Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đảng cộng sản việt nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 2006 đến năm 20...

Tài liệu đảng cộng sản việt nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 2006 đến năm 2013

.PDF
103
215
111

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ NHƢƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2013 LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Hà Nội – 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ NHƢƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2013 Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 03 15 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. Lê Mậu Hãn Hà Nội - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN VĂN BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH Đội ngũ trí thức ĐNTT Giáo dục – đào tạo GD-ĐT Khoa học – công nghệ KH-CN Khoa học – tự nhiên KH-TN Khoa học – kỹ thuật KH-KT Kinh tế - xã hội KT-XH Ban Chấp hành Trung ƣơng BCH TƢ Nhà xuất bản Nxb Xã hội chủ nghĩa XHCN Chủ nghĩa xã hội CNXH MỤC LỤC MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn............................................ 5 5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................... 5 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn .................................................. 6 7. Kết cấu luận văn ............................................................................................ 6 Chƣơng 1 KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CỦA ĐẢNG TRƢỚC NĂM 2006 ..................................................... 7 1.1. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG TRONG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CÁCH MẠNG ............................................................................... 7 1.1.1. Quan niệm về trí thức .............................................................................. 7 1.1.2.Khái quát nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và xây dựng đội ngũ trí thức trong từng thời kỳ cách mạng ...................................................... 13 1.1.3. Một số hạn chế trong công tác xây dựng ĐNTT ................................... 21 1.2.KHÁI QUÁT ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG VIỆT NAM (1930-2006)................................................................................. 22 1.2.1.Đội ngũ trí thức từng bƣớc trƣởng thành, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của đất nƣớc..................................................................................................... 22 1.2.2. Những hạn chế của ĐNTT .................................................................... 25 Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................ 26 Chƣơng 2 XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƢỚC (2006-2013) ......................................................................................................................... 28 2.1. CHỦ TRƢƠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2013 ....................................................................................................... 28 2.1.1. Những yếu tố tác động đến chủ trƣơng của Đảng trong công tác xây dựng đội ngũ trí thức....................................................................................................... 28 2.1.2. Quan điểm, chủ trƣơng của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc (2006-2013) .................... 29 2.2. QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỌI NGŨ TRÍ THỨC. ........................................ 37 2.2.1. Đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức tiếp tục đƣợc cụ thể hóa, pháp chế hóa bằng các chính sách, văn bản pháp luật ...................... 38 2.2.2.Trong công tác đào tạo và bồi dƣỡng và sử dụng, phát triểnđội ngũ trí thức ......................................................................................................................... 42 2.2.3. Công tác củng cố, xây dựng và phát triển hoạt động của các Hội trí thức trong cả nƣớc............................................................................................................. 46 2.2.4.Chủ trƣơng của Đảng về thu hút trí thức Việt kiều và trí thức ngƣời nƣớc ngoài đƣợc chú trọng ................................................................................................. 47 2.3.THỰC TRẠNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN 2013 .... 48 2.3.1.Đội ngũ trí thức từng bƣớc trƣởng thành đóng góp vào sự phát triển của đất nƣớc ................................................................................................................. 48 2.3.2. Những đóng góp của ĐNTT vào sự phát triển của đất nƣớc ................ 53 2.3.3. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân ............................................ 58 Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................ 63 Chƣơng 3 NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU ......................................................................................................................... 64 3.1.NHẬN XÉT CHUNG ............................................................................... 64 3.1.1. Ƣu điểm ................................................................................................. 65 3.1.2. Hạn chế .................................................................................................. 69 3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM ....................................................................... 71 3.2.1. Xây dựng đội ngũ trí thức là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị ..... 71 3.2.2. Chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo để tạo ra ĐNTT có trình độ cao. ......................................................................................................................... 73 3.2.3.Đào tạo, bồi dƣỡng phải gắn với sử dụng; đãi ngộ, tôn vinh trí thức, nhân tài là chiến lƣợc ƣu tiên hàng đầu ............................................................................ 75 3.2.4. Coi trọng phát huy dân chủ thực sự trong hoạt động sáng tạo của trí thức ......................................................................................................................... 77 Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................ 79 KẾT LUẬN .................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 87 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở mọi thời đại, trí thức luôn là nền tảng tiến bộ của xã hội, đội ngũ trí thức là lực lƣợng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Đại hội VII của Đảng ta chỉ rõ: “…trong cách mạng dân tộc dân chủ, vai trò của giới trí thức đã quan trọng, trong xây dựng xã hội chủ nghĩa, vai trò của giới trí thức càng quan trọng. Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và nếu bản thân công – nông không đƣợc nâng cao kiến thức, không dần đƣợc trí thức hóa, thì không thể xây dựng đƣợc xã hội chủ nghĩa” [23, tr.17]. Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ đã trở thành lực lƣợng sản xuất trực tiếp, cuộc cách mạng khoa học, công nghệ phát triển nhƣ vũ bão đã làm cho thế giới đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, mà thực chất là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên thiên nhiên, lao động tay chân, sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức con ngƣời. Chính vì vậy, vai trò cốt lõi là tri thức và công nghệ trong mối quan hệ hữu cơ với đội ngũ trí thức ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nƣớc ta đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong quá trình hội nhập với thế giới theo xu thế toàn cầu hoá. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra trƣớc mắt chúng ta nhiều yêu cầu, đòi hỏi, điều kiện, trong đó có yêu cầu đặc biệt quan trọng là phát triển nguồn lực con ngƣời. Muốn thực hiện mục tiêu sớm đƣa nƣớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đƣờng phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức. Hội nghị Trung ƣơng 7 (Khoá X), Đảng đã ra Nghị quyết về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, trong đó nhấn mạnh vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức nƣớc nhà hiện nay: “Trí thức Việt Nam là lực lƣợng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”[26, tr.90]. 1 Tƣ tƣởng, quan điểm của Đảng đối với trí thức và xây dựng ĐNTT là một nội dung rất quan trọng, là một trong những lĩnh vực thể hiện tầm trí tuệ cao, mang tính khoa học sâu sắc. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc, ĐNTT Việt Nam hiện nay đã có sự phát triển cả về số lƣợng và chất lƣợng, đóng góp tích cực vào sự phát triển đất nƣớc, tuy nhiên, đến nay vẫn còn nhiều hạn chế, vai trò của ĐNTT trong một số lĩnh vực trong cuộc sống chƣa thể hiện rõ. Những yếu kém này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó không ít cán bộ, cấp ủy còn chƣa nhận thức rõ đƣợc vị trí và vai trò của ĐNTT, chƣa quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng, phát huy tiềm năng trí tuệ của ĐNTT. Để đánh giá đƣợc những kết quả, hạn chế và rút ra đƣợc những bài học kinh nghiệm trong xây dựng ĐNTT của Đảng là việc làm quan trọng và cần thiết để góp phần triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa X về xây dựng ĐNTT thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc. Vì vậy, tôi chọn đề tài: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 2006 đến năm 2013 làm luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu Từ khi Đảng ra đời đã từng bƣớc đặt vấn đề về trí thức và xây dựng ĐNTT. Hiện nay, xây dựng ĐNTT là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Nhiều chủ trƣơng của Đảng về xây dựng ĐNTT đã đƣợc nêu ra trong các kỳ Đại hội và Hội nghị BCH TƢ. Những chủ trƣơng đó cũng từng bƣớc đƣợc cụ thể hóa bằng chính sách và pháp luật. Đến nay đề tài về trí thức và xây dựng ĐNTT đã nhận đƣợc nhiều sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, có nhiều tác phẩm nghiên cứu của các tác giả, nhiều bài viết trên các tạp chí… đã góp phần cung cấp lý luận và thực tiễn về xây dựng ĐNTT. Các công trình nghiên cứu chung về trí thức như: - Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu về trí thức, vai trò của trí thức nói chung đối với sự tiến bộ xã hội, làm rõ những đặc điểm của trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử và dự báo xu hƣớng phát triển của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, tác 2 giả đã đề cập ra những phƣơng hƣớng đổi mới công tác quản lý và chính sách kinh tế xã hội đối với đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn mới. - GS, TS Phạm Tất Dong (2001): “Định hướng phát triển đội ngũ tríthức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công trình đã có những luận giải xác đáng về vai trò của trí thức trong phát triển lực lƣợng sảnxuất, trong sáng tạo văn hóa, phát huy bản sắc dân tộc, trong lãnh đạo và điều hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc. Với thái độ tôn trọng trí thức, GS, TS Phạm Tất Dong khẳng định, trong nền kinh tế thị trƣờng, “sản phẩm lao động của trí thức là một loại hàng hóa đặc biệt, nó có thể mất đi hoặc bịchiếm đoạt mà không ai biết, song nó cũng có thể đƣợc lƣu thông và trả giá xứng đáng nhƣ bao thứ hàng quý hiếm khác” [10, tr.330]. Đây chính là khởi nguồn cho sự đổi mới tƣ duy khi xem tiền lƣơng và các loại phụ cấp của trí thức nhƣ những chính sách đầu tƣ có lợi nhất để mua lại “chất xám” - một loại sản phẩm đặc biệt trong nền kinh tế thị trƣờng. - GS, TS Nguyễn Văn Khánh (2010), Xây dựngvà phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội và (2012), Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội . Giá trị của hai công trình nghiên cứu thể hiện tập trung ở những luận chứng khoa học về vấn đề trí thức, nguồn lực trí tuệ với cách tiếp cận liên ngành. Đội ngũ trí thức đƣợc tác giả quan niệm là tầng lớp tinh hoa của nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá chất lƣợng của nguồn nhân lực này, tác giả đã đƣa ra hệ thống giải pháp có nghĩa thiết thực đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của nguồn lực trí tuệ đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp chấn hƣng đất nƣớc. - PGS, TS Đàm Đức Vƣợng, PGS, TS Nguyễn Viết Thông (2010), Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011- 2020, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của đề tài KX.04.16/06 -10, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu công phu và có hệ thống về trí thức. Trên cơ sở đánh giá tổng thể về thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam, đề tài đi sâu phân tích, kiến nghị những giải pháp nhằm xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nƣớc. Một số luận án, luận văn nghiên cứu về vấn đề trí thức như: 3 - PGS, TS Đỗ Thị Thạch (1999), Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay - tiềm năng và phương hướng xâyy dựng, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về đội ngũ nữ trí thức. Tác giả đã chỉ ra đƣợc vị trí, vai trò của đội ngũ nữ trí thức. Qua đó, đƣa ra những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của đội ngũ này đối với sự phát triển của đất nƣớc. - TS, Nguyễn Thắng Lợi (2009), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội trí thức từ 1991 đến 2005, Luận án Tiến sĩ Sử học, Hà Nội. Tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu các quan điểm, chủ trƣơng của Đảng đối với ĐNTT trong giai đoạn 1991 -2005, chỉ rõ đƣợc thực trạng của ĐNTT trên tất cả các lĩnh vực trong giai đoạn này.Luận án đã đề cập đến những vấn đề mang tính thời sự trong xây dựng ĐNTT nhƣ, chiến lƣợc sử dụng nhân tài, chế độ đãi ngộ, chế độ làm việc…Đặc biệt, tác giả đã đƣa ra những bài học kinh nghiệm trong xây dựng ĐNTT và chỉ ra những giải pháp để phát triển ĐNTT. Trên đây là một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, tuy cách tiếp cận đối tƣợng, mục đích nghiên cứu là khác nhau, nhƣng các công trình đã nghiên cứu một cách toàn diện về trí thức và đội ngũ trí thức. Một số công trình đã đi sâu vào tìm hiểu về đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng đối với ĐNTT, những mạnh và hạn chế của ĐNTT nƣớc ta…từ đó, đƣa ra những giải pháp và bài học kinh nghiệm. Tuy nhiên, đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc xây dựng đội ngũ trí thức giai đoạn 2006 đến 2013, chƣa có công trình nào tập trung nghiên cứu phần chủ trƣơng của Đảng. Vì vậy, luận văn tiếp tục làm sáng tỏ hơn nữa chủ trƣơng của Đảng đối với xây dựng ĐNTT trí thức giai đoạn 2006 đến 2013, nhằm làm rõ những bƣớc phát triển trong nhận thức của Đảng với ĐNTT so với các giai đoạn trƣớc đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng ĐNTT hiện nay, làm rõ những bƣớc phát triển trong nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò, công tác xây dựng ĐNTT. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu 4 Làm rõ quan niệm về trí thức và vai trò của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Hệ thống, khái quát các quan điểm, chủ trƣơng, chính sách của Đảng về xây dựng ĐNTT trong giai đoạn 2006 – 2013. Khảo sát quá trình tổ chức, chỉ đạo thực hiện xây dựng ĐNTT từ năm 2006 đến 2013. Phân tích thực trạng của ĐNTT, đánh giá vai trò của đội ngũ này trong quá trình CNH, HĐH, tìm ra nguyên nhân, đặc biệt là các nguyên nhân của hạn chế, yếu kém, những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò ĐNTT hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng xây dựng ĐNTT từ năm 2006 – 2013, thông qua việc làm rõ những chủ trƣơng, chính sách xây dựng ĐNTT. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng xây dựng ĐNTT trong giai đoạn từ năm 2006 – 2013, đây là giai đoạn nƣớc ta đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc. Trong giai đoạn này, nhận thức của Đảng về xây dựng ĐNTT đƣợc phát triển, thể hiện qua các Nghị quyết Đại hội X, XI, trong các Nghị quyết chuyên đề, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 7, khóa X (tháng 7-2008) về xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc. Thời gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với ĐNTT từ năm 2006 đến năm 2013 Không gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với ĐNTT. 5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tƣ liệu Văn kiện của Đảng về công tác xây dựng ĐNTT, bao gồm các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ƣơng, Bộ Chính trị, Ban Bí thƣ, Ban Tuyên giáo Trung ƣơng. Các báo cáo, nghị định, quyết định, các thông tƣ liên tịch của Chính phủ, các Bộ liên quan đến công tác trí thức và xây dựng ĐNTT. 5 Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các công trình nghiên cứu khoa học, các luận văn, luận án, các bài nói, bài viết của các nhà khoa học, các lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc liên quan đến công tác trí thức làm tài liệu tham khảo. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận mác xit, luận văn sử dụng kết hợp các phƣơng pháp lịch sử và lôgic, thống kê…Vấn đề đƣợc nghiên cứu theo trình tự thời gian, đồng thời xem xét công tác trí thức trong mối quan hệ với các công tác khác của Đảng. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn Luận văn nhằm hệ thống chủ trƣơng, chính sách của Đảng về công tác xây dựng đội ngũ trí thức giai đoạn 2006 đến năm 2013. Khái quát về sự phát triển của ĐNTT và vai trò của ĐNTT trong giai đoạn 2006 đến 2013. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chƣơng. Chƣơng 1: Khái quát quá trình lãnh đạo xây dựng ĐNTT của Đảng trƣớc năm 2006 Chƣơng 2: Xây dựng đội ngũ trí thức trong những năm 2006-2013. Chƣơng 3: Nhận xét chung và bài học kinh nghiệm. Chƣơng 1 KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ 6 TRÍ THỨC CỦA ĐẢNG TRƢỚC NĂM 2006 1.1. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG TRONG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CÁCH MẠNG 1.1.1. Quan niệm về trí thức Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin Ph.Ăngghen, trong thƣ “Gửi Đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa”, đề “Luân Đôn, ngày 19 - 12 – 1893”, viết: “Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức đƣợc rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải đƣợc hình thành từ hàng ngũ sinh viên, giai cấp đó có sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong một đội ngũ với những ngƣời anh em của họ, những ngƣời công nhân lao động chân tay, đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới đây.Cuộc cách mạng tƣ sản trƣớc đây đòi hỏi các trƣờng đại học chỉ đào tạo ra các trạng sƣ làm nguyên liệu tốt nhất đề hình thành nên những nhà hoạt động chính trị của chúng, ngoài đòi hỏi đó, sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những bác sĩ, kỹ sƣ, nhà hóa học, nông học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm lấy việc quản lý không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa và ở đây cần đến những kiến thức vững chắc chứ không phải là những câu nói xuông oang oang” [38, tr. 507– 508]. Định nghĩa của Ph.Ănghen tập trung nói đến trí thức, đội ngũ trí thức bắt nguồn từ những sinh viên. Đặc biệt, ông nhấn mạnh đến vai trò ngƣời trí thức cách mạng trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa tƣ bản. C.Mác đánh giá cao vai trò của trí thức đối với nền sản xuất xã hội. Theo ông, về mặt nghề nghiệp, trí thức chia thành ba nhóm, tƣơng ứng với ba hình thức cơ bản của lao động trí óc là các nhà văn, nhà báo, những ngƣời hoạt động nghệ thuật; các nhà lý luận tuyên truyền, giáo viên, bác sĩ, luật sƣ, giới sĩ quan, viên chức và các nhà hoạt động chính trị; các kỹ sƣ, các nhà khoa học, kỹ thuật. V.I.Lênin định nghĩa về trí thức, ông viết: “tôi dịch” ngƣời trí thức, tầng lớp trí thức theo ngữ nghĩa tiếng Đức là Literat, Literatentum, bao gồm không chỉ các nhà khoa học mà là tất cả những ngƣời có văn hóa, những ngƣời làm nghề tự do nói 7 chung, những đại biểu của lao động trí óc (brain work – er, nhƣ ngƣời Anh nói) để phân biệt với những ngƣời lao động chân tay”[36, tr.372]. Định nghĩa của V.I.Lênin về trí thức có thành phẩn rộng rãi, cơ động, không gò bó, nhìn chung là những ngƣời lao động trí óc. V.I.Lênin cho rằng trí thức đƣợc gọi là trí thức vì giác ngộ hơn, kiên quyết hơn, phản ánh và thể hiện đầy đủ hơn lợi ích giai cấp của các nhóm chính trị trong toàn xã hội. Mặc dù trong khi coi trí thức là một tầng lớp trung gian lệ thuộc về tƣ tƣởng đối với các giai cấp khác, Lênin vẫn đánh giá cao khả năng, sức mạnh và tính độc lập của trí thức trong xã hội. Ông cho rằng, ở khắp nơi lãnh tụ của một giai cấp nhất định thƣờng là ngƣời tiến bộ và có trí thức, ông đặc biệt chú ý tới giới sinh viên coi sinh viên là bộ phận nhạy cảm nhất của trí thức. Đây là ngƣời châm ngòi, là bộ phận luôn đi đầu trong mọi cuộc đấu tranh chống các thế lực phản động. Quan niệm của V.I.Lênin về ngƣời trí thức cũng rất rõ ràng: “Ngƣời trí thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực lực theo lối này hay lối khác, mà là bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ chính là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân của họ, cho nên mới có thể đóng đƣợc một vai trò nào đó. Vì vậy, đối với họ, quyền đƣợc hoàn toàn tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để công tác đƣợc kết quả. Với tƣ cách là một bộ phận trong toàn thể, họ chỉ phục tùng toàn thể đó một cách miễn cƣỡng, phục tùng vì bắt buộc, chứ không phải tự nguyện. Họ chỉ thừa nhận kỷ luật là cần thiết đối với quần chúng, chứ không phải đối với những nhân vật đƣợc lựa chọn. Dĩ nhiên là họ xếp mình vào những hàng ngũ những nhân vật đƣợc lựa chọn...” [36, tr.373]. Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa C.Mác – V.I.Lênin rất chú ý tới tầng lớp trí thức, coi trí thức là lực lƣợng xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. Xã hội càng phát triển thì tầng lớp trí thức càng có vai trò to lớn nhất là trong lĩnh vực khoa học – kỹ thuật và văn hóa tƣ tƣởng. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh Ngƣời định nghĩa về trí thức: “Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự đấu tranh sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. 8 Hai là hiểu biết vềđấu tranh dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác. Một ngƣời học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song, y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chƣa phải là trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một ngƣời trí thức hoàn toàn thì phải đem trí thức đó áp dụng vào thực tế” [42, tr.275]. Định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trí thức nhấn mạnh đến sự cống hiến của họ, nhấn mạnh đến ý nghĩa thực tế trong hoạt động của ngƣời trí thức, đem sự hiểu biết của mình để áp dụng vào thực tế, làm nên vật chất và tinh thần góp phần xây dựng đời sống cộng đồng phát triển, không nên lý luận xuông bởi theo Ngƣời: “Ngƣời viết lý luận mà không thực hành thì cũng vô ích” [43, tr.356]. Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngƣời đã nhận thức rõ và đánh giá cao vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng nhƣ trong công cuộc xây dựng đất nƣớc. Ngay từ những ngày đầu của chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ngƣời đã từng nói những ngƣời trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Trả lời các nhà báo nƣớc ngoài về vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức trong nhận thức, chính sách của Chính phủ cũng nhƣ trong thực tiễn cách mạng ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nƣớc khác nhƣ thế, ở Việt Nam càng nhƣ thế. Chứng thực là trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những ngƣời trí thức Việt Nam đã chung một phần quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hy sinh cực khổ, chen vai thích cánh với bộ đội nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở ngoài"[42, tr.156]. Bản thân Hồ Chí Minh là một trí thức yêu nƣớc đi làm cách mạng. Ngƣời đã hết sức trọng dụng tầng lớp trí thức ƣu tú của dân tộc, tạo điều kiện cho họ đƣợc cống hiến, đƣợc thể hiện đầy đủ nhất tài năng, vai trò và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp chung của toàn dân. Hàng loạt trí thức trẻ - những học sinh, sinh viên yêu nƣớc, giác ngộ cách mạng đã có mặt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo trung kiên, giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy Đảng, Nhà nƣớc trong quá trình cách mạng giải 9 phóng dân tộc nhƣ: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Đức Cảnh, Lê Duẩn, Trƣờng Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu... Nhiều trí thức trƣởng thành trong nƣớc hay từ nƣớc ngoài trở về nhƣ: Hồ Đắc Di, Đặng Văn Ngữ, Tạ Quang Bửu, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Nghiêm Xuân Yêm, Trần Đại Nghĩa, Lƣơng Định Của, Tôn Thất Tùng, Phạm Huy Thông, Trần Duy Hƣng, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi, Cù Huy Cận, Xuân Diệu... đã đi theo cách mạng ngay từ những ngày đầu độc lập, sẵn sàng chịu đựng những thử thách khó khăn, gian khổ, hy sinh trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, đóng góp tài năng, trí tuệ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, dành độc lập, tự do cho đất nƣớc. Ngay cả trong Chính phủ lâm thời năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã mời các nhân sĩ trí thức không phải là đảng viên Đảng Cộng sản tham gia và giữ những trọng trách nhƣ: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Phan Anh,... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra vấn đề nhân tài và kiến quốc ngay sau khi chính quyền nhân dân đƣợc thiết lập trên cả nƣớc. Ngƣời đặc biệt coi trọng nhiệm vụ giáo dục ở bậc đại học để đào tạo nhân tài phục vụ kháng chiến kiến quốc. Việc thành lập Ban Văn khoa Đại học theo Sắc lệnh số 45/SL là một sự kiện quan trọng trong việc đào tạo ĐNTT mới. Ban Văn khoa Đại học có nhiệm vụ đào tạo giáo sƣ bậc trung học, và nâng cao nền văn học Việt Nam cho xứng đáng với một nƣớc độc lập để theo kịp các nƣớc tiên tiến trên toàn cầu. “Quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thành lập Văn khoa Đại học theo Sắc lệnh số 45/SL ngày 10-10-1945 là một sự kiện trọng đại đánh dấu một mốc son lịch sử ra đời của trƣờng đào tạo bậc Đại học cho Khoa học Nhân văn, nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Việt Nam” [32]. Ngƣời kêu gọi những ngƣời trí thức có tài năng hãy mang tinh thần hăng hái của mình ra giúp nƣớc nhà. Theo Ngƣời cán bộ trí thức phải trung thành với mục đích cách mạng “giữ cho nƣớc nhà đƣợc độc lập, nòi giống đƣợc tự do” [40, tr.505] và “không đƣợc tự kiêu, không có cái bệnh làm quan cách mạng, phải siêng năng: siêng nghe, siêng thấy, siêng đi, siêng nghĩ, siêng nói, siêng làm” [40, tr.38]. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về trí thức đƣợc thể hiện tập trung ở một số điểm sau. Một là, trí thức là lực lƣợng và động lực không thể thiếu trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nƣớc. Trí thức cách mạng Việt Nam mang trong mình tinh thần 10 dân tộc. Ngƣời khẳng định sự tham gia của trí thức là nhân tố quan trọng góp phần quyết định thành công của cách mạng: “Cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức” [39, tr.33]. Vì vậy phải thực sự coi trọng, sử dụng trí thức một cách đúng đắn. Đối với trí thức ngƣời lãnh đạo phải xử sự một cách có lý, có tình. Ngƣời nói: “Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một ngƣời có ích cho công việc chung của chúng ta” [42, tr.313]. Hai là, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn đề dân chủ đối với trí thức. Theo ngƣời đối với trí thức thì vấn đề tự do, dân chủ phải đƣợc đặt lên hàng đầu. Không có tự do, dân chủ sẽ không có những công trình khoa học, những tác phẩm có giá trị, không có dân chủ, tƣ duy của trí thức sẽ bị bó hẹp, không có dân chủ, nói và viết sẽ trở thành một thứ minh họa, sao chép khô khan… Ba là, Ngƣời quan tâm đến vai trò cá nhân của ngƣời trí thức. Ngƣời rất trân trọng những nhân sĩ, trí thức yêu nƣớc, thƣơng dân, những ngƣời suốt đời gắn bó với lá cờ đại nghĩa của dân tộc. Muốn thể hiện vai trò của cá nhân, thì ngƣời trí thức cần phải đi vào đời sống xã hội, bởi theo Ngƣời, “trí thức đọc sách chƣa phải là trí thức”, muốn “thành trí thức hoàn toàn thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”[42, tr.275]. Điều quan trọng là mỗi cá nhân trí thức phải biết đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân. Bốn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác bồi dƣỡng cán bộ trí thức. Ngƣời muốn tạo ra một lớp cán bộ trí thức có trình độ văn hóa, lối sống văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ giỏi, khả năng lãnh đạo, quản lý tốt. Ngƣời coi vấn đề huấn luyện, đào tạo cán bộ, dạy và học là công việc rất lớn, rất quan trọng của Đảng và Nhà nƣớc. Ngƣời nói: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, nhƣ ngƣời làm vƣờn vun trồng những cây cối quý báu” [42, tr.313]. Năm là, Ngƣời yêu cầu các cấp lãnh đạo phải biết lựa chọn những ngƣời tài đức để động viên, bồi dƣỡng, trọng dụng họ. Theo Tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh, vấn đề lựa chọn cán bộ, lựa chọn ngƣời tài đức để dùng vào những việc quan trọng là trách nhiệm, lƣơng tâm của những ngƣời lãnh đạo và làm công tác nhân sự. 11 Sáu là, Ngƣời đƣa ra yêu cầu với Đảng, Chính phủ phải có chính sách cụ thể để sử dụng trí thức. Ngƣời nhấn mạnh đào tạo phải đi đôi với sử dụng. Đây là hai công việc phải đi liền với nhau. Bảy là, Ngƣời cho rằng trí thức phải gắn bó với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và nhân dân lao động, tạo thành liên minh công, nông, trí để cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nƣớc. Tám là, khi xét vấn đề trí thức, Ngƣời cho rằng phải xét trên hai bình diện. Đó là sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc với trí thức và sự tự thân rèn luyện của trí thức. Một số quan điểm chung về trí thức. Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Trí thức là ngƣời chuyên làm việc lao động trí óc” [28, tr. 1705]. Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, xuất bản năm 1986 cho rằng: “Trí thức - Tập đoàn xã hội, bao gồm những ngƣời chuyên làm nghề lao động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao động đó” [50, tr. 360]. Từ điển Tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học biên soạn và phát hành năm 1997, Hoàng Phê chủ biên cho rằng: “Trí thức là ngƣời chuyên làm việc bằng trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình” [51, tr. 999]. Từ sự phân tích những đặc trƣng cơ bản của trí thức, PGS.TS Đàm Đức Vƣợng và PGS.TS Nguyễn Viết Thông xác định: “Họ là ngƣời lao động trí óc, có trình độ phát triển về trí tuệ, có hiểu biết sâu về một lĩnh vực chuyên môn, có năng lực sáng tạo, nhạy bén với cái mới” [52, tr.25]. Bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc trong xu thế hội nhập quốc tế, vai trò của trí thức đƣợc nâng lên một tầm cao mới. Theo tác giả Nguyễn Đắc Hƣng, “trong xã hội hiện đại, khoa học ngày càng phát triển, đội ngũ trí thức sẽ đóng vai trò là lực lƣợng sản xuất trực tiếp thứ nhất…Ngƣời trí thức Việt Nam phải ý thức đƣợc vai trò của mình trong cộng đồng nhân loại mà tích cực dấn thân vào hoạt động khoa học mang tầm thế giới” [34, tr.27-28]. Nhìn chung, các định nghĩa về trí thức nói trên đều cho thấy có những điểm 12 chung, thống nhất, đó là xác định nội hàm khái niệm trí thức đều dựa trên cơ sở đặc trƣng là lao động trí óc và trình độ học vấn, chuyên môn cao của ngƣời trí thức. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và đội ngũ trí thức: Vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và quán triệt Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về trí thức, Đảng khẳng định: “Trí thức là những ngƣời lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tƣ duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [26, tr.81]. Đây là lần đầu tiên, Đảng đƣa ra quan niệm về trí thức với sự nhất quán trongviệc đánh giá cao vai trò của trí thức, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảngđối với lực lƣợng cách mạng quan trọng này. 1.1.2.Khái quát nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và xây dựng đội ngũ trí thức trong từng thời kỳ cách mạng Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập cho tới nay về công tác xây dựng ĐNTT là một quá trình liên tục, từ những nhận định, đánh giá còn hạn chế, chủ quan, các đƣờng lối chính sách còn riêng lẻ đến nhận định mang tính khách quan, các đƣờng lối, chính sách đã mang tính hệ thống. Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã có những nhận định quan trọng về vị trí và vai trò của ĐNTT trong sự nghiệp cách mạng. Trong các văn kiện Chánh cƣơng vắn tắt của Đảng, Sách lƣợc vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đƣợc thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định trí thức là bộ phận trong lực lƣợng quần chúng cách mạng dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong Sách lƣợc vắn tắt có nêu rõ: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tƣ sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt,.v.v. để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp” [15, tr.3]. Trong quá trình lãnh đạo, xuất hiện một số chủ trƣơng về tầng lớp trí thức không phù hợp với thực tế khi coi trí thức là lực lƣợng phản cách mạng nhƣ trong Chủ trƣơng thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ (1930–1931) đã nêu “thanh trừng trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”[16, tr.157]. Chủ trƣơng coi nhẹ tầng lớp trí thức của Đảng kéo dài trong nhiều năm, suốt từ tháng 12 năm 1930 đến tháng 3 năm 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan