Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài theo pháp luật việt nam...

Tài liệu đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài theo pháp luật việt nam

.PDF
20
73
75

Mô tả:

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam :Luận văn ThS. Luật: 60 38 30 /Nguyễn Thu Hằng ; Nghd. : PGS.TS. Nguyễn Bá Diến MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang 1.1. 1.1.1. 1.1.2. 1.1.3. 1.1.3.1. 1.1.3.2. 1.1.3.3. 1.1.4. 1.1.4.1. 1.1.4.2. 1.1.4.3. 1.1.4.4. 1.1.4.5. 1.1.5. 1.1.6. 1.1.6.1. 1.1.6.2. 1.1.6.3. 1.1.6.4. 1.1.6.5. 1.2. 1.2.1. Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA Ở NƯỚC NGOÀI Nhãn hiệu hàng hóa và bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa Các dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu hàng hóa Các điều kiện để bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ Điều kiện về tính phân biệt Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu Các loại nhãn hiệu hàng hóa Nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ Nhãn hiệu tập thể Nhãn hiệu chứng nhận Nhãn hiệu liên kết Nhãn hiệu nổi tiếng Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa Ý nghĩa của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa Đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho chủ sở hữu Thúc đẩy sáng tạo và đổi mới kỹ thuật sản xuất, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể trong nền kinh tế Góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và giá trị của doanh nghiệp Bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người tiêu dùng Có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo hộ lợi ích quốc gia Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài Định nghĩa 1 1 5 5 5 6 9 9 10 13 13 14 15 17 18 20 23 25 25 26 27 28 28 30 30 1.2.2. 1.2.2.1. 1.2.2.2. 1.2.3. 1.2.3.1. Nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài Nguyên tắc lãnh thổ Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên Ý nghĩa của việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài Đảm bảo cho doanh nghiệp một vị thế cạnh tranh vững chắc trên thị trường quốc tế 1.2.3.2. Tạo tiền đề thúc đẩy mạnh hơn hoạt động hợp tác sản xuất kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài 1.3. Các văn bản pháp luật Việt Nam liên quan đến đăng ký nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài 1.3.1. Giai đoạn từ 1982 - 1996 1.3.2. Giai đoạn từ 1996 - 2005 1.3.3. Giai đoạn từ 2005 đến nay Chương 2: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA Ở NƯỚC NGOÀI 2.1. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo Công ước Paris (đăng ký trực tiếp tại từng quốc gia) 2.2 Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo Thỏa ước và Nghị định thư Madrid 2.2.1. Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu 2.2.2. Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu 2.3. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa vào Cộng đồng châu Âu theo thể thức CTM (the community trade mark) Chương 3: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA Ở NƯỚC NGOÀI VÀ CÁC KIẾN NGHỊ 3.1. Thực trạng về hoạt động đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài 3.1.1. Số lượng đơn đăng ký và nhãn hiệu được bảo hộ ở nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp 3.1.2. Các dạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa xảy ra thường xuyên đối với các doanh nghiệp Việt Nam 3.2. Hạn chế và nguyên nhân 3.2.1. Ý thức của các doanh nghiệp trong việc chủ động đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài vẫn còn yếu kém 3.2.2. Hiểu biết pháp luật về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài của các doanh nghiệp xuất khẩu còn hạn chế 3 30 31 31 33 34 35 36 36 37 38 39 39 45 46 51 54 59 59 59 66 70 70 71 3.2.3. 3.3. 3.3.1. 3.3.2. Một số quy định về pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa còn bất cập, chưa hợp lý Một số giải pháp nâng cao kết quả hoạt động đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài Về phía Nhà nước Về phía doanh nghiệp KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 5 72 72 72 75 84 87 MỞ ĐẦU Sở hữu trí tuệ có vai trò quan trọng trong quá trình cải cách kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Vai trò này ngày càng được khẳng định rõ ràng hơn trong nền kinh tế tri thức - một xu hướng của thời đại, và Việt Nam cũng coi như một mục tiêu cho công cuộc phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của mình. Chính vì vậy, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói riêng đã và đang là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước cũng như các doanh nghiệp Việt Nam. 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn Tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đánh dấu bước thành công to lớn trong con đường hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Việt Nam vẫn đang không ngừng nỗ lực khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ mang lại cho Việt Nam cũng như các doanh nghiệp những cơ hội phát triển mạnh mẽ mà còn tiềm tàng những thách thức lớn của nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt. Bước vào sân chơi lớn WTO, các doanh nghiệp Việt Nam không khỏi bỡ ngỡ với những luật định hà khắc. Một trong những luật chơi quan trọng là về sở hữu trí tuệ, trong đó, nhãn hiệu hàng hóa là một yếu tố chủ chốt. Những năm gần đây, bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa không còn xa lạ với các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng do nhận thức còn hạn chế nên việc đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nước ngoài vẫn đang đứng trước những thách thức rất lớn và những điều kiện hết sức mới mẻ. Không ít doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu ngơ ngác khi bị chiếm đoạt nhãn hiệu hàng hóa hay xuất hiện hàng giả, hàng nhái trên thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam khác rơi vào những vụ tranh chấp "ngoài dự kiến" về quyền sở hữu trí tuệ, vi phạm quy định bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa với các doanh nghiệp, đối thủ nước ngoài khác. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này chính là nhận thức của doanh nghiệp về sở hữu trí tuệ. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng khắc phục được thực trạng và ngay lập tức chuẩn bị những bước đi cụ thể, nhằm chuẩn bị cho việc cạnh tranh là một hậu quả tất yếu của quá trình hội nhập, coi đây là một trong những bước thực hiện cam kết của Việt Nam khi đã gia nhập WTO. Đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa chính là việc doanh nghiệp thực hiện việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa cho sản phẩm, dịch vụ của chính mình, bảo vệ và phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Về lâu dài, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong đó có việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như thiết lập các mối quan hệ thương mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Về phía các cơ quan chức năng, các nhà quản lý, các đơn vị tư vấn, đại diện về sở hữu trí tuệ của Việt Nam và của nước ngoài có hoạt động tại Việt Nam... cũng đã và 7 đang cung cấp các sự hỗ trợ, các cơ chế, hoạt động tuyên truyền hướng dẫn nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp. Vấn đề quan trọng nhất vẫn là chính bản thân các doanh nghiệp; họ cần nhận thức được đúng, đủ về tầm quan trọng của vấn đề để có thể lựa chọn được cho mình sự hỗ trợ cần thiết nhất trong "thực đơn" những sự tư vấn, hỗ trợ, quản lý về sở hữu trí tuệ hiện có. Mà một trong những nhận thức gần gũi, mang ý nghĩa thực tiễn cao nhất các doanh nghiệp nói riêng và toàn xã hội nói chung - khi tham gia vào nền kinh tế tri thức, cần được trang bị, chính là: nhận thức về luật lệ, thủ tục tại những "sân chơi" mình sẽ tham gia. Trước tình hình đó, xin được chọn đề tài: "Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam" để góp phần vào việc bổ sung một góc nhìn, một ý kiến tư vấn giúp nâng cao nhận thức tự thân của doanh nghiệp về sở hữu trí tuệ, từ "lát cắt" của một luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Mục đích nghiên cứu Luận văn tìm hiểu một số quy định về quy trình, thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở một số thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, phân tích thực trạng và những vấn đề còn vướng mắc của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu Việt Nam trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại thị trường nước ngoài. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam 3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại một số thị trường nước ngoài, một số quy định về mặt pháp lý của một số quốc gia có quan hệ kinh tế thường xuyên với Việt Nam. Ngoài ra, luận văn cũng tìm hiểu thực trạng của một số doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu có uy tín của Việt Nam đã gặp khó khăn trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại thị trường nước ngoài. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ứng dụng cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử cùng với khoa học lý luận về nhà nước pháp luật. Để thực hiện nghiên cứu đề tài, luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài. Chương 2: Một số nội dung cơ bản của các quy định về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài. 9 Chương 3: Thực trạng về hoạt động đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam và các kiến nghị. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA Ở NƯỚC NGOÀI 1.1. Nhãn hiệu hàng hóa và bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa 1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa Theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu hàng hóa là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân khác nhau. Như vậy, khái niệm nhãn hiệu hàng hóa tại Luật Sở hữu trí tuệ được định nghĩa theo tiêu chí chức năng của nhãn hiệu. Chúng ta có thể thấy chức năng của nhãn hiệu là để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở khác nhau, do đó, dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu hàng hóa phải làm cho người tiêu dùng dễ nhận biết, phân biệt được đó là hàng hóa, dịch vụ của cơ sở sản xuất, kinh doanh nào. Vì vậy, các dấu hiệu này phải độc đáo, không giống với bất cứ dấu hiệu nào của các cơ sở kinh doanh khác. 1.1.2. Các dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu hàng hóa • Dấu hiệu từ ngữ: Từ ngữ là dấu hiệu được dùng phổ biến nhất và chiếm số lượng lớn trong thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. • Dấu hiệu là chữ cái và con số: Dấu hiệu này bao gồm một hoặc nhiều chữ cái, một hoặc nhiều chữ số hoặc kết hợp cả hai. • Dấu hiệu là hình vẽ: Dấu hiệu này bao gồm các hình họa, các nét vẽ, biểu tượng hoặc hình họa hai chiều của hàng hóa hoặc bao bì. • Dấu hiệu là sự kết hợp các dấu hiệu từ ngữ, chữ cái, con số, hình vẽ với nhau. Loại dấu hiệu này được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam cũng như ở các nước khác. • Dấu hiệu là các biểu tượng: bao gồm những biểu tượng vui, những hình vẽ... như biểu tượng "bò cười" sử dụng cho sản phẩm phomat... • Dấu hiệu tổ hợp màu sắc: Bao gồm các từ ngữ, hình ảnh và bất kỳ sự kết hợp nào giữa chúng có màu sắc hoặc sự kết hợp màu sắc với các yếu tố khác hoặc chỉ riêng màu sắc. 1.1.3. Các điều kiện để bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa 1.1.3.1. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ Theo quy định tại Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: - Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc; 11 - Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác. 1.1.3.2. Điều kiện về tính phân biệt Theo Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ thì nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và không phải là các dấu hiệu bị loại trừ sau đây: - Hình và hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ không thông dụng, trừ trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu. Các hình tròn, vuông, hình chữ nhật đơn giản hoặc các chữ số 1, 2, 3, các chữ cái A, B, C hay chữ Lào, Campuchia… sẽ không được đăng ký bảo hộ là nhãn hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, có những trường hợp ngoại lệ như nhãn hiệu "333" là nhãn hiệu bao gồm các chữ số đơn thuần nhưng vẫn được bảo hộ vì đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi. - Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hóa, dịch vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người biết đến. Hiện nay có nhiều dấu hiệu, biểu tượng, quy ước đã được thừa nhận chính thức như các ký hiệu giao thông, năm vòng tròn lồng vào nhau là biểu tượng cho các thế vận hội thể thao, hình chữ thập đỏ biểu tượng cho ngành y tế… Các biểu tượng, quy ước này không thể được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu hàng hóa. - Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác mang tính mô tả hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn đăng ký nhãn hiệu. - Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể kinh doanh. Chẳng hạn, "xây dựng" không thể được bảo hộ với tư cách là nhãn hiệu hàng hóa cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. - Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu hoặc được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận quy định tại Luật này; - Dấu hiệu không phải là nhãn hiệu liên kết trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn trong trường hợp đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, kể cả đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự 13 từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự mà đăng ký nhãn hiệu đó đã chấm dứt hiệu lực chưa quá năm năm, trừ trường hợp hiệu lực bị chấm dứt vì lý do nhãn hiệu không được sử dụng trong thời hạn năm năm liên tục mà không có lý do chính đáng; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm cho người tiêu dùng hiểu sai lệch về nguồn gốc địa lý của hàng hóa; - Dấu hiệu trùng với chỉ dẫn địa lý hoặc có chứa chỉ dẫn địa lý hoặc được dịch nghĩa, phiên âm từ chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho rượu vang, rượu mạnh nếu dấu hiệu được đăng ký để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó; - Dấu hiệu trùng hoặc không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp của người khác được bảo hộ trên cơ sở đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn so với ngày nộp đơn, ngày ưu tiên của đơn đăng ký nhãn hiệu. Tóm lại, các quy định về khả năng phân biệt của nhãn hiệu trong Luật Sở hữu trí tuệ khá chi tiết, đầy đủ, các nhà làm luật cũng đã ghi nhận trường hợp khả năng phân biệt được của nhãn hiệu qua quá trình sử dụng. 1.1.3.3. Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu Điều 73 Luật Sở hữu trí tuệ quy định các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu, bao gồm: - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy của các nước; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề 15 nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận; - Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ. 1.1.4. Các loại nhãn hiệu hàng hóa 1.1.4.1. Nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ Ở Việt Nam, trước đây, thuật ngữ nhãn hiệu dịch vụ được đề cập đến trong Khoản 1 Điều 6, Chương II, Nghị định 63 của Chính phủ: "Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ". Tuy nhiên, đến Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, các nhà làm luật không tách bạch giữa khái niệm nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ mà quy định một cách khái quát: Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Như vậy, trong khái niệm nhãn hiệu đã bao hàm cả nhãn hiệu dịch vụ. 1.1.4.2. Nhãn hiệu tập thể Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu thuộc sở hữu bởi một tập thể mà bản thân tập thể này không sử dụng nhãn hiệu nhưng mỗi thành viên của nó có quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể đã đăng ký. Mỗi thành viên của tập thể được sử dụng nhãn hiệu tập thể đó đối với hàng hóa, dịch vụ của riêng mình nhưng phải tuân thủ quy chế do tập thể đưa ra. Để phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luật Sở hữu trí tuệ đã định nghĩa nhãn hiệu tập thể theo tiêu chí về chức năng với danh nghĩa là một nhãn hiệu hàng hóa đặc biệt, dùng để phân biệt hàng hóa/dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. Đặc biệt, dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ có thể được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể (điểm đ khoản 2 Điều 74). Đây chính là điểm mới của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, nó cho thấy quan niệm của chúng ta về nhãn hiệu tập thể đã gần với quan niệm của các nước trên thế giới hơn. 1.1.4.3. Nhãn hiệu chứng nhận Nhãn hiệu chứng nhận là một loại nhãn hiệu hàng hóa đặc thù mới xuất hiện gần đây trong thực tiễn thương mại. Loại nhãn hiệu này chưa được đề cập đến trong các 17 điều ước quốc tế về nhãn hiệu hàng hóa, kể cả hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, người Mỹ lại rất quen thuộc với loại nhãn hiệu hàng hóa này. Luật nhãn hiệu hàng hóa năm 1946 của Mỹ qua nhiều lần sửa đổi, cùng với tài liệu hướng dẫn chính thức đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của Cục Sáng chế và nhãn hiệu hàng hóa Mỹ đề cập khá chi tiết về nhãn hiệu chứng nhận và những đặc điểm của nó. Chính vì vậy mà Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã đề cập tới nhãn hiệu hàng hóa này nhưng mới chỉ quy định nhãn hiệu chứng nhận là một trong những loại của nhãn hiệu hàng hóa mà chưa có bất kỳ quy định nào về mặt khái niệm cũng như cơ chế bảo hộ đối với nhãn hiệu chứng nhận. Để đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, để thực thi các cam kết quy định trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 lần đầu tiên đã ghi nhận sự tồn tại nhãn hiệu chứng nhận: "Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu " (Khoản 18 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ.). 1.1.4.4. Nhãn hiệu liên kết Khoản 19 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ cũng quy định nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau. 1.1.4.5. Nhãn hiệu nổi tiếng Hiện nay, Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định: "Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được nhiều người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam". 1.1.5. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa Nhãn hiệu được bảo hộ thông qua việc đăng ký hoặc có thể thông qua việc sử dụng. Thông qua việc đăng ký, nhãn hiệu sẽ được bảo hộ mạnh hơn, đặc biệt trong trường hợp có tranh chấp với một nhãn hiệu giống hoặc tương tự. Theo quy định của pháp luật, việc đăng ký mang lại cho doanh nghiệp độc quyền ngăn chặn người khác đưa ra thị trường các sản phẩm giống hoặc tương tự mang nhãn hiệu giống hoặc tương tự gây nhầm lẫn. Theo quy định tại Điều 11 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 và Điều 3 Nghị định 103/2006/NĐ-CP, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trình tự, thủ tục đăng ký nhãn hiệu tại Cục Sở hữu trí tuệ: Chủ thể nộp đơn phải là người có quyền nộp đơn theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ đồng thời đơn xin đăng 19 ký nhãn hiệu cũng phải đáp ứng các yêu cầu nhất định (theo Điều 101 và Điều 105 Luật Sở hữu trí tuệ). Đơn phải được nộp theo đúng cách thức và được chấp nhận theo nguyên tắc người nộp đơn đầu tiên. Pháp luật Việt Nam cũng chấp nhận nguyên tắc ưu tiên theo Công ước Paris. Trên cơ sở hồ sơ đăng ký của người nộp đơn, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ tiến hành thẩm định đơn bao gồm thẩm định hình thức và thẩm định nội dung sau đó quyết định cấp hay từ chối cấp đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Cơ quan có thẩm quyền đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam là Cục Sở hữu trí tuệ, đồng thời là cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về nhãn hiệu. Thời gian để một nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ là 9 tháng. Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, có hiệu lực 10 năm và có thể được gia hạn nhiều lần, mỗi lần 10 năm. Khi được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu, chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền trực tiếp sử dụng nhãn hiệu; ngăn không cho người khác sử dụng nhãn hiệu trùng hay tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được bảo hộ; có quyền định đoạt nhãn hiệu thông qua lixăng hoặc để lại thừa kế nhãn hiệu đó cho người khác…. Đây là những độc quyền mà chỉ chủ sở hữu mới có được. 1.1.6. Ý nghĩa của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa 1.1.6.1. Đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho chủ sở hữu Theo khái niệm về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, có thể hiểu rằng, khi chủ sở hữu đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu hàng hóa của mình, họ sẽ được luật pháp công nhận và được bảo vệ về mặt pháp lý. Theo đó, họ có toàn quyền thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát triển danh tiếng của mình trên thị trường. 1.1.6.2. Thúc đẩy sáng tạo và đổi mới kỹ thuật sản xuất, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể trong nền kinh tế Để đạt được lợi ích kinh doanh, nhà sản xuất phải không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao năng suất, củng cố chất lượng nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng cao của những người tiêu dùng thông minh và khó tính. Và như vậy, nhãn hiệu hàng hóa trở thành động lực thúc đẩy sản xuất, tạo nên uy tín và sự phát triển của các nhà kinh doanh. 1.1.6.3. Góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và giá trị của doanh nghiệp. Nhãn hiệu hàng hóa tạo ra giá trị cho sản phẩm, khách hàng sẽ rất sẵn lòng trả giá cao hơn để được sử dụng sản phẩm/dịch vụ mang nhãn hiệu mà họ yêu thích. Đồng thời, họ cũng sẵn sàng sử dụng sản phẩm/dịch vụ đó thường xuyên hơn, vì vậy, giá trị mang lại cho doanh nghiệp sẽ cao hơn. Chính vì thế, việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa là việc làm nhằm tạo ra sự khác biệt giữa sản phẩm, dịch vụ của mình với những sản phẩm, dịch vụ cùng loại khác và đây cũng chính là một trong những phương pháp nâng cao giá trị sản phẩm và giá trị của doanh nghiệp. 21 1.1.6.4. Bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người tiêu dùng Với người tiêu dùng, nhãn hiệu hàng hóa có vai trò vô cùng quan trọng. Trong nhịp sống sôi động và bận bịu, với vô vàn các mặt hàng, dịch vụ luôn đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng thì việc bỏ thời gian lựa chọn loại sản phẩm yêu thích và thiết yếu dường như là không thể. Người tiêu dùng chủ yếu đưa ra quyết định lựa chọn dựa trên kinh nghiệm tiêu dùng, cụ thể chính là sự hiểu biết và tin tưởng của họ về các nhãn hiệu hàng hóa khác nhau của cùng một loại hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, người tiêu dùng không thể khôn ngoan tới mức họ có thể phân biệt được các hàng hóa mang nhãn hiệu thật với những sản phẩm làm nhái, làm giả đầy tinh vi như hiện nay. Việc mua nhầm xảy ra thường xuyên hơn và hậu quả là không thể lường được. Khi đó, bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa là công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ người tiêu dùng. Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa góp phần đẩy lùi tệ nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, giúp người tiêu dùng thoát khỏi tâm lý hoang mang, lo sợ khi lựa chọn sản phẩm tiêu dùng. 1.1.6.5. Có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo hộ lợi ích quốc gia. Vì việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa chỉ mang tính lãnh thổ nên một nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ đầy đủ ở Việt Nam sẽ không được bảo hộ ở các quốc gia khác nếu không đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước đó. Như vậy, trong trường hợp các hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam được xuất khẩu sang thị trường nước ngoài, nếu các doanh nghiệp chưa kịp thời đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước đó thì rất dễ xuất hiện hàng giả, hàng nhái. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn có thể bị đối tác hoặc các doanh nghiệp khác trên thị trường nước ngoài đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của mình tại thị trường đó. Khi đó, việc xuất khẩu hàng hóa với nhãn hiệu hàng hóa đó của doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường này sẽ trở thành hành vi phạm pháp vì đương nhiên, doanh nghiệp Việt Nam bị cấm xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ với nhãn hiệu hàng hóa đã được doanh nghiệp khác đăng ký. Trên thực tế những năm vừa qua, đã có nhiều doanh nghiệp Việt Nam thành công trong việc xây dựng các sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, tạo được uy tín trong lòng người tiêu dùng. Tuy nhiên, khi đưa những sản phẩm này ra thị trường nước ngoài, họ, một phần vì thiếu hiểu biết, một phần vì chậm chân đã để các doanh nghiệp nước ngoài chiếm đoạt mất nhãn hiệu hàng hóa của mình đơn giản chỉ bằng cách đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại thị trường xuất khẩu. Kết quả tất yếu là chúng ta mất đi thị trường tiềm năng ở nước ngoài. Điều này thực sự là một tổn thất đối với nền kinh tế Việt Nam khi mà tổng thu nhập quốc dân phần lớn là đóng góp doanh thu của các ngành có sản phẩm xuất khẩu. Ngoài ra, pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa còn tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư và chuyển giao công nghệ nước ngoài. Khi tìm hiểu cơ hội đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến việc tài sản của họ khi đầu tư 23 vào một nước có được pháp luật bảo hộ hay không, đặc biệt là các tài sản trí tuệ, trong đó có nhãn hiệu hàng hóa. Nếu đứng trước thực trạng nhãn hiệu hàng hóa không được bảo hộ hoặc bảo hộ kém hiệu quả, họ luôn dự kiến được khả năng sản phẩm gắn NH của mình sẽ bị sao chép, làm giả hoặc sẽ có rất nhiều NH tương tự gắn lên các sản phẩm cùng loại được bán với giá rẻ thì nhiều khả năng là họ sẽ lựa chọn một quốc gia khác nơi mà nhãn hiệu hàng hóa của họ được bảo hộ tốt hơn. 1.2. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài Theo quy định về pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, một nhãn hiệu được đăng ký tại Việt Nam thì chỉ được bảo hộ trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam và không đương nhiên được bảo hộ ở nước ngoài. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, doanh nghiệp Việt Nam cần đăng ký bảo hộ NH tại những nước mà doanh nghiệp có dự định sản xuất kinh doanh. 1.2.1. Định nghĩa Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài là việc chủ nhãn hiệu hàng hóa đăng ký quyền được bảo hộ về nhãn hiệu hàng hóa tại các nước khác, nơi họ có nhu cầu xác lập về quyền sở hữu độc quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa. 1.2.2. Nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài Việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa không phải là một việc làm đương nhiên cho bất kỳ các doanh nghiệp có mong muốn được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa phải tuân theo các nguyên tắc về bảo hộ. 1.2.2.1. Nguyên tắc lãnh thổ Đây là một nguyên tắc đặc trưng trong bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của Luật nhãn hiệu của Việt Nam và quốc tế. Nhãn hiệu được đăng ký, bảo hộ theo nguyên tắc lãnh thổ, nghĩa là đăng ký ở nước nào thì chỉ có hiệu lực ở nước đó. 1.2.2.2. Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên (first to file) được thể hiện trong trường hợp các nhãn hiệu xin đăng ký trùng nhau thì nhãn hiệu sẽ được ưu tiên cấp cho người nộp đơn đầu tiên. 1.2.3. Ý nghĩa của việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài 1.2.3.1. Đảm bảo cho doanh nghiệp một vị thế cạnh tranh vững chắc trên thị trường quốc tế Muốn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời ngăn chặn mọi tình trạng xâm phạm bất hợp pháp quyền sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp phải kịp thời đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại các thị trường xuất khẩu. Đó chính là cách thức doanh nghiệp xác lập quyền sở hữu đối với nhãn hiệu hàng hóa. Có nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ tại thị trường nước ngoài, doanh nghiệp có điều kiện để xâm nhập, tạo lập, từ đó giữ vững và phát triển thị trường xuất khẩu. 25 Tạo tiền đề thúc đẩy mạnh hơn hoạt động hợp tác sản xuất kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại thị trường nước ngoài giúp doanh nghiệp tạo lập và giữ vững thị trường xuất khẩu, đưa đến một hoạt động kinh doanh ổn định mang tính lâu dài cho các doanh nghiệp xuất khẩu. 1.3. Các văn bản pháp luật Việt Nam liên quan đến đăng ký nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài 1.3.1. Giai đoạn từ 1982 - 1996 1.3.2. Giai đoạn từ 1996 - 2005 1.3.3. Giai đoạn từ 2005 đến nay Chương 2 MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA Ở NƯỚC NGOÀI 2.1. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo Công ước Paris (đăng ký trực tiếp tại từng quốc gia) Do Công ước Paris quy định nguyên tắc đối xử quốc gia và quyền ưu tiên nên doanh nghiệp có thể đăng ký nhãn hiệu của mình tại các nước thành viên của Công ước và được hưởng sự bảo hộ đối với nhãn hiệu đó như công dân của nước sở tại mà không có sự phân biệt đối xử. Trong vòng 6 tháng kể từ ngày Đơn đăng ký nhãn hiệu của doanh nghiệp được Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam chấp nhận hợp lệ, doanh nghiệp có thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu của mình tại bất kỳ nước thành viên nào của Công ước và các đơn nộp sau sẽ được xem là nộp cùng ngày tại Cục Sở hữu trí tuệ (nguyên tắc quyền ưu tiên). Điều đó giúp cho doanh nghiệp khi muốn bảo hộ nhãn hiệu của mình ở một số nước không phải nộp đồng thời tất cả các đơn ở Việt Nam và các nước khác mà có đến 6 tháng để quyết định xem nên nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu của mình ở những nước nào rồi mới tiến hành. Hình thức đăng ký trực tiếp này được áp dụng trong trường hợp quốc gia, nơi mà chủ nhãn hiệu muốn nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ là thành viên của Công ước Paris mà không phải là thành viên của Thỏa ước Madrid. Hiện nay, số các quốc gia thành viên là rất lớn, bao gồm cả các nước công nghiệp phát triển như: Mỹ, Anh, Nhật Bản, Canada… - Hàng hóa/dịch vụ mang nhãn hiệu. - Nhãn hiệu không còn khả năng phân biệt. 2.2. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo Thỏa ước và Nghị định thư Madrid Hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo Thỏa ước Madrid là hệ thống được xây dựng dựa trên cơ sở hai văn kiện: Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu 27 hàng hóa được ký kết năm 1891 (Việt Nam trở thành thành viên ngày 8/3/1949) và Nghị định thư liên quan đến Thỏa ước Madrid (1989). Các nước tham gia ký kết một hoặc hai văn kiện này cùng tạo thành Liên minh Madrid đặt dưới sự quản lý của Văn phòng quốc tế thuộc Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) có trụ sở tại Gievena Thụy Sĩ. Mục đích chủ yếu của Thỏa ước là tạo khả năng cho các tổ chức, cá nhân ở mỗi nước thành viên bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của mình tại một số hoặc toàn bộ các nước tham gia Liên minh thông qua việc nộp một đơn duy nhất cho Văn phòng quốc tế của WIPO. Tuy nhiên, Thỏa ước Madrid không tạo nên một đơn duy nhất có hiệu lực đối với tất cả các nước thành viên mà chỉ là sử dụng một đơn duy nhất để thực hiện việc đăng ký nhãn hiệu riêng biệt tại các nước thành viên. Vì vậy, kể từ ngày việc đăng ký được thực hiện tại Văn phòng Quốc tế, việc bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hóa tại tất cả các nước có liên quan phải được thực hiện như đối với nhãn hiệu được nộp đơn trực tiếp tại cơ quan sở hữu trí tuệ quốc gia. 2.3 Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa vào cộng đồng Châu Âu theo thể thức CTM (The Community Trade Mark) Các nước thuộc Cộng đồng Châu Âu đã thiết lập một hệ thống đăng ký nhãn hiệu hàng hóa độc lập (đăng ký nhãn hiệu hàng hóa theo thể thức CMT) để tạo điều kiện cho các chủ sở hữu nhãn hiệu tiến hành đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của mình vào Cộng đồng Châu Âu một cách thuận lợi, nhanh chóng và tiết kiệm chi phí. Khi đăng ký nhãn hiệu hàng hóa qua hệ thống đăng ký CTM, chủ sở hữu nhãn hiệu chỉ phải nộp một đơn duy nhất cho cơ quan đăng ký có tên là "The office for Harmonization in the Internal Market" viết tắt là OHIM. OHIM là cơ quan đăng ký được thành lập riêng, độc lập với hệ thống đăng ký quốc gia của mỗi nước thành viên, có trụ sở tại Tây Ban Nha. Để được đăng ký theo thể thức CTM, nhãn hiệu hàng hóa phải được tất cả các nước trong EU đồng ý. Sau khi được đăng ký, nhãn hiệu hàng hóa này sẽ có hiệu lực ở tất cả các nước trong Cộng đồng. Ngược lại, nếu nhãn hiệu bị hủy bỏ hay mất hiệu lực ở một nước thành viên thì đương nhiên bị mất hiệu lực trong cả cộng đồng. Chương 3 THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA Ở NƯỚC NGOÀI VÀ CÁC KIẾN NGHỊ 3.1 Thực trạng về hoạt động đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài 3.1.1 Số lượng đơn đăng ký và nhãn hiệu được bảo hộ ở nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp Trên thực tế, rất nhiều doanh nghiệp vẫn còn thờ ơ với một việc làm mang tính cấp thiết hàng đầu là đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài. Theo thống kê của 29 Cục Sở hữu trí tuệ thì số doanh nghiệp đăng ký qua hệ thống Madrid là hơn 200 nhãn hiệu. Đây là con số khá khiêm tốn cho thấy sự quan tâm của các doanh nghiệp xuất khẩu trong vấn đề này thực sự rất mờ nhạt. Tuy con số các doanh nghiệp tiến hành đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài trong năm 2007 đã có sự gia tăng so với con số xấp xỉ 1000 doanh nghiệp của năm 2006 nhưng đây vẫn là một số lượng rất ít ỏi. Có thể nhận thấy số lượng doanh nghiệp có hàng hóa xuất khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp ra thị trường nước ngoài là vài chục nghìn doanh nghiệp nhưng số lượng doanh nghiệp cũng như số lượng nhãn hiệu hàng hóa được đăng ký bảo hộ ở nước ngoài chỉ hơn 1500 nhãn hiệu như nêu trên là một tỷ lệ rất nhỏ. Tình hình đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam ở hai thị trường xuất khẩu lớn nhất: Thị trường Hoa Kỳ Hoa Kỳ hiện nay đang giữ vị trí là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam ở hầu hết mọi ngành nghề xuất khẩu. Tuy nhiên, số lượng nhãn hiệu được các doanh nghiệp đăng ký bảo hộ ở thị trường này còn rất ít. Thống kê năm 2005 cho thấy, số nhãn hiệu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam đăng ký ở Hoa Kỳ chỉ mới dừng lại ở 168 nhãn hiệu. Trong khi đó, tổng số nhãn hiệu được đăng ký tại Việt Nam có xuất xứ Hoa Kỳ là 5469, riêng trong năm 2006,số lượng này là 1268 đơn. Hoa Kỳ là quốc gia có số nhãn hiệu đăng ký bảo hộ nhiều nhất ở Việt Nam. Thị trường các nước ASEAN Hiện nay, các nước ASEAN vẫn chưa xây dựng được cơ chế nộp một đơn đăng ký thống nhất tại cơ quan của nước sở tại để có thể xin đăng ký ở tất cả các nước còn lại. Ngoài ra, hầu hết các nước trong khu vực chỉ mới có một số nước tham gia Nghị định thư Madrid như Việt Nam và Singapore nên các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải tự đăng ký trực tiếp tại từng nước. Đây là một bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi thị trường xuất khẩu chủ yếu của chúng ta tập trung phần lớn trong khu vực. Trên thực tế, số liệu thống kê về số đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở các nước ASEAN của các doanh nghiệp còn quá khiêm tốn. Trong tổng số hơn 1500 nhãn hiệu được bảo hộ ở nước ngoài, số lượng nhãn hiệu được bảo hộ ở ASEAN chiếm đến 35% tương ứng với hơn 350 nhãn hiệu. 3.1.2. Các dạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa xảy ra thường xuyên đối với các doanh nghiệp Việt Nam Thứ nhất: Chiếm đoạt nhãn hiệu hàng hóa có nghĩa là một doanh nghiệp khác đăng ký hay sử dụng nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam mà nhãn hiệu đó chưa được doanh nghiệp Việt Nam đăng ký hay mất hiệu lực sử dụng. Thứ hai: Hành vi giả mạo là việc làm giả một sản phẩm, tạo ấn tượng đối với mọi người rằng đó là một sản phẩm chính hiệu. 31 Thứ ba: Bắt chước, làm nhái các hàng hóa nổi tiếng cũng là một hình thức vi phạm phổ biến hiện nay. Thay vì đầu tư cho nhãn hiệu hàng hóa với hình ảnh của riêng mình, cho sản phẩm của riêng mình, người bắt chước lại lợi dụng danh tiếng của các sản phẩm cạnh tranh đã có tiếng tăm trên thị trường. 3.2. Hạn chế và nguyên nhân 3.2.1. Ý thức của các doanh nghiệp trong việc chủ động đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài vẫn còn yếu kém 3.2.2. Hiểu biết pháp luật về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài của các doanh nghiệp xuất khẩu còn hạn chế 3.2.3. Một số quy định về pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa còn bất cập, chưa hợp lý 3.3. Một số giải pháp nâng cao kết quả hoạt động đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài 3.3.1. Về phía Nhà nước Hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa cho phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế Một là, bổ sung một số quy định liên quan đến việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa trên Internet Hai là, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về thủ tục áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong biện pháp kiện dân sự Ba là, sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền của cơ quan Hải quan trong khi áp dụng các biện pháp kiểm soát biên giới để bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp Bốn là, tăng cường vai trò của Tòa án nhân dân trong việc thực thi pháp luật bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói riêng. Năm là, trong thủ tục đăng ký NH, Cục Sở hữu trí tuệ nên đa dạng hóa các hình thức nộp đơn, rút ngắn quy trình đăng ký, tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể có thể tra cứu và đăng ký nhãn hiệu hàng hóa một cách nhanh chóng nhất. Sáu là, tăng cường sử dụng biện pháp giải quyết tranh chấp tại hệ thống Tòa án nhân dân. Bảy là, tăng cường đào tạo chuyên môn nghiệp vụ và pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm việc tại các cơ quan có thẩm quyền thực thi pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Tám là, nâng cao ý thức pháp luật nói chung và pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói riêng đối với người dân bằng cách thường xuyên thực hiện công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. 3.3.2. Về phía doanh nghiệp Một là,nâng cao nhận thức của chính doanh nghiệp về tầm quan trọng của việc đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài 33 Hai là, xây dựng chiến lược bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nhằm đạt hiệu quả cao trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài a. Xác định thị trường xuất khẩu tiềm năng, tạo nhãn hiệu phù hợp với thị trường xuất khẩu và có khả năng bảo hộ mạnh b. Xác lập quyền bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại thị trường Việt Nam c. Lựa chọn thủ tục đăng ký phù hợp với thị trường xuất khẩu d. Tăng cường các biện pháp giám sát, phát hiện các nhãn hiệu hàng hóa tương tự của các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường Một số biện pháp giải quyết khi xảy ra tranh chấp về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài Khi doanh nghiệp có nhãn hiệu bị người khác đăng ký trước, có thể giải quyết theo các hướng sau: - Trường hợp nhãn hiệu bị chiếm đoạt chỉ mới ở dạng Đơn xin đăng ký nộp tại Cơ quan sở hữu trí tuệ nước sở tại thì doanh nghiệp cần phải thực hiện mọi biện pháp để phản đối việc cấp đăng ký cho đơn đó. - Trong trường hợp nhãn hiệu đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký tại các quốc gia thì doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các cách giải quyết sau: Thứ nhất, mở vụ kiện để hủy bỏ đăng ký của người kia. Thứ hai, doanh nghiệp có thể dàn xếp, thương lượng với người đã đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa để nhượng lại quyền sở hữu nhãn hiệu. Thứ ba, doanh nghiệp có thể từ bỏ việc sử dụng nhãn hiệu đó và chuyển sang một nhãn hiệu mới nếu nhãn hiệu bị chiếm đoạt chưa được sử dụng rộng rãi và chưa được biết đến trên thị trường đó. Thứ tư, doanh nghiệp có thể chờ hết hạn cho phép (thường từ 3 đến 5 năm) mà người đăng ký nhãn hiệu không sử dụng nhãn hiệu đó để yêu cầu đình chỉ hiệu lực của nhãn hiệu theo luật pháp của nước đó. KẾT LUẬN Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, do xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới nên thị trường không phải chỉ ở một quốc gia hoặc một vài quốc gia nữa mà nó mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy, theo nhận định của các chuyên gia kinh tế: trong bối cảnh hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ, trong đó bao gồm cả nhãn hiệu hàng hóa là tài sản quan trọng nhất của doanh nghiệp. Vậy nên, thông qua luận văn này, tôi đã tiến hành những bước nghiên cứu nhằm cung cấp những kiến thức, xen lẫn với kinh nghiệm thực tiễn và các giải pháp cơ bản cho các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và các thành phần quan tâm trong xã hội nói chung, về vấn đề đăng ký nhãn hiệu hàng hóa Việt Nam ở nước ngoài, xét từ góc độ luật pháp và các trình tự thủ tục đăng ký bảo hộ. 35 Về phía cộng đồng doanh nghiệp, hy vọng các doanh nghiệp luôn coi nhãn hiệu hàng hóa là một yếu tố then chốt trong chính sách phát triển của mình. Làm tăng giá trị của nhãn hiệu hàng hóa đồng nghĩa với việc giữ thị phần hay chiếm lĩnh được thị phần. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam không chỉ phải quan tâm đến công tác tổ chức sản xuất mà còn phải để ý đến việc phát triển nhãn hiệu hàng hóa. Trên thị trường cần xuất hiện không chỉ hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp mà cả hình ảnh của doanh nghiệp. Và chính nhãn hiệu hàng hóa là một công cụ không thể thiếu được để các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam giao tiếp với công chúng quốc tế. Ngoài ra, đối với toàn thể xã hội - cộng đồng người tiêu dùng, cũng cần ý thức được rằng việc góp phần đảm bảo hiệu quả thi hành các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ chính là góp phần nâng cao nghĩa vụ tự bảo vệ và quyền được bảo vệ mình với tư cách người tiêu dùng - khách hàng của các nhãn hiệu hàng hóa. Muốn tham gia tích cực, không có cách nào khác là họ cần phải được trang bị các kiến thức, thông tin cần thiết về sở hữu trí tuệ và nhãn hiệu hàng hóa. Việc tham gia tích cực của toàn xã hội đảm bảo một môi trường hoạt động cần thiết và các tương tác tích cực ngay từ trong nước để các doanh nghiệp ý thức được rõ ràng hơn những việc họ cần ưu tiên trong phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển nhãn hiệu hàng hóa trên thị trường toàn cầu. Nhãn hiệu hàng hóa, thông qua những giá trị đặc biệt của mình làm phong phú và làm tăng cường mối quan hệ giữa khách hàng/ người tiêu dùng với hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa đó. nhãn hiệu hàng hóa không chỉ xác định nguồn gốc của hàng hóa mà nó còn thiết lập mối quan hệ với người tiêu dùng trên cơ sở niềm tin thông qua việc khẳng định uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp cũng như đảm bảo chất lượng ổn định của hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa đóng vai trò quan trọng trong việc bảo hộ chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa. Thông qua việc đảm bảo quyền độc quyền trong việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa đó để xác định hàng hóa hay dịch vụ của mình hay trong việc ủy quyền cho người khác được sử dụng nhãn hiệu hàng hóa đó với điều kiện phải trả tiền cho việc sử dụng đó. Thời hạn bảo hộ khác nhau tại các nước khác nhau, nhưng một nhãn hiệu hàng hóa có thể được gia hạn vô hạn định sau khi hết thời hạn bảo hộ với điều kiện đóng thêm phí duy trì nhãn hiệu. Việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa được các tòa án đảm bảo hiệu lực. Tại hầu hết các nước thì tòa án có quyền ngăn chặn mọi sự vi phạm về nhãn hiệu hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa thúc đẩy sáng kiến hoạt động kinh doanh trên phạm vi toàn thế giới thông qua việc thưởng công cho các chủ sở hữu các nhãn hiệu hàng hóa bằng sự thừa nhận cũng như bằng lợi nhuận tài chính. Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa cũng ngăn cản những nỗ lực cạnh tranh không trung thực, chẳng hạn như việc làm hàng giả, trong việc sử dụng những dấu hiệu tương tự nhằm tiêu thụ những hàng hóa hay dịch 37 vụ kém chất lượng. Hệ thống bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể làm ra và tiêu thụ các hàng hóa hay dịch vụ trong những điều kiện trung thực nhất, do đó mà thúc đẩy sự phát triển thương mại quốc tế. Nhãn hiệu hàng hóa là một tài sản vốn của doanh nghiệp. Nó có thể được khai thác về mặt thương mại thông qua các hình thức như cấp quyền sử dụng. Ngoài ra, khi thực hiện vai trò là công cụ tiếp thị thì nhãn hiệu hàng hóa thậm chí còn có thể được coi là tài sản chính của doanh nghiệp. Còn rất nhiều doanh nghiệp của chúng ta hiện nay ít quan tâm hoặc hiểu biết còn hạn chế về sở hữu trí tuệ nói chung và vai trò của nhãn hiệu hàng hóa nói riêng. Hy vọng trong thời gian sắp tới Nhà nước có những cải cách mạnh mẽ hơn về luật pháp nhằm tạo hành lang pháp lý tốt hơn, đồng thời có những chương trình truyền thông tích cực nhằm giúp cho các doanh nghiệp, người dân và toàn thể xã hội hiểu biết sâu hơn về quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có các quy định về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Làm được như vậy thì tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới của chúng ta sẽ tốt hơn rất nhiều. 39
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan