ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ HÙNG NHÂN
ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ
MÃ SỐ: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS TRẦN ANH TUẤN
HÀ NỘI - 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện độc lập và dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ luật học Trần Anh Tuấn –
Đại học Luật Hà Nội.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
Trong quá trình thực hiện, Luận văn có tham khảo một số chuyên đề, các
bài viết có liên quan nhưng được trích dẫn nguyên văn, nguồn tài liệu trích dẫn
được nêu ra tại danh mục tài liệu tham khảo ở phần cuối Luận văn này.
Tác giả
Lê Hùng Nhân
Lớp cao học luật khóa 2010 – 2012
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài .................................................................... 3
3. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 4
4. Đóng góp khoa học của đề tài ....................................................................... 4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................... 6
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN THEO ỦY
QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ......................... 7
1.1.
Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của đại diện theo ủy quyền trong
tố tụng dân sự .......................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự ......................... 7
1.1.2. Đặc điểm của đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.................. 10
1.1.3. Ý nghĩa của đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự .................... 13
1.2.
Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về đại diện theo
uỷ quyền trong tố tụng dân sự .............................................................. 14
1.2.1. Cơ sở về lý luận .................................................................................... 14
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 19
1.3.
Sơ lược về sự phát triển các quy định về đại diện theo ủy quyền
trong tố tụng dân sự ở Việt nam sau 1945 ............................................ 23
1.3.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật tố tụng dân sự 2004 ............................. 23
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đến nay ........ 26
Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN
HÀNH VỀ ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ ................................................................................................ 30
2.1.
Các quy định về người ủy quyền và người đại diện theo ủy quyền
trong tố tụng dân sự .............................................................................. 30
2.1.1. Các quy định về người ủy quyền trong tố tụng dân sự ......................... 30
2.1.2. Các quy định về người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự ... 37
2.2.
Các quy định về quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy
quyền trong tố tụng dân sự ................................................................... 42
2.3.
Các quy định về nội dung và hình thức ủy quyền trong tố tụng dân sự..... 45
2.3.1. Các quy định về nội dung ủy quyền trong tố tụng dân sự .................... 45
2.3.2. Các quy định về hình thức ủy quyền trong tố tụng dân sự ................... 49
2.4.
Các quy định về thủ tục ủy quyền trong tố tụng dân sự ....................... 52
2.5.
Các quy định về thời hạn ủy quyền trong tố tụng dân sự ..................... 56
2.6. Các quy định về chấm dứt đại diện theo ủy quyền trong tố tụng
dân sự .................................................................................................... 57
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẠI
DIỆN THEO ỦY QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ
KIẾN NGHỊ .................................................................................. 60
3.1.
Thực tiễn thực hiện các quy định về đại diện theo ủy quyền trong
tố tụng dân sự ........................................................................................ 60
3.1.1. Về quyền ký đơn khởi kiện của người đại diện theo ủy quyền
trong tố tụng dân sự .............................................................................. 60
3.1.2. Về hình thức ủy quyền trong tố tụng dân sự ........................................ 67
3.1.3. Về nội dung và phạm vi đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự....... 69
3.1.4. Về đa ̣i diê ̣n theo ủy quyề n để
giải quyết về phần tài sản trong
viê ̣c ly hôn, trong việc dân sự thuâ ̣n tiǹ h ly hôn , yêu cầ u hủy việc
kết hôn trái pháp luật ............................................................................ 72
3.1.5. Về thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của người đại diện theo ủy
quyền của đương sự trong tố tụng dân sự ............................................. 73
3.1.6. Về chấm dứt đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự ................... 74
3.2.
Một số kiến nghị về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự ............. 75
3.2.1. Kiến nghị về lập pháp ........................................................................... 75
3.2.2. Kiến nghị về thi hành pháp luật ............................................................ 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 90
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS:
Bộ luật dân sự
BLTTDS:
Tố tụng dân sự
HĐTP:
Hội đồng thẩm phán
TAND:
Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
UBND:
Ủy ban nhân dân
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ pháp luật tố tụng dân sự giữa các đương sự, giữa người tham
gia tố tụng dân sự với cơ quan tiến hành tố tụng, giữa người tham gia tố tụng
với người tiến hành tố tụng …được phát sinh trên cơ sở Tòa án thụ lý đơn yêu
cầu của đương sự nhằm giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình,
kinh doanh thương mại, lao động, hoặc công nhận các sự kiện pháp lý khác.
Quan hệ tố tụng dân sự là quan hệ hình thức phản ánh các quan hệ pháp luật
nội dung thuộc các ngành luật khác như luật dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, thương mại….nên quan hệ tố tụng dân sự phản ánh thuộc tính của các
quan hệ pháp luật nội dung như tính bình đẳng, thoả thuận, tự do, tự nguyện
và quyền tự định đoạt của các đương sự. Việc đặt đương sự vào vị trí trung
tâm của toàn bộ quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, xác định tư cách của
các đương sự, quyền và nghĩa vụ của các đương sự, mối quan hệ giữa người
tham gia tố tụng với cơ quan tiến hành tố tụng, với người tiến hành tố tụng …
được xem là vấn đề trọng tâm của ngành luật tố tụng dân sự.
Bô ̣ luâ ̣t tố tu ̣ng dân sự 2004 được xây dựng trong quá trình nước ta có
những chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế
- xã hội , nhằ m thể chế hóa những
quan điểm, đường lối về xây dựng pháp luật , cải cách tư pháp của Đảng , trên
cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát triển các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố
tụng trước đây. Đặc biệt các quy định của BLTTDS về đại diện theo uỷ quyền
trong tố tụng dân sự đã thể hiện được đường lối cơ bản trong cải cách tư pháp,
đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân, tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân trong viê ̣c bảo vê ̣ quyề n và lơ ̣i ích hơ ̣p pháp của mình; quyền quyế t
đinh
̣ và tự định đoạt, quyền nhờ người khác thay mặt tham gia tố tụng để bảo
vệ quyền lợi của đương sự đã được BLTTDS ghi nhận và có những quy định
1
khá cụ thể, chi tiết để bảo đảm thực hiện. Nếu đương sự vì một lý do nào đó
như già yếu, ốm đau, đi lại khó khăn do khoảng cách về địa lý, do it́ kinh
nghiê ̣m hoặc hạn chế về trình độ hiểu biết pháp luật mà không thể hoặc không
muốn tự mình tham gia tố tụng, thì có thể ủy quyền cho người khác (thường
là người thân trong gia đình, người có quan hệ trong công tác hoặc luật sư)
thay mặt mình để tham gia giải quyết.
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện các quy định về đại diện uỷ quyền trong
tố tụng dân sự cho thấy do các quy định của BLTTDS về vấn đề này còn có
hạn chế nhất định, chưa đảm bảo nguyên tắ c biǹ h đẳ ng giữa các đương sự
,
dẫn tới sự lúng túng khi áp dụng của đương sự và các cơ quan tiế n hành tố
tụng, chẳng hạn trong các trường hợp đương sự là người bị một hoặc một số
hạn chế về thể chất như đui, mù, câm, điếc, cụt cả hai tay; người bị tâm thần.
v.v… Nhiều vấn đề nảy sinh trong thực tiễn đã gây nhiều tranh luận như
người được ủy quyền trong tố tụng dân sự có được ký đơn khởi kiện hay
không; có được ủy quyền về phần tài sản và cung cấp chứng cứ trong các vụ
án ly hôn không, trong trường hợp nào thì việc ủy quyền lại của pháp nhân,
cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự được coi là hợp lệ; ngoài ra, đã có
không ít trường hợp bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới bị hủy hoặc sửa
do có sai sót về đa ̣i diê ̣n theo ủy quyền trong tố tu ̣ng dân sự như vi phạm về
thời hạn ủy quyền, vượt quá phạm vi ủy quyền, việc ủy quyền không đúng
pháp luật, xác định không đúng tư cách của đương sự và người đại diện theo
ủy quyền của đương sự v.v...
Ngày 29 tháng 03 năm 2011, Quốc hội khóa XII đã ban hành Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS 2004. Tuy nhiên hạn chế của
các quy định về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự vẫn chưa được
khắc phục. Do đó việc tiếp tục nghiên cứu làm rõ các vấ n đề lý luận cơ
bản, đánh giá luật thực định và thực tiễn áp dụng , từ đó đề xuất những kiến
2
nghị hoàn thiện pháp luật về đa ̣i diê ̣n theo ủy quyề n trong tố tu ̣ng dân sự là
cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Đó là lý do để tác giả chọn
đề tài “Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự Việt nam” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đã có một vài công trình nghiên cứu có liên quan đến việc đại diện của
đương sự như: Luận án tiến sĩ “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố
tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Công Bình; Khóa luận tốt nghiệp “Người đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Hồ Nguyên Bình năm
2010 và của tác giả Nguyễn Thị Long năm 2011. Ngoài ra, còn có các bài viết
trên một số tạp chí và báo như: “Một số suy nghĩ về đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự” của tác giả Tưởng Duy Lượng đăng trên Tạp chí Khoa
học pháp lý số 1/2007; “Đại diện theo ủy quyền – Từ pháp luật nội dung đến
tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Minh Hằng đăng trên Tạp chí nghiên cứu
lập pháp, số 5 (52), 5/2005; “Một số vấn đề về người đại diện theo ủy quyền và
đại diện do Tòa án chỉ định trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Thị
Hạnh trên Tạp chí nghề luật số 06/2010; “Một số vướng mắc trong quá trình
thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự - Những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện” của
tác giả Nguyễn Văn Cường trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 02/2010, v.v...
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu khai thác dưới góc độ bảo đảm
quyền bảo vệ của đương sự hoặc mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số
khía cạnh về người đại diện theo ủy quyền của đương sự, chỉ ra một số vướng
mắc nhất định khi thực hiện quy định về đại diện theo uỷ quyền tham gia tố
tụng, chứ chưa nghiên cứu mô ̣t cách toàn diện và chuyên sâu về đại diện theo
ủy quyền trong tố tụng dân sự. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu
các các vấn đề lý luận về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự, thực
trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về đại diện theo ủy quyền
trong tố tụng dân sự, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện là cần thiết.
3
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về đại diện theo ủy quyền trong tố
tụng dân sự;
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về đại diện theo
ủy quyền trong tố tụng dân sự;
- Nêu rõ thực trạng áp dụng các quy định về đại diện theo ủy quyền
trong tố tụng dân sự;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện về mặt lập pháp cũng
như về mặt thi hành pháp luật về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.
4. Đóng góp khoa học của đề tài
- Làm rõ được những vấn đề lý luận về đại diện theo ủy quyền trong tố
tụng dân sự;
- Phân tích có hệ thống các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến
đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự;
- Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về đại diện theo
ủy quyền trong tố tụng dân sự và rút ra những vướng mắc, bất cập của pháp
luật hiện hành;
- Đề xuất những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực
hiện các quy định về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu về đại diện theo ủy quyền trong hoạt động
thi hành án, mà chỉ tập trung nghiên cứu về đại diện theo ủy quyền trong tố
tụng dân sự tại Toà án. Đề tài cũng không có tham vọng nghiên cứu các vấn
đề pháp lý về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự trong tất cả các quy
định về vấn đề này từ trước đến nay, mà chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm
vi quy định của BLTTDS đang có hiệu lực thi hành, Bộ luật dân sự 2005 và
một số văn bản pháp luật khác có liên quan. Tuy nhiên, để có thể triển khai đề
4
tài một cách sâu sắc, việc nghiên cứu về lược sử các quy định có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu cũng được tiến hành. Đề tài cũng chỉ nghiên cứu thực
tiễn thực hiê ̣n các quy đinh
̣ về đa ̣i diê ̣n theo ủy quyề n trong tố tụng dân sự từ
năm 2005 đến nay. Cụ thể:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về đại diện theo ủy quyền
trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành về đại diện theo ủy
quyền trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật hiện hành
về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.
6. Phương pháp nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu như trên, các phương pháp nghiên cứu chủ
yế u được áp dụng trong đề tài này là:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát: Để nắm vững cơ sở lý
luận của việc ủy quyền trong tố tụng dân sự, đề tài đi sâu phân tích những
khái niệm, bản chất của quan hệ ủy quyền, mối liên hệ giữa đại diện theo ủy
quyền trong dân sự và đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự, khái quát
những nguyên tắc chung của việc ủy quyền, quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ ủy quyền.
- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Bên cạnh chất lượng cuộc
sống ngày càng đi lên, các tranh chấp, yêu cầu về dân sự tại Tòa án ngày càng
phức tạp, việc ủy quyền tham gia tố tụng để giải quyết các yêu cầu của đương
sự ngày càng nhiều, phong phú về hình thức. BLTTDS, Bộ luật dân sự 2005,
các văn bản hướng dẫn liên quan đến việc ủy quyền – nhất là các Nghị quyết
của Hội đồng thẩm phán TANDTC – ra đời nhằm đáp ứng các nhu cầu cần
thiết đó. Lấy thực tiễn đa dạng, phong phú để chứng minh, bổ sung cho lý
luận và ngược lại là một trong những phương pháp nghiên cứu của đề tài này.
5
- Phương pháp mô tả kết hợp so sánh, đối chiếu: So sánh, đối chiếu các
quy định về ủy quyền, về đại diện theo ủy quyền trong BLTTDS; trong
BLTTDS với BLDS và với một số văn bản hướng dẫn khác, so sánh các quy
định hiện hành với các quy định trước đây về ủy quyền trong tố tụng dân sự
để tìm ra những quy định phù hợp với thực tiễn cuộc sống, từ đó việc kiến
nghị sẽ hoàn thiện hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu theo 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung và
Phần kết luận. Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đại diện theo uỷ quyền trong tố
tụng dân sự Việt nam.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về đại diện
theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định về đại diện theo ủy quyền
trong tố tụng dân sự và kiến nghị.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của đại diện theo ủy quyền
trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự do xác lập, thực hiện, định đoạt
các hành vi không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội
để phục vụ cho nhu cầu, sở thích của mình, quyền và lợi ích của người khác.
Vì lý do nào đó mà các chủ thể trên không thể tự mình thực hiện được một
phần hoặc tất cả công việc thì có thể ủy quyền cho người khác làm thay. Khi
bên ủy quyền và bên được ủy quyền xác lập một quan hệ ủy quyền, tức là đã
xác lập sự thỏa thuận giữa các bên (có thể có thù lao hoặc không có thù lao),
theo đó bên được ủy quyền được quyền thay mặt và nhân danh bên ủy quyền
thực hiện một số hành vi nhất định trong phạm vi ủy quyền, làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến quyền lợi của bên ủy quyền hoặc của
bên thứ ba liên quan. Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có
thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Tuy nhiên
không phải mọi cá nhân đều có thể làm người đại diện theo ủy quyền, Điề u
143 BLDS 2005 quy đinh
̣ “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định
giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực
hiện”. Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa
người đại diện và người được đại diện thông qua hợp đồng ủy quyền hoặc
giấy ủy quyền. Người đại diện theo ủy quyền có quyền, nghĩa vụ dân sự phát
sinh từ giao dịch dân sự do người được đại diện xác lập, thực hiện trong
7
phạm vi thẩm quyền đại diện. Giao dịch dân sự do người đại diện theo ủy
quyền xác lập, thực hiện vượt quá thẩm quyền đại diện không làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp được người đó
chấp thuận. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản [26, tr.225].
Khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, lợi ích
công cộng, lợi ích Nhà nước bị xâm phạm thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền làm đơn khởi kiện hoặc làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết. Người khởi
kiện; người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khởi kiện; cơ quan, tổ chức
khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước; người có đơn yêu
cầu Tòa án công nhận quyền hoặc công nhận sự kiện pháp lý làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động;
người bị kiện; người tuy không khởi kiện, không bị kiện, không có đơn yêu
cầu nhưng việc giải quyết tại Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
họ được gọi là đương sự.
Quá trình giải quyết tại Tòa án các tranh chấp, yêu cầu phát sinh trong
lĩnh vực tư bao gồm: dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh – thương mại,
lao động được gọi là tố tụng dân sự. Theo từ điển Hán Việt của Đào Duy
Anh: "tố tụng" là việc thưa kiện (procès), "tố tụng pháp lý" là việc pháp luật
quy định những thủ tục về cách tố tụng (code deprocédure)" (Trường Thi xuất
bản, Sài Gòn, 1957, tr.302). Thời Pháp thuộc, người ta dùng hai chữ "tố tụng"
để dịch chữ "procédure" (chữ Pháp procédure hay chữ Anh procedure đều bắt
nguồn từ chữ La tinh processus nghĩa là quá trình, trình tự, thủ tục).
Theo cuốn Từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
thì tố tụng dân sự là trình tự hoạt động do pháp luật quy định cho việc xem
xét giải quyết vụ án và thi hành án dân sự [26, tr.785]. Được ghép từ danh
từ “tố tụng” là kiện thưa tại tòa án nói chung, nó gợi nên một cách thức cần
thiết phải thực hiện để đạt được mục đích, và danh từ “dân sự” – civil đôi khi
8
được dùng tương đồng với danh từ prive – lĩnh vực luật tư, bởi bản chất thỏa
thuận, bình đẳng của các bên trong việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ. Mặc dù đều dùng để chỉ định một cách thức tiến hành bắt
buộc nhưng danh từ “thủ tục” bao hàm nghĩa rộng hơn trên nhiều mặt, vượt
ra ngoài nghĩa của trình tự giải quyết vụ việc tại tòa án (như thủ tục nhập học,
thủ tục đi xuất khẩu lao động…). Trong một thời gian dài của quá trình phát
triển, danh từ thủ tục đã được sử dụng thay cho danh từ tố tụng như: Thủ tục
giải quyết vụ án dân sự, Thủ tục giải quyết vụ án kinh tế hay Thủ tục giải
quyết các tranh chấp lao động… đã không thể hiện rõ được bản chất của hoạt
động tư pháp. Việc sử dụng cụm từ tố tụng dân sự là sát nghĩa và có tính chất
triệt để hơn cả trong giai đoạn hiện nay, nó được hiểu dưới góc độ pháp lý là
một ngành luật tố tụng cụ thể, còn dưới góc độ thực tiễn là những cách thức
thực tiễn do các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng tiến hành.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa án trong quá
trình giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự, các đương sự có thể tự
mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng do pháp luật quy định. Tuy nhiên
trong thực tiễn, không phải trong mọi trường hợp đương sự đều có thể tự mình
tham gia tố tụng để thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó để bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho mình hoặc cho bên thứ ba. Có thể có nhiều lý do khác nhau: Do
hạn chế về trình độ pháp lý, do không hoặc ít có kinh nghiệm tham gia tố tụng,
do điều kiện khó khăn về khoảng cách địa lí, do già yếu, ốm đau hoặc do hạn
chế về thời gian v.v...mà đương sự không thể tự mình tham gia tố tụng tại Tòa
án được, việc thực hiện một phần hoặc toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng
của họ thông qua người đại diện. Người đại diện của đương sự là người tham
gia tố tụng thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự trước Tòa án [1, tr.115].
Đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm đại diện theo pháp luật và đại
9
diện theo ủy quyền. Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự được xác lập
trên cơ sở thỏa thuận giữa bên ủy quyền và bên đại diện theo ủy quyền dưới
hình thức văn bản ủy quyền, đó cũng là cơ sở để bên đại diện tham gia tố tụng
dân sự nhân danh và bảo vệ quyền lợi cho bên đương sự đã ủy quyền. Trên cơ
sở kế thừa và phát triển các công trình nghiên cứu trước đây, dựa trên các
khái niệm đại diện theo ủy quyền trong dân sự, tố tụng dân sự, đương sự trong
tố tụng dân sự, có thể đưa ra khái niệm đại diện theo ủy quyền trong tố tụng
dân sự như sau:
Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự là đại diện được xác lập
theo sự ủy quyền giữa bên đại diện và bên được đại diện thông qua văn bản
ủy quyền, theo đó bên đại diện nhân danh và vì quyền lợi của bên được đại
diện thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng trong phạm vi ủy quyền để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho bên được đại diện.
1.1.2. Đặc điểm của đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự
- Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng dân sự trên cơ sở quan
hệ ủy quyền:
Khác với quan hệ đại diện theo pháp luật là loại đại diện bắt buộc phải
có do người đươ ̣c đa ̣i diê ̣n là người chưa thành niên , người bị hạn chế hoặc
mấ t năng lựa hà nh vi dân sự, quan hê ̣ đa ̣i diê ̣n theo ủy quyề n đươ ̣c hình thành
trên cơ sở thỏa thuâ ̣n , thể hiê ̣n ý chí giữa bên ủy quyền và bên đại diện theo
ủy quyền. Khi đương sự không thể hoặc không muốn tham gia tố tụng dân sự
thì có thể ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Quan hệ
ủy quyề n là cơ sở để người đại diện theo ủy quyền của đương sự tham gia vào
quan hệ tố tụng, có thể dựa trên quan hệ họ hàng, quen biết, tin tưởng, cũng
có thể dựa trên cơ sở hợp đồng có thù lao. Việc đại diện theo ủy quyền trong
tố tụng dân sự luôn tồn tại hai quan hệ: Quan hệ giữa bên đại diện theo ủy
quyền với bên được đại diện, trong đó quyền và nghĩa vụ của các bên dựa trên
10
nội dung và phạm vi ủy quyền, và quan hệ giữa bên đại diện theo ủy quyền
với người thứ ba khác. Trong quan hệ thứ nhất, người đại diện theo ủy quyền
được trao quyền thực hiện một hoặc một số hành vi tố tụng nhất định trong
phạm vi và nội dung ủy quyền, nhân danh và thực hiện công việc vì lợi ích
của bên ủy quyền hoặc của người thứ ba liên quan. Quan hệ thứ hai là quan
hệ bình đẳng giữa các đương sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự,
mặc dù người đại diện theo ủy quyền không phải là mô ṭ bên đương sự của vụ
việc đang giải quyế t . Trong tố tụng dân sự, quan hệ giữa các đương sự là bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ; do người đại diện theo ủy quyền có các quyền và
nghĩa vụ tố tụng như chính đương sự được đại diện, vì vậy quan hệ giữa
người đại diện theo ủy quyền với bên thứ ba khác
là quan hệ bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ. Người đại diện theo ủy quyền thay mặt cho đương sự
được đại diện thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của người này, do đó
có một số quyền nhất đinh đối với bên thứ ba là đương sự phía bên kia hoặc
với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, đó là quyền bình đẳng
về việc cung cấp và chứng minh chứng cứ, tham gia hòa giải, tranh luận tại
phiên tòa, đưa ra câu hỏi với người khác v.v...
- Bên đại diện theo ủy quyền nhân danh bên được đại diện tham gia tố
tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bên được đại diện:
Người đại diện theo uỷ quyền cho cá nhân hay cho cơ quan, tổ chức
không phải là nguyên đơn, bị đơn hay là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án, mà là người thay mặt cho đương sự đã ủy quyền để tham
gia tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ho .̣ Đây là một trong những
đặc điểm để phân biệt người đại diện theo ủy quyền với người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự - một chủ thể tham gia tố tụng cũng để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự nhưng không thay mặt cho đương
sự như người đại diện theo ủy quyền. Mặc dù đều tham gia tố tụng để bảo vệ
11
quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự nhưng người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng với vị trí pháp lý tương đối độc lập
với đương sự. Họ tham gia tố tụng trên cơ sở hợp đồng ký kết với đương sự
hoặc người đại diện của đương sự và được sự chấp thuận của Tòa án.
- Người đại diện theo ủy quyền có các quyền, nghĩa vụ của đương sự
mà mình đại diện, tùy thuộc vào nội dung ủy quyền:
Nếu như người đại diện theo pháp luật của đương sự có quyền thực
hiện mọi hành vi tố tụng, kể cả khởi kiện, vì lợi ích của người được đại diện
(trừ trường hợp pháp luật có quy định khác), thì người đại diện theo uỷ quyền
trong tố tụng dân sự chỉ có quyền thực hiện các hành vi tố tụng trong phạm vi
được uỷ quyền. Người đại diện theo ủy quyền không tự nhiên mà có được tấ t
cả các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự mà mình đại diện. Họ có các
quyền, nghĩa vụ này dựa trên cơ sở văn bản ủy quyền
, do ngưởi ủy quyề n
quyế t đinh.
̣ Đương sự là bên ủy quyền tùy theo địa vị tố tụng của mình mà có
các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định, thông qua việc ủy quyền, họ có
thể trao việc thực hiện một phần hoặc toàn bộ các quyền, nghĩa vụ đó cho
người đại diện theo ủy quyền của mình thực hiện. Giới hạn của việc thực hiện
đó được xác định bởi nội dung và phạm vi ủy quyền trong văn bản ủy quyền.
Bên đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự không được ủy quyền lại cho
người khác, trừ trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của bên ủy quyền lúc
đầu. Khi đương sự, người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền cho
người khác thay mặt mình tham gia tố tụng, thì bên ủy quyền chấp nhận hậu
quả pháp lý của các hành vi do bên được ủy quyền thực hiện trong phạm vi và
thời hạn ủy quyền. Theo Điều 80 BLTTDS, đương sự có người đại diện tham
gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của
đương sự. Việc khởi kiện phải do người uỷ quyền quyết định, nếu cá nhân
khởi kiện phải ký tên trong đơn khởi kiện, nếu pháp nhân khởi kiện, người đại
12
diện theo pháp luật của pháp nhân ký tên và đóng dấu. Người đại diện theo uỷ
quyền có thể thay người uỷ quyền viết đơn khởi kiện nhưng không được thay
người uỷ quyền ký đơn khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.1.3. Ý nghĩa của đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự
Việc đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự có ý nghĩa rất lớn.
Trước hết, nó khẳng định một trong những nguyên tắc căn bản nhất của pháp
luật tố tụng dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – nguyên tắc
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Đương sự tùy theo địa vị tố
tụng của mình là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, tùy theo nội dung yêu cầu của mình đối với Tòa án mà có các quyền và
nghĩa vụ pháp lý khác nhau được quy định bởi pháp luật. Mọi đương sự đều
có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau, còn năng lực hành vi tố tụng
dân sự của mỗi đương sự là khác nhau, tùy theo khả năng đương sự thực hiện
các quyền và nghĩa vụ tố tụng như thế nào. Để thực hiện các quyền và nghĩa
vụ tố tụng do pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, đương sự có quyền tự quyết định mình phải làm gì: Tự mình thực hiện
hay trao cho người khác mà mình có thể tin tưởng thực hiện một phần hay
toàn bộ các quyền và nghĩa vụ đó thông qua việc đại diện theo ủy quyền.
Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự còn có ý nghĩa khác: Một
mặt, nó có tác dụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được đại
diện. Mặt khác, người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng là người có đầy đủ
năng lực hành vi tố tụng dân sự, và thông thường là những người có trình độ,
hiểu biết pháp luật, có kinh nghiệm tham gia tố tụng, nên việc đại diện theo
ủy quyền còn có ý nghĩa giúp cho việc giải quyết vụ việc được nhanh gọn,
chính xác và đúng thời hạn. Trong một số trường hợp như đương sự ở xa, già
yếu hoặc hạn chế về hiểu biết pháp luật tố tụng, Tòa án thường gặp khó khăn
khi triệu tập họ, thu thập hoặc đánh giá chứng cứ v.v..., các hoạt động này
13
thường dễ dàng, nhanh gọn hơn nhiều nếu Tòa án làm việc với người đại diện
theo ủy quyền của họ. Hoặc trong thực tiễn đối với các vụ án dân sự tranh
chấp thừa kế có nhiều nguyên đơn, nhiều bị đơn hoặc nhiều người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu quyền lợi của họ là thống nhất, không đối lập
nhau và họ đều ở xa (chẳng hạn ở nước ngoài), nếu họ cùng ủy quyền cho
một người tham gia tố tụng thì việc giải quyết vụ án sẽ nhanh gọn hơn, đảm
bảo hơn về mặt thời hạn tố tụng, hạn chế sự hao tốn về tiền bạc, thời gian của
chính các đương sự cũng như của Tòa án.
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về đại diện
theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự
1.2.1. Cơ sở về lý luận
- Việc xây dựng các quy định về đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng
dân sự dựa trên bản chất của quan hệ pháp luật nội dung:
Khác với các quan hệ hình sự hay hành chính thường mang tính chất áp
đặt, bất bình đẳng giữa một bên mang và nhân danh quyền lực Nhà nước với
một bên bị buộc phải tuân theo những quyết định mà không thể nhờ người
khác làm thay, quan hệ đại diện theo ủy quyền chủ yếu có mục đích bảo vệ
quyền lợi cho những người không có đủ điều kiện thực hiện những hành vi
nhất định để tự bảo vệ, hay đem lại quyền lợi cho chính mình. Đại diện theo
ủy quyền trong tố tụng dân sự và đại diện theo ủy quyền trong dân sự đều thể
hiện được mục đích này.
Bản chất của các quan hệ dân sự (và cũng của các quan hệ hôn nhân gia
đình, kinh doanh thương mại, lao động) là mang tính bình đẳng, tự do, tự
nguyện xác lập và thực hiện, không bị cưỡng ép. Một bên trong quan hệ vì lý
do nào đó mà không thể hoặc không muốn tự mình thực hiện một số hành vi,
thì có thể tìm đến sự thỏa thuận với người thứ ba bên ngoài khác để “nhờ” họ
thay mặt mình thực hiện các hành vi này; người được ủy quyền thực hiện các
14
- Xem thêm -