng lãnh đạo hoạt động kinh tế đối ngoại từ năm 2005 đến năm 2015” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Là một đề tài đa dạng, đề tài Đảng lãnh đạo hoạt động kinh tế đối ngoại đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế. Mỗi công trình nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh khác nhau, hay lựa chọn những giai đoạn khác nhau trong quá trình lãnh đạo hoạt động kinh tế đối ngoại. 2 Trước hết phải kể đến công trình: Năm 1998, Masahiko Aoki- Hyung Ki Kim- Masahiro Okuno Fujiwara, Vai trò của Chính phủ trong phát triển kinh tế Đông Á: Phân tích thể chế so sánh, Oxford University Press, USA, 1998. Cuốn sách giải thích “điều kỳ diệu của Đông Á” để tìm ra sự đa dạng của các nền kinh tế khác nhau của Đông Á cũng như tính cần thiết và sự can thiệp của Chính phủ các nước trong mối quan hệ kinh tế đối với bên ngoài. Một công trình nữa phải kể đến là “Kinh tế đối ngoại Việt Nam, nội dung - giải pháp - hiệu quả”, Vũ Phạm Quyết Thắng, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1994 phân tích: Cho đến năm 1994, nền kinh tế Việt Nam xếp vào loại thấp kém của thế giới (184/ 204 nước). Dấu ấn sâu đậm xác định từ đại hội VI của Đảng đã đưa ra những tư tưởng, quan điểm mới trong định hướng thiết kế một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Một nền kinh tế như thế tất yếu phải là một nền kinh tế mở. Tác giả cho rằng, bắt đầu thời điểm đó những tư tưởng, quan điểm mới về kinh tế đối ngoại được hình thành [28; tr 3-4]. Năm 2013, Đinh Xuân Lý công bố công trình “Đối ngoại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (1945- 2012)”, (Nxb Đại học quốc gia Hà Nội), ở một số nội dung nhất định, cuốn sách trình bày chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về kinh tế đối ngoại cùng với đúc rút một số bài học kinh nghiệm về hoạch định chủ trương và thực hiện đường lối đối ngoại tác giả kết luận: “Lĩnh vực đối ngoại, từ quan điểm, đường lối, chính sách đến phương châm và phương pháp, hoạt động thực tiễn, vừa phải đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc, vừa phải thích ứng với đặc điểm và xu thế quốc tế [20; tr.349]. Năm 2005, tạp chí Lịch sử Đảng số 1 đăng bài “Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế trong quá trình đổi mới” của Hoàng Ngọc Hòa. Theo tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt 75 năm lãnh đạo cách mạng không bao giờ theo đuổi “đường lối biệt lập” mà luôn coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với 3 sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc “là một trong những nguyên tắc cơ bản trong đường lối chiến lược” [16; tr.25], bước vào thời kỳ đổi mới, nắm bắt xu thế khách quan và tác động của toàn cầu hóa, vượt lên trên thử thách, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phân tích đánh giá tình hình thế giới, đề ra đường lối kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế đúng đắn, góp phần tạo lên thế và lực mới đưa đất nước vững bước tiến vào thế kỷ XXI. Bài báo “Quá trình đổi mới tư duy của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế” của Nguyễn Thị Thu Hiền( Tạp chí Lịch sử Đảng số 7, 2010) cho rằng cùng với quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam với khu vực và thế giới, chủ trương, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ “ngày càng đầy đủ và cụ thể hơn” [15; tr.57]. Mối quan hệ giữa hai nội dung này được Đảng đề cập nhiều hơn tại Đại hội IX và Đại hội X. Như vậy, các công trình chủ yếu tập trung ở các báo cáo, bài tạp chí. Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động kinh tế đối ngoại trong giai đoạn 2005- 2015. Vì vậy, với mong muốn bổ khuyết vào khoảng trống đó, em đã lựa chọn vấn đề “Đảng lãnh đạo hoạt động kinh tế đối ngoại từ năm 2005 đến năm 2015” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp, với mong muốn phân tích những chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng, trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét và một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng. 3. Phạm vi nghiên cứu Nội dung khoa học: Hoạt động về hợp tác đầu tư với nước ngoài; hoạt động ngoại thương; xuất nhập khẩu; hợp tác khoa học - kỹ thuật; chuyển giao khoa học - công nghệ; các hoạt động dịch vụ nhằm thu ngoại tệ: du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, vận tải quốc tế. 4 Thời gian: Từ năm 2005 đến năm 2015, đặc biệt là Đại hội X (2006) và Đại hội XI (2011) của Đảng. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Khóa luận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạo nghiên cứu sử học của Đảng. Về phương pháp nghiên cứu, khóa luận đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phân tích, so sánh… 5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Đề tài tìm hiểu về chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng đối với phát triển kinh tế đối ngoại từ năm 2005 đến năm 2015, từ đó khẳng định vai trò và thành tựu về sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động kinh tế đối ngoại. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, đề tài cần giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất, khái quát và phân tích những đặc điểm của tình hình mới trong và ngoài nước, những chủ trương và sự chỉ đạo hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng. Thứ hai, đánh giá những thành tựu và hạn chế về sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động kinh tế đối ngoại từ năm 2005 đến năm 2015. 6. Đóng góp của đề tài Đề tài nghiên cứu về Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự phát triển kinh tế đối ngoại có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Vì vậy, nghiên cứu đề tài sẽ có nhiều đóng góp. Về mặt lý luận: Đề tài nghiên cứu góp phần cung cấp một số hiểu biết về nghiên cứu kinh tế đối ngoại. Về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần tìm hiểu về vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc lãnh đạo phát triển kinh tế đối ngoại. Đồng thời giúp 5 chúng ta có thể tham khảo khi giảng dạy, nghiên cứu vai trò của Đảng đối với phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại. 7. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được chia làm 3 chương: Chương 1: Đảng lãnh đạo phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại từ năm 2005 đến năm 2010. Chương 2: Đảng lãnh đạo phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại từ năm 2010 đến năm 2015. Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm. 6 CHƢƠNG 1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010 1.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng 1.1.1. Khái quát hoạt động kinh tế đối ngoại trƣớc năm 2005 Từ năm 1986, Việt Nam từng bước chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế nhiều thành phần; mở rộng và đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Qua hơn mười sáu năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhưng cũng gặp không ít khó khăn trong kinh tế đối ngoại, thể hiện qua một số mặt sau: Trong quá trình đổi mới kinh tế trong nước, kinh tế đối ngoại, Việt Nam đã có nhiều cố gắng nhằm thiết lập môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế đối ngoại nói riêng và tổng thể nền kinh tế nói chung. Gồm một số sự kiện lớn sau đây: Nối lại quan hệ tín dụng bình thường với IMF và WB, đàm phán thắng lợi tại Câu Lạc bộ Paris và London nhằm giảm, xoá, hoãn nợ Chính phủ và công ty của Việt Nam, tạo điều kiện hình thành cơ chế Hội nghị tư vấn (CG) hàng năm cam kết ODA cho Việt Nam bắt đầu từ 1993. Đây có thể coi là một mốc quan trọng phá thế bao vây cấm vận của các thế lực đế quốc và thù địch; Ký Hiệp định Bali và trở thành thành viên ASEAN năm 1995, tiếp đó tham gia AFTA vào năm 1996; Thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ năm 1995 và ký Hiệp định thương mại với Mỹ năm 2001 với điều khoản tối huệ quốc tạo thuận lợi cho hàng hoá ta thâm nhập thị trường Mỹ; Ký Hiệp định khung về hợp tác phát triển với EU (năm 1995), tạo điều kiện cho các 7 hiệp định cụ thể về hàng dệt, nông thuỷ sản thâm nhập vào thị trường EU; Tham gia APEC (1998 ), ASEM tạo điều kiện cho quá trình hội nhập kinh tế khu vực và liên khu vực; Gửi đơn gia nhập WTO năm 1995 và đang quá trình đàm phán gia nhập tổ chức này vào năm 2005. Từ năm 1990, các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các nước thuộc OECD và các nước Châu Á đã nối lại viện trợ cho Việt Nam. Nguồn vốn ODA song phương đã tăng từ 75 triệu USD/năm trong giai đoạn 19851990 lên khoảng 350 triệu USD năm 1992. Tuy nhiên, quan hệ với các tổ chức tín dụng quốc tế chỉ được chính thức nối lại từ năm 1993 với Hội nghị các nhà tài trợ dành cho Việt Nam tại Paris (sau này là Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam - Hội nghị CG). Sau 10 Hội nghị CG (từ 1993 đến 2003, các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam tổng cộng là 25,39 tỷ USD (năm 2003 các nhà tài trợ đã cam kết hỗ trợ Việt Nam 2,84 tỷ USD. Tổng giá trị vốn ODA đã được hợp thức hoá bằng các hiệp định ký kết đạt khoảng 16,6 tỷ USD ( trong đó đã giải ngân khoảng 11 tỷ), bằng 83% tổng nguồn vốn ODA đã cam kết, tập trung vào giao thông vận tải và điện. Trong khi ODA trên thế giới ngày càng giảm, nhiều nhà tài trợ cắt giảm ODA do yêu cầu trong nước, ODA cam kết dành cho Việt Nam vẫn tăng. Các nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam là Nhật Bản, WB và ADB, chiếm khoảng 70% tổng giá trị các hiệp định đã ký kết. Tình thế giới và khu vực những năm đầu thế kỷ XXI diễn biến phức tạp, nhất là sự kiện khủng bố ngày 11-9-2001 ở Mỹ. Chủ nghĩa đế quốc thực hiện chính sách bá quyền, đánh đòn phủ đầu, gây ra chiến tranh ở Ápganixtan, Irắc… làm cho tình hình thế giới trở lên phức tạp. Đấu tranh dân tộc và giai cấp trên thế giới trở lên phức tạp và quyết liệt hơn. Thiên tai dịch bệnh xảy ra ở nhiều nơi như dịch bệnh SARS (năm 2003), dịch cúm gia cầm (năm 2004, 2005) gây thiệt hại nhiều về người và của ảnh hưởng đến thu hút khách du 8 lịch quốc tế. Đặc biệt các nước ASEAN chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính - kinh tế năm 1997 - 1998. Tuy nhiên, trước tình hình thế giới như vậy nhưng hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam có bước tiến mới quan trọng. Xuất nhập khẩu tăng nhanh. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm (2000- 2005) đạt 111 tỷ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch 16%/năm). Một số sản phẩm của nước ta như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản… đã có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vốn đầu tư nước ngoài cả ODA và FDI liên tục tăng qua các năm. Vốn ODA ký kết đạt 11,2 tỷ USD; vốn giải ngân đạt 7,9 tỷ USD, tập trung cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội , đào tạo nguồn nhân lực… Vốn FDI có bước chuyển tích cực, tăng mạnh từ năm 2004, tổng mức vốn đăng ký đạt 20,9 tỷ USD, vượt trên 39% so với kế hoạch, trong đó, thực hiện 14,3 tỷ USD, vượt 30% so với kế hoạch. Các doanh nghiệp Việt Nam đã có một số dự án đầu tư ra nước ngoài như khai thác dầu ở Angiêri, Singapore, trồng cao su ở Lào. Hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến mới. Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các tổ chức quốc tế, các nước trên thế giới và khu vực tiếp tục được mở rộng. Việc triển khai thực hiện Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN, Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ theo cam kết đã mang lại hiệu quả. Đàm phán để gia nhập WTO được đẩy mạnh. Các hiệp định song phương, đa phương khác được ký kết và triển khai. Những cố gắng đó góp phần tạo ra bước phát triển mới rất quan trọng cho kinh tế đối ngoại. 1.1.2. Đặc điểm tình hình quốc tế và trong nƣớc những năm 2005-2010 Tình hình quốc tế Trong những năm qua, tình hình thế giới và khu vực thay đổi nhanh chóng với những diễn biến phức tạp. Xu thế hình thành trật tự thế giới mới theo hướng đa cực ngày càng rõ. Các nước lớn gia tăng tập hợp lực lượng 9 không chỉ ở khía cạnh chính trị - an ninh truyền thống mà còn trong cả lĩnh vực kinh tế. Cạnh tranh địa - chính trị chiến lược diễn ra hết sức gay gắt, các nước lớn đẩy mạnh tập hợp lực lượng ở nhiều địa bàn chiến lược. Quan hệ giữa các nước lớn tiếp tục vận động trong khuôn khổ vừa hợp tác, vừa đấu tranh, song mặt cạnh tranh có biểu hiện diễn biến phức tạp. Đã có nhiều sáng kiến hợp tác, liên kết, kết nối kinh tế liên lục địa, trong đó các nước lớn đóng vai trò chủ đạo, hoặc với tư cách khởi xướng ý tưởng, hoặc có khả năng chi phối chủ yếu, đã được đưa ra. Trong khi đó, kinh tế thế giới nhiều năm qua vẫn chưa thực sự phục hồi vững chắc, tốc độ tăng trưởng chậm hơn kỳ vọng. Trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Cạnh tranh kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ... giữa các nước ngày càng gay gắt. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra năm 2008, đã có tác động to lớn đến nền kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm và bộc lộ một số hạn chế lớn trong thời gian dài. Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn rất gay gắt. Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phối hợp giải quyết: khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; sự gia 10 tăng dân số cùng với các luồng dân di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị huỷ hoại; khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có chiều hướng tăng. Tình hình các khu vực trên thế giới cũng có nhiều biến động. Ngoại trừ một số chuyển biến tích cực, như việc bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Cu-ba, hay I-ran và nhóm P5+1 đạt được thỏa thuận hạt nhân lịch sử, các “điểm nóng” khác vẫn trong tình trạng bế tắc, chưa tìm được lối thoát. Tại một số địa bàn, xung đột, tranh chấp còn có xu hướng căng thẳng hơn, xuất hiện thêm các “điểm nóng” mới, tác động mạnh tới tình hình an ninh thế giới. Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực tăng trưởng kinh tế năng động với việc đẩy mạnh nhiều hoạt động hợp tác, liên kết kinh tế. Việc hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN góp phần tạo động lực mới giữa các quốc gia thành viên và củng cố vị trí trung tâm của ASEAN tại khu vực. Tuy vậy, đây cũng là địa bàn hội tụ hầu hết những đặc điểm phức tạp chung của tình hình thế giới. Việc các nước lớn đẩy mạnh cạnh tranh chiến lược, gia tăng ảnh hưởng tại khu vực cùng với các vấn đề nội bộ của nhiều nước đã và đang làm gia tăng nguy cơ tiềm ẩn đối với môi trường hòa bình, ổn định của khu vực. Tranh chấp chủ quyền biển, đảo và chủ nghĩa dân tộc cực đoan có xu hướng căng thẳng hơn; tình hình Biển Đông có nhiều diễn biến rất phức tạp. Tình hình đó tác động sâu sắc, nhiều chiều tới Việt Nam, một mặt, tạo ra nhiều cơ hội; mặt khác, đặt ra những thách thức rất lớn đối với môi trường an ninh, phát triển và không gian sinh tồn của đất nước, đòi hỏi công tác đối ngoại đảng, cũng như toàn thể mặt trận đối ngoại nói chung phải không ngừng nỗ lực, củng cố, đưa các mối quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần tạo thế và lực mới cho đất nước, phục vụ đắc lực nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tình hình trong nước 11 Trong nước, những thành tựu 5 năm qua (2001 - 2005) và 20 năm đổi mới (1986 - 2006) làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước. Việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững môi trường hoà bình tạo thêm nhiều thuận lợi cho nhân dân ta đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ nhanh hơn. Việt Nam đẩy nhanh các hoạt động kinh tế đối ngoại với các nước ASEAN, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, mở cửa sang các thị trường mới, trong đó có Mỹ, hàng xuất khẩu chủ yếu tập trung vào nông - hải sản, hàng may mặc, dầu thô, hàng điện tử..., trong đó lợi thế nhất của ta là hàng nông, lâm, thủy sản. Hàng may mặc và giày dép là lợi thế của nước ta vì nó sử dụng nhiều lao động, nếu mở rộng được thị trường tiêu thụ ra ngoài nước sẽ tạo được nhiều công ăn, việc làm và thu nhập, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp. Vấn đề là phải đầu tư công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới, nhất là vào Mỹ và EU. Việt Nam đã là thành viên và tích cực đóng góp vào hoạt động của các tổ chức quốc tế, khu vực như Liên Hợp Quốc, ASEAN, APEC, ASEM, tham gia các cam kết xây dựng thị trường tự do khu vực ASEAN (AFTA)… và trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào tháng 1 năm 2007. Nhờ thắng lợi của hơn 20 năm đổi mới, dựa trên chính sách đối ngoại đúng đắn, Việt Nam có quan hệ hòa bình, hữu nghị rộng lớn trong quan hệ quốc tế. Uy tín và vị thế của nước ta trên thế giới và khu vực không ngừng tăng lên. Điều đó đã tạo thêm nhiều thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội nhanh hơn. Tuy nhiên, Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu 12 vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. 1.2. Chủ trƣơng và sự chỉ đạo hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 2005 - 2010 1.2.1. Chủ trƣơng của Đảng Đại hội X của Đảng (2006) nêu nhiệm vụ: “Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất, tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế và hoạt động kinh tế đối ngoại”. Chủ trương này được kế thừa và phát triển từ Đại hội VII của Đảng với chủ trương: “Mở rộng, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi” [7; tr.81]. Đại hội VIII đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII về kinh tế đối ngoại đã nhấn mạnh: “Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là về những sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA” [8; tr.60]. Đại hội IX của Đảng đưa ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”. Sau Đại hội IX, Bộ Chính trị khóa IX đã ra Nghị quyết 07 về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX nhấn mạnh: “Chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy 13 đủ các cam kết quốc tế đa phương, song phương nước ta đã ký và chuẩn bị tốt điều kiện để sớm gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO)”. Như vậy, sau hơn 20 năm đổi mới, từ nhận thức đúng đắn tính tất yếu khách quan và những vấn đề của toàn cầu hóa, Đảng đã xác định rõ chủ trương đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế và hoạt động kinh tế đối ngoại. Điều này thể hiện khi Việt Nam gia nhập WTO (tháng 1/ 2007). Đường lối đối ngoại Đại hội VII “Độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại” đã đánh dấu một bước khởi đầu cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh quốc tế mới. Mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đa phương là điều kiện để giữ thế cân bằng, tránh sự lệ thuộc một chiều vào một số đối tác nhất định. Đó là một giải pháp để vừa mở rộng các mối quan hệ kinh tế, vừa giữ độc lập tự chủ. Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và mở rộng Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại song phương và đa phương với nhiều nhóm đối tượng khác nhau dưới nhiều hình thức và trên nhiều lĩnh vực. Nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng, Việt Nam đã có những thành công đáng kể trong hội nhập kinh tế quốc tế. Triển khai thực hiện đường lối “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07- NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết này mang tính chất đột phá và đóng vai trò quan trọng, là “kim chỉ nam” hướng dẫn, thống nhất về mặt nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn dân và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Nghị quyết nêu ra quan điểm trong quá trình hội nhập đồng thời nêu ra nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó nêu rõ: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan