Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đặc điêm tri nhận của người việt qua trường từ vựng chỉ trang sức trong thành ng...

Tài liệu Đặc điêm tri nhận của người việt qua trường từ vựng chỉ trang sức trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao

.PDF
75
907
89

Mô tả:

Đặc điêm tri nhận của người Việt qua trường từ vựng chỉ trang sức trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Bộ ba tư duy – ngôn ngữ - văn hoá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong khoa học ngôn ngữ, việc lựa chọn cách thức nghiên cứu ngôn ngữ trong mối quan hệ với văn hoá, tư duy là một hướng đi đúng đắn trong giai đoạn hiện nay. 1.2. Thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong vốn ngôn ngữ văn hoá chớnh những yếu tố phản ánh tư duy và ý thức văn hoá dõn tộc. Thông qua ý nghĩa của những sự vật trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao ta có thể hình dung được “lối nghĩ” riêng của mỗi con người trên từng vùng lónh thổ. Vì vậy, thành ngữ, tục ngữ, ca dao không chỉ được coi là một đơn vị ngôn ngữ mà hơn thế, nó cũn là một đơn vị ngôn ngữ văn hoá. 1.3. Trang sức (nhẫn, vòng tai, xuyến, trõm…) được coi là một di sản văn hoá phi vật thể đã lưu giữ những phong tục, tập quán, tín ngưỡng của mỗi vùng, miền, mỗi quốc gia, lónh thổ. Thông qua trang sức mà con người sử dụng, ta sẽ thấy được những khớa cạnh khác nhau trong đời sống của họ. Với chất liệu, chức năng …khác nhau của trang sức được sử dụng ở những giới tớnh, đẳng cấp…khác nhau của con người sẽ tạo ra ý nghĩa biểu trưng khác nhau. Nghiên cứu ý nghĩa của những trang sức được nhắc đến trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao, đề tài sẽ cung cấp một cái nhìn đầy đủ hơn về vị trí của biểu tượng này trong đời sống tinh thần người Việt, sự tiếp nhận và sáng tạo chúng trong ngôn ngữ nghệ thuật. 2. Lịch sử vấn đề 1 2.1. Tổng quan về sự ra đời và phát triển của ngôn ngữ học tri nhận. 2.1.1. Trên thế giới Ngôn ngữ học tri nhận ra đời vào những năm đầu của thập niên 60 của thế kỉ XX, song song với một khuynh hướng mới có tên gọi là ngữ pháp cải biến gắn liền với tên tuổi của Chomsky. Chomsky và Miler được coi là những người sáng lập ra khoa học tri nhận. Đến cuối những năm 70, ngôn ngữ học bắt đầu xuất hiện những nghiên cứu mang hơi hướng tri nhận. Nhưng “thời điểm ra đời chính thức của ngôn ngữ học tri nhận thường được tính là năm 1989 là năm mà tại Duisburg (Đức) các nhà khoa học tham dự hội thảo đã thông qua quyết nghị thành lập hội ngôn ngữ học tri nhận và sau đó bắt đầu ra tạp chí “Cognitive Linguistics”[43, 15]. Tuy nhiên, từ trước đến nay, những công trình kinh điển về lí thuyết tri nhận phải kể đến: - Langacker, Ronald W. 1987, 1999. Foundations of cognitive grammar. - Dirven, Rene and Marjolijn Verspoor, eds. 1998. Cognitive exploration of language and linguistics. Philadelphia: John Benjamins Publishing Company. - Evans, Vyvyan, and Melanie Green. 2006. Cognitive linguistics: An introduction. Mawhaw, N.J.: Erlbaum. - Lee, David. 2001. Cognitive linguistics: An introduction. New York: Oxford University Press.…….. Theo bài tổng thuật khá uy tín của các tác giả Vyvyan Evans, Benjamin K. Bergen and Jorg Zinken (The cognitive linguistics enterprise: an overview - Tổng quan về trường phái ngôn ngữ học tri nhận) (2006), ngôn ngữ học tri nhận phát triển theo hai hướng chớnh: Hướng đi thứ nhất: Ngữ nghĩa học tri nhận, với các tác giả tiêu biểu: Lakoff, Johnson, Rosch, Fillmore, Fauconier, …bao gồm các nhánh: 2 (1) Image schema theory (Lí thuyết lược đồ hình ảnh) (2) Encyclopeadic semantic (Ngữ nghĩa học bách khoa) (3) Categorization and Idealized Cognitive Model (ICMs) (Phạm trù hoá và các mô hình lí tưởng). (4) Cognitive lexical semantics (Ngữ nghĩa từ vựng tri nhận) (5) Conceptual metaphor theory (Lí thuyết ẩn dụ ý niệm) (6) Conceptual mentonymy (Hoán dụ ý niệm) (7) Mental spaces theory (Lí thuyết không gian tinh thần) (8) Conceptual blending theory (Lí thuyết hỗn dung ẩn dụ) Hướng đi thứ hai: Ngữ pháp học tri nhận, với các tên tuổi: Talmy, Langacker, Goldberg… bao gồm các nhánh: (1) Talmy’s grammartical vs. lexical sub-systems approach (Hướng tiếp cận hệ thống ngữ pháp trong quan hệ với từ vựng của Talmy) (2) Cognitive grammar (Ngữ pháp tri nhận) (3) Constructional approaches to grammar (Các hướng tiếp cận ngữ pháp từ cấu trúc), gồm: . Fillmore’s Construction Grammar (Ngữ pháp cấu trúc của Fillmore) . Goldberg’s Construction Grammar (Ngữ pháp cấu trúc của Goldberg) . Radical Construction Grammar (Ngữ pháp cấu trúc gốc) . Enbodied Construction Grammar (Ngữ pháp cấu trúc nghiệm thõn) (4) Cognitive approaches to grammarticalization (Các hướng tiếp cận tri nhận về ngữ pháp hoá) Về các quan điểm và nguyên lí cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận, có các vấn đề sau: (1) Ngôn ngữ không phải là một khả năng tri nhận tự tri (autonomos) 3 (2) Ngữ nghĩa và ngữ pháp là sự ý niệm hoá (conceptualisation) (3) Tri thức ngôn ngữ nảy sinh ra từ sự sử dụng ngôn ngữ. (4) Ý nghĩa của ngôn ngữ không hạn chế trong nội bộ hệ thống ngôn ngữ mà có nguồn gốc sõu xa từ kinh nghiệm được hình thành trong quá trình con người và thế giới tương tác với nhau, từ tri thức và hệ thống niềm tin của con người; ngữ nghĩa là một bộ phận của hệ thống ý niệm tổng thể chứ không phải là một “module” tự trị độc lập. (5) Vì chức năng cơ bản của ngôn ngữ là chuyển tải ý nghĩa nên sự khác biệt về hình thức phản ánh những sự khác biệt về ngữ nghĩa. Ngữ pháp không nên được coi không phải là một hệ thống quy tắc mà là một bảng danh mục các biểu hiện (symbol) có cấu trúc nội tại bởi sự kết hợp ý nghĩa và hình thức… [43, 20-30] 2.1.2. Ở trong nước Trước tiên phải kể đến các tác giả đã có công lao dịch thuật và đưa lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận vào Việt Nam: - Tác giả Lí Toàn Thắng đã xuất bản công trình “ Ngôn ngữ học tri nhận - từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt” (2005), tái bản năm 2009. Trong cuốn sách này, tác giả đã phác thảo ngôn ngữ học tri nhận từ lịch sử hình thành cho đến những thành tựu tiêu biểu. Tác giả tập trung viết về vấn đề điển dạng và các phạm trù tri nhận. Một đóng góp quan trọng nữa của cuốn sách này là kết quả nghiên cứu kì công, tỉ mỉ của tác giả về mô hình tri nhận không gian của người Việt. - Trần Văn Cơ đã xuất bản hai cuốn “Ngôn ngữ học tri nhân (ghi chép và suy ngẫm)” và “Khảo luận về ẩn dụ tri nhận”. Đõy là hai cuốn sách tõm huyết của ông nhằm truyền bá khuynh hướng ngôn ngữ học tri nhận. 4 - Tác giả Nguyễn Văn Hiệp, thông qua việc dịch cuốn sách Nhập môn ngữ nghĩa học của John Lyons, trong phần Định nghĩa về nghĩa của từ, đã đi vào tỡm hiểu về điển dạng. - Lê Văn Thiêm với Tập bài giảng ngữ nghĩa học, bài 5, Ngữ nghĩa học tri nhận, trình bày về Ngữ nghĩa học tri nhận theo nghĩa hẹp. Tiếp sau này, đã có nhiều bài báo của các tác giả trình bày về ẩn dụ tri nhận, các luận văn, luận án, khoá luận tốt nghiệp đã ứng dụng lí thuyết vào nghiên cứu cụ thể: Nghiên cứu theo ngữ nghĩa học có các công trình: - Nguyễn Đức Tồn (2007-2008), Bản chất của ẩn dụ, Tạp chí ngôn ngữ số 10, 11/2007. - Nguyễn Đức Tồn, Cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm từ biểu thị cảm giác trong tiếng Việt. - Nguyễn Đức Tồn, Đặc trưng tư duy người Việt qua ẩn dụ tri nhận trong thành ngữ, Tạp chí ngôn ngữ, 12/2008 và 1/2009. - Nguyễn Ngọc Vũ, Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ tiếng Việt có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận, 2008. - Phan Thế Hưng, Ẩn dưới góc độ tri nhận (trên cứ liệu tiếng Việt và tiếng Anh), 2009. - Nguyễn Thị Thanh Huyền, Ẩn dụ tri nhận, mô hình cấu trúc trên ngữ liệu ca từ Trịnh Công Sơn, 2009. - Bựi Thị Dung, Ẩn dụ tri nhận trong ca dao, 2008.….. Nghiên cứu theo hướng ngữ pháp học tri nhận, tiêu biểu là các công trình: - Đỗ Hồng Dương, Bước đầu áp dụng lí thuyết điển mẫu vào nghiên cứu thành phần chủ ngữ trong câu tiếng Việt, Tạp chí ngôn ngữ, 11/2008. - Nguyễn Khánh Hà, Lí thuyết điển mẫu và câu điều kiện điển mẫu trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, 8/2008. 5 - Ly Lan, Ý niệm biểu đạt trong biểu thức có từ “mặt”, từ “anger” của tiếng Việt và tiếng Ạnh: một khảo sát ẩn dụ tri nhận, Tạp chí ngôn ngữ, 10/2009.…… Có những công trình không đích danh đặt nghiên cứu của mình dưới góc độ lí thuyết tri nhận nhưng cách thưc và kết quả lại là một hướng tiếp cận tri nhận. Có thể kể đến các công trình sau: - Nguyễn Thị Ngõn Hoa, Sự phát triển ý nghĩa hệ biểu tượng trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, LA TS KHNV, 2005. - Nguyễn Đức Tồn, Tìm hiểu đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy người Việt, NXB ĐHQGHN, H.2009. 2.2. Lịch sử nghiên cứu trường từ vựng trang sức Ở một số công trình, theo cách này hay cách khác cũng đã nhắc đến nhúm từ ngữ liên quan đến trang sức như Nguyễn Đức Tồn với “Tìm hiểu đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với dân tộc khác)”[48]. Trong công trình này, bên cạnh những vấn đề chung về sự phản ánh đặc trưng văn hoá dõn tộc trong ngôn ngữ, tác giả đã đi vào một số trường từ vựng tiêu biểu. Ở một vài ví dụ trong các chương, tác giả đã nhắc đến một vài thành ngữ liên quan đến trang sức như “trõm góy bỡnh tan”,…. Nhưng với hướng nghiên cứu trong công trình, thành ngữ liên quan đến trang sức chỉ được tiếp cận như một dẫn chứng mà chưa thực sự trở thành đối tượng nghiên cứu. Tác giả Đỗ Hữu Chõu trong Từ vựng học tiếng Việt [4] cũng đã nhắc đến tên gọi một số trang sức (thắt lưng, hoa tai…). Tác giả cho rằng đõy là phương thức chuyển nghĩa của từ theo hướng hoán dụ và ẩn dụ. Như vậy, dù không trực tiếp nhưng nhúm từ gọi tên trang sức đã được nghiên cứu như một đối tượng. Tuy nhiên, do tớnh chất điển hình, trang sức không được chú ý đến nhiều trong công trình trên. 6 Đầy đủ và hệ thống hơn, Nguyễn Thị Ngân Hoa trong luận án Tiến sĩ [22] đã nghiên cứu “Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam”. Công trình đã trực tiếp tìm hiểu ngữ nghĩa và tính biểu trưng của hệ biểu tượng trang phục nói chung và biểu tượng trang sức nói riêng. Dù công trình không xác nhận mình sử dụng lí thuyết tri nhận nhưng cách thức tiến hành và kết quả tìm ra lại cũng chính là một hướng tiếp cận biểu tượng trang sức dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận. Như vậy, trường từ vựng chỉ trang sức đã bước đầu được nghiên cứu trên bình diện cấu trúc ngữ nghĩa và giá trị biểu trưng, giá trị văn hoá và tớnh dõn tộc. Tiếp nối kết quả của những người đi trước, chúng tôi tiếp tục hướng nghiên cứu nhóm từ gọi tên trang sức với sự quan tâm trực tiếp là đặc điểm tri nhận của người Việt qua thành ngữ, tục ngữ, ca dao. Đặc điểm tri nhận này đã bước đầu được nói tới trong các mối quan hệ nhận thức, tư duy về trang sức. Với tình hình nghiên cứu như vậy, chúng tôi mong muốn tiếp cận thành ngữ, tục ngữ, ca dao liên quan đến trang sức một cách hợp lí từ góc độ lí thuyết tri nhận để tìm ra đặc trưng văn hoá và tư duy của người Việt. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Chúng tôi tập trung nghiên cứu nội dung tri nhận và cơ chế tri nhận trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao liên quan đến trang sức. Để từ đó tỡm ra đặc điểm tư duy người Việt về trang sức và mối quan hệ giữa chúng với đời sống cư dõn Việt Để đạt những mục đích đó, chúng tôi tiến hành: - Thống kê tất cả những từ gọi tên trang sức trong từ điển và nguồn tự nhiên. - Thống kê tất cả những thành ngữ, tục ngữ, ca dao liên quan đến trang sức. 7 - Đặt ra và trả lời câu hỏi: quá trình phạm trù hoá trang sức đã được người Việt thực hiện như thế nào thông qua cách thức phân loại dân dã trang sức, mô hình thuộc tính phạm trù trang sức và điển dạng của trang sức. - Tỡm hiểu ẩn dụ tri nhận trong trường từ vựng chỉ trang sức 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Các từ ngữ thuộc trường từ vựng liên quan đến trang sức. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành khảo sát thống kê, nghiên cứu thông qua một số cuốn từ điển sau: - Từ điển thành ngữ tiếng Việt - Nguyễn Lực, Lương Văn Đang. NXB KHXH.H, 1993. - Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nguyễn Lõn, NXB Văn hoá, H.1989. - Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt - Nguyễn Như Ý, Hoàng Văn Hành, Lê Xuõn Thoại, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuõn Thành, NXB GD, 1997. - Từ điển thành ngữ tiếng Việt phổ thông, Nguyễn Như Ý (chủ biên), NXB ĐHQG HN, 2002. - Từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý (chủ biên), NXB Văn hoá thông tin. - Tổng tập văn học dõn gian người Việt, tập 1, 2, 15, 16, Nguyễn Xuõn Kớnh, Trung tõm khoa học XHNV quốc gia, 2002. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp thống kê, phân loại 8 Chúng tôi thống kê các đơn vị của trường từ vựng chỉ trang sức trong tiếng Việt và hoạt động của chúng trong ngôn ngữ tự nhiên, thành ngữ, tục ngữ, ca dao. 5.2. Phương pháp miêu tả 5.2.1. Thủ pháp phân tích thành tố Có thể hiểu phương pháp này là phương pháp nghiên cứu mặt nội dung các đơn vị có ý nghĩa, nhằm phõn giải các ý nghĩa thành các thành phần ngữ nghĩa tối thiểu. Đối tượng của phương pháp này là tổng thể các từ liên quan với nhau về ngữ nghĩa. Khi sử dụng phương pháp này, để xử lí ngữ liệu trước tiên là tổ chức sắp xếp ngữ liệu theo nguyên tắc đồng nhất (các từ trong cùng một trường nghĩa). Ví dụ: các từ cùng được xếp vào nhúm đồng nhất về mặt vị trí, đặc điểm…Trong mỗi nhóm lớn lại xếp các nhúm đồng nhất nhỏ hơn, rồi trong mỗi nhúm như vậy lại tiếp tục phõn chia thành các nhúm nhỏ hơn nữa. 5.2.2. Thủ pháp miêu tả ý niệm Miêu tả miền ý niệm nguồn, miền ý niệm đớch phía sau mỗi biểu thức ngôn ngữ cụ thể. 5.3. Phương pháp so sánh đối chiếu Khoá luận lấy một số đơn vị ngôn ngữ thuộc trường từ vựng chỉ trang sức trong tiếng Anh để so sánh đối chiếu, nhằm chỉ ra một số điểm tương đồng và dị biệt, từ đó bước đầu nhận định về đặc điểm tri nhận trang sức giữa người Anh và người Việt. 5.4. Phương pháp thực nghiệm Kiểm chứng về điển dạng trong trường từ vựng chỉ trang sức thông qua khảo sát một số nhúm đối tượng cụ thể. (Nội dung thực nghiệm chúng tôi xin trình bày cụ thể ở chương 2) 6. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm ba chương sau: 9 Chương 1: Cơ sở lí luận Chương 2: Khảo sát những biến thể ngôn ngữ trường từ vựng chỉ trang sức. Chương 3: Đặc điểm tri nhận về khách thể (trang sức) và chủ thể (con người) qua trường từ vựng trang sức trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam. 10 Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Cơ sở ngôn ngữ học 1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học tri nhận Ngôn ngữ học tri nhận (cognitive linguistics) là một khuynh hướng ngôn ngữ học ra đời vào những năm 80 của thế kỉ XX với nhiệm vụ trung tâm là nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy của con người, nghiên cứu cách con người nhận thức thế giới (thế giới thực tại, thế giới phi thực tại) qua lăng kính ngôn ngữ và văn hóa. Do đó đối tượng nghiên cứu chính của ngôn ngữ học tri nhận không chỉ là những hiện tượng có thể quan sát trực tiếp được, mà còn cả những hiện tượng không thể quan sát trực tiếp được như tri thức, ý thức, tinh thần, ý chí v.v., những cái được gọi là những biểu tượng tinh thần. Đơn vị tối thiểu của ngôn ngữ học tri nhận không phải là từ, cũng không phải là câu, mà là ý niệm (concept). Ngôn ngữ học tri nhận cũng chủ trương rằng cùng với ngôn ngữ tự nhiên của con người và liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ là yếu tố văn hóa dân tộc mà người bản ngữ đại diện. Với ý nghĩa đó, văn hóa cũng có cương vị là công cụ (hoặc phương tiện tri nhận), cũng nghĩa là cái lăng kính phản chiếu sự tri nhận thế giới của con người. Phương thức tri nhận thứ ba (cùng với ngôn ngữ và văn hóa) làm thành một trong những cơ sở của ngôn ngữ học tri nhận là kinh nghiệm (experientialism). Tri nhận là một hoạt động thực tiễn của con người nhằm kiến tạo tri thức về thế giới bằng kinh nghiệm của chính mình thông qua bản thân mình. Cỏi cỏch tri nhận này được gọi là nhập thân ý niệm (conceptual embodiment). Tìm hiểu về ngôn ngữ học tri nhận, chúng tôi dựa trên nguyờn lớ “dĩ nhân vi trung”, ý niệm hóa về thế giới , cơ chế ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận. 1.1.1.1. Nguyờn lí “dĩ nhân vi trung” (anthropocentric) 11 Ngôn ngữ học tri nhận đã thiết lập mối liên hệ mật thiết với tất cả các khoa học tri nhận: tõm lớ học tri nhận, văn hóa học, thần kinh học, nhận thức luận, triết học, trí tuệ nhân tạo v.v., lôi cuốn vào phạm vi nghiên cứu của mỉnh cả những hiện tượng ngoài ngôn ngữ. Chính vì vậy, ngôn ngữ học tri nhận được xem là môn khoa học liên ngành. Ngôn ngữ học tri nhận, một mặt, liên hệ chặt chẽ với viờc nghiên cứu hiện tượng tri nhận trong tất cả các bình diện ngôn ngữ học: từ vựng, ngữ pháp, âm vị; mặt khác, nghiên cứu sự hiểu biết, tri thức trong đầu con người, tạo ta những phương thức miêu tả thế giới, truyền đạt thông tin về thế giới (Soames 1988, Schwarz 1992). Ngôn ngữ học tri nhận nghiên cứu ngôn ngữ trong mối quan hệ với con người (con người suy nghĩ, con người hành động), giương cao ngọn cờ “hướng tới con người ” – lấy con người là trung tâm. “Ngôn ngữ được tạo ra theo thước đo của con người và thước đo đó được in sâu vào trong bản thân sự định hướng của ngôn ngữ”. Nguyờn lớ này trở thành phương pháp luận chủ đạo của ngôn ngữ học tri nhận. Tư tưởng “dĩ nhân vi trung” đã có lịch sử lâu đời. Ngôn ngữ học tiếp thu tư tưởng này từ khá sớm (V.Humboldt “sức mạnh tinh thần của con người”, Benvenise “con người trong ngôn ngữ”) và cuối cùng hình thành khuynh hướng ngôn ngữ học hiện đại hay còn gọi là ngôn ngữ học tri nhận. Vận dụng nguyờn lớ này trong việc nghiên cứu mô hình không gian, tác giả Lí Toàn Thắng [43] đã tìm ra tư thế “chuẩn tắc” (tư thế thẳng đứng) và “không chuẩn tắc” của con người trong định hướng không gian. Nhân tố trung tâm con người được thể hiện rất rõ nét trong cách định hướng không gian, xác định kích cỡ và hình dáng của các bộ phận cơ thể con người. Từ không gian cơ thể người sẽ đi đến cách tri nhận về không gian cơ thê vật. Thông qua cách phân tích mô hình tri nhận không gian trên có thể thấy trong ngôn ngữ phản ánh không chỉ tri thức của con người về thế giới mà còn cả sự hình dung về thế giới đó. Trong ngôn ngữ tồn tại không phải 12 một thế giới khách quan mà là một thế giới chủ quan, thế giới đã được “con người húa”. Xuất phát từ con người để nhìn nhận ngôn ngữ, nhìn nhận thế giới, ngôn ngữ học tri nhận đã nghiên cứu ngôn ngữ trong mối quan hệ với con người. Trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao tiếng Việt, nguyên lí “dĩ nhân vi trung” của ngôn ngữ học tri nhận được thể hiện rõ nét. Ở đó, mọi sự vật đều để chỉ con người, hướng tới con người và lấy con người làm trung tâm. 1.1.1.2. Ý niệm hóa thế giới và “bức tranh ngôn ngữ về thế giới” Theo William Croft and D.Alan Cruse, “ngôn ngữ học tri nhận hoạt động bên ngoài cấu trúc có thể nhìn thấy được của ngôn ngữ và nghiên cứu những thao tác tri nhận rất phức tạp ở hậu trường, điều đó tạo ra ngữ pháp, ý niệm hóa, ngụn bản và sự suy nghĩ trực tiếp”. Hơn thế, hiện thực là một đường liên tục không có đường phân giới rõ ràng, tuyệt đối, dứt khoát. Trong quá trình nhận thức hiện thực khách quan và biểu hiện nhận thức ấy bằng ngôn ngữ, con người đã phạm trù hóa hiện thực khách quan, cấu trúc lại hiện thực hay ý niệm hóa thế giới theo cách nhất định. Đơn vị tối thiểu của ngôn ngữ học tri nhận không phải là từ, cũng không phải là câu, mà là ý niệm (Concept).í niệm là đơn vị cơ bản nhất của ngôn ngữ học tri nhận. Một trong những luận thuyết cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận là: ngữ nghĩa học là sự ý niệm hóa (semantics is conceptualization [46] Các đơn vị ngôn ngữ (từ, ngữ, kết cấu) biểu đạt ý niệm (concepts) và ý niệm tương đương với ý nghĩa (meanings). Ý niệm là “cái chứa đựng sự hiểu biết của con người về thế giới được hình thành trong quá trình tri nhận và hiện thân trong ngôn ngữ. Trong ý niệm cú cỏi phổ quát (khái niệm) và các đặc thù (văn hóa được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau)” [7, 142]. Trong cấu trúc nội tại của ý niệm bao gồm nhiều nội dung thông tin về thế giới hiện thực và thế giới tưởng tượng 13 mang nét phổ quát. Mặt khác, nó bao gồm cả những nét đặc trưng văn hóa dân tộc riêng biệt. Liên quan đến vấn đề ý niệm, các nhà khoa học khẳng định: ý niệm chính là một mảng thế giới do con người cắt bằng “lưỡi dao ngôn ngữ” để nhận thức. Thế giới tồn tại khách quan nhưng việc chia cắt nó là khác nhau ở các dân tộc mang những nền văn hóa khác nhau. Ý niệm hóa thế giới cho chúng ta những “bức tranh thế giới” trong đó có bức tranh ngôn ngữ về thế giới. Đó là bức tranh biểu hiện thế giới khách quan của con người được phác họa bằng những chất liệu ngôn ngữ. Do chỗ “ngôn ngữ có liên hệ mật thiết với những đặc trưng văn hóa – dân tộc của người bản ngữ với những gam màu đặc trưng cho nền văn hóa dân tộc [8, 180]. Vì thế nó có tính phổ quát và tính đặc thù. Trong ngôn ngữ học tri nhận, bức tranh ngôn ngữ về thế giới được phản ánh trong vốn từ vựng của ngôn ngữ in đậm dấu vết của lối tư duy “dĩ nhân vi trung”. Như vậy, dựa trên những tiền đề ngôn ngữ học tri nhận như đã nêu trên, chúng tôi xuất phát từ ý niệm “trang sức” để nghiên cứu về mối liên hệ giữa thế giới và con người. Đõy cũng chớnh là con đường đi vào nghiên cứu những vấn đề như ngôn ngữ và nhận thức, ngôn ngữ và văn hoá, ngôn ngữ và xã hội. Trung tõm chú ý của ngôn ngữ học tri nhận là hình ảnh con người trong văn hoá và ngôn ngữ, do đó với nguyên tắc lấy con người làm trung tõm, chúng tôi tiến hành khảo sát đặc trưng bản sắc dõn tộc của mô hình “trang sức” và cách nhìn trang sức của con người trên ngữ liệu thành ngữ, tục ngữ, ca dao. 1.1.1.3. Cơ chế ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận Trong lý thuyết ngôn ngữ học cổ điển, ẩn dụ được coi là một vấn đề thuộc ngôn ngữ chứ không phải là vấn đề của tư duy. Lối nói ẩn dụ được cho là không có trong ngôn ngữ thông tục hàng ngày và ngôn ngữ hằng ngày không có ẩn dụ. Nói cách khác, ẩn dụ chỉ được dùng trong các địa hạt 14 bên ngoài ngôn ngữ đời thường. Trong nhiều thế kỷ, người ta đã quá tin vào lý thuyết cổ điển, tới mức, chẳng hề nhận ra được rằng chẳng qua nó cũng chỉ là lý thuyết mà thôi. Người ta không chỉ tin lý thuyết đó là thật, mà còn lấy nó để làm định nghĩa. Chữ phép ẩn dụ (metaphor) được định nghĩa là cách biểu đạt ngôn ngữ của tiểu thuyết hoặc thi ca trong khi chỉ có một hay vài từ chỉ một khái niệm nào đó được dùng vượt ra ngoài ý nghĩa thông thường của nó để diễn đạt một khái niệm tương tự. Nhưng đây lại không phải là vấn đề định nghĩa, mà là vấn đề kinh nghiệm. Với tư cách là một người làm khoa học thực chứng và là một nhà ngôn ngữ học, người ta có thể hỏi: Sự khái quát nào khiến cho những diễn đạt ngôn ngữ trở nên cái mà các nhà nghiên cứu cổ điển gọi là ẩn dụ thi ca? Khi vấn đề này được tra xét kỹ lường thì người ta sẽ thấy sự sai lầm của ngôn ngữ học kinh điển. Sự khái quát thể hiện thành cách diễn đạt ẩn dụ có tính thi ca diễn ra không phải ở trong ngôn ngữ, mà ở trong tư duy: nó là những liên tưởng khái quát vượt qua ranh giới khái niệm. Hơn nữa, những nguyên tắc chung quy định những định dạng ý niệm này không chỉ áp dụng vào những hình thức diễn đạt trong thi ca và tiểu thuyết mà còn xuất hiện vô số trong ngôn ngữ thông tục hàng ngày. Tóm lại, chỗ của ẩn dụ không hề là ở trong ngôn ngữ mà là ở trong cỏi cỏch chúng ta khái quát hóa một hiện tượng tinh thần này bằng một hiện tượng tinh thần khác. Lý thuyết chung của ẩn dụ nằm trong những đặc điểm của sự xác lập khái quát có tính liên tưởng. Trong quá trình đó, những khái niệm trừu tượng hàng ngày như thời gian, trạng thái, thay đổi, nguyên nhân kết quả hoặc mục đích... đều trở nên có tính ẩn dụ. Hệ quả là ẩn dụ (tức là khái quát có tính liên tưởng) chính là tâm điểm tuyệt đối của ngữ nghĩa học trong ngôn ngữ thông tục tự nhiên, và việc nghiên cứu ẩn dụ văn học là một sự mở rộng của việc nghiên cứu ẩn dụ trong ngôn ngữ hàng ngày. Phép ẩn dụ được dùng đến hàng ngày (trong ngôn ngữ thường nhật) là một hệ thống khổng lồ gồm vô số những khái quát liên tưởng, và hệ 15 thống này được sử dụng trong ẩn dụ văn học. Nhờ những kết quả thực chứng này, chữ ẩn dụ đã được dùng theo một cách khác trong những nghiên cứu về ẩn dụ hiện thời. Chữ ẩn dụ lúc này có nghĩa là một khái quát có tính liên tưởng trong hệ thống khái niệm. Khái niệm sự diễn đạt có tính ẩn dụ được dùng để chỉ một biểu đạt ngôn ngữ (một chữ, một cụm từ, hoặc một câu) thực hiện được sự khái quát có tính liên tưởng đó. [...] Khác với ẩn dụ tu từ và ẩn dụ từ vựng, ẩn dụ ý niệm (hay tri nhận), ngoài chức năng quy ước hóa và từ vựng hóa cũn có chức năng ý niệm hóa, thể hiện cách tư duy, tri nhận về sự vật của người bản ngữ. Từ gúc nhỡn tri nhận luận, ẩn dụ ý niệm là một sự “chuyển di” (transfer) hay một sự “đồ hoạ” (mapping) cấu trúc và các quan hệ nội tại của một lĩnh vực hay mô hình tri nhận nguồn (source) sang một lĩnh vực hay mô hình tri nhận đích (target) [43, 2005]. Thường thỡ cỏc phạm trù ở mô hình đích trừu tượng hơn, các phạm trù ở mô hình nguồn thì cụ thể hơn, nghĩa là chúng ta thường dựa vào kinh nghiệm của mình về những con người, những sự vật và hiện tượng cụ thể thường nhật để ý niệm những phạm trù sự vật khác. Lí thuyết ẩn dụ của ngôn ngữ học tri nhận cũng đã mở ra cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ và hé lộ cho việc nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ. Theo cách hiểu truyền thống, thành ngữ (idiom) mang tính võ đoán nhưng theo cách hiểu của ngôn ngữ học tri nhận, thì hoàn toàn khỏc. Chỳng không hoàn toàn võ đoán mà là có nguyên do. Nghĩa là, thành ngữ xuất hiện tự nhiên theo các quy tắc sản sinh (producetive rule), nhưng lại chỉ có thể phù hợp với một hay hơn một mô thức hiện hữu trong hệ thống ý niệm. Một thành ngữ như spinning one’s wheel theo nghĩa tinh thần truyền thống là bánh xe của xe hơi bị kẹt trong các vật liệu nào đó như bùn, cát, hay tuyết nên xe không thể nào chuyển động dự mỏy đó khởi động và bánh vẫn quay. Một phần tri trức của chúng ta về hình ảnh này là tốn kếm rất nhiều sinh 16 lực, năng lượng mà không mang lại kết quả, tiến bộ nào, rằng tình hình sẽ vẫn không thay đổi hiện trạng, và rằng sẽ phải mất rất nhiều công sức mới làm cho xe khởi động và chuyển động được, và rằng điều đó là hầu như không thể. Ẩn dụ Love-as-Journey áp dụng vào trong tri thức về hình ảnh này. Ẩn dụ này vạch ra đồ chiếu về tri thức phương tiện với tri thức về quan hệ tình yêu: Tốn công phí sức nhưng thể nào đạt được đến được mục đích chung, sẽ không thể nào thay đổi được hiện trạng, sẽ phải tốn rất nhiều công sức để cả hai cựng nhỡn về một hướng v.v... Tóm lại, khi thành ngữ, tục ngữ, ca dao có liên hệ với các hình ảnh quy ước, thì tất yếu sẽ phải có những ẩn dụ ý niệm mang tính nguyên nhân gắn kết, phụ thuộc để vạch ra đồ chiếu tri thức từ nguồn tới đớch.Thật thú vị khi thấy những khái niệm về tình cảm như tình yêu và sự giận dữ được biểu đạt qua rất nhiều ẩn dụ cũng như rất nhiều trong số những khái niệm cơ bản thuộc các hệ thống ý niệm cũng được hiểu thông thường qua các khái niệm ẩn dụ như thời gian, chất lượng, tình trạng, sự thay đổi, hành động, nguyên nhân, mục đích, phương tiện, tỡnh thỏi và thậm chí là các khái niệm về một phạm trù lớn...Đõy chính là cơ sở để hình thành cấu trúc bề mặt, miền nguồn và miền đích trong thành ngữ, tục ngữ. Một trong những cơ chế tri nhận về trang sức của con người trong thành ngữ, tục ngữ chính là ẩn dụ tri nhận. 1.1.1.4. Lí thuyết về các phạm trù tri nhận và điển dạng Lí thuyết phạm trù tri nhận và điển dạng chúng tôi thừa hưởng những kết quả được trình bày trong công trình của Lí Toàn Thắng và lược thuật rất cụ thể trong [43, 25-35]. Ở đõy chỳng tôi chỉ nhấn mạnh vào một số vấn đề quan trọng sau: Thế giới xung quanh ta bao gồm vô số những sự vật, hiện tượng mà con người phải nhận diện, phõn loại và đặt tên cho chúng. Chẳng hạn, khi ta cần gọi tên màu sắc, người ta cần phải tỡm ra tiêu chí phõn loại các màu 17 sắc đó. Sự phõn loại các màu đó là một quá trình tinh thần phức tạp mà người ta gọi là quá trình “phạm trù hoá” mà sản phẩm của nó là phạm trù tri nhận (như đỏ, vàng, xanh…hay các ý niệm) [43, 30]. Các nhà nghiên cứu cho rằng khi phạm trù hoá màu sắc người ta dựa vào một số điểm quy chiếu để định hướng trong việc lựa chọn thẻ màu của một màu nào đó làm tõm điểm (forci = focal point) và dựa vào các màu trung tõm mà các màu trung tõm này có một tôn ti nhất định mang tớnh phổ quát. Trong 11 phạm trù màu cơ bản của 98 loại ngôn ngữ trên thế giới thì hai màu đen - trắng luôn xuất hiện, nếu một ngôn ngữ có ba từ chỉ màu thì màu tiếp theo là màu đỏ, nếu có bốn từ thì từ tiếp theo là từ chỉ màu xanh lá cõy hoặc màu vàng… Trong tiếng Việt, theo Beklin và Kay, chỉ với 9 từ chỉ màu sắc nhưng đã phát triển đến giai đoạn 7. Rosch (1973, 1975) khi nghiên cứu sõu hơn về cương vị tõm lí của các màu trung tõm và mở rộng khái niệm “tõm điểm” (focus) sang “điển dạng” (propotype). Bà đã áp dụng khái niệm này để khảo cứu những lĩnh vực thuộc về hình dáng, vật thể và sinh vật. Kết quả là: S Phạm trù Điển dạng TT 1 2 3 4 5 Chim Chim cổ đỏ (Robin) Quả Cam (Oringe) Xe cộ Ô tô (Automobike) Đồ nội thất Ghế tựa (Chair) Vũ khí Súng (Gun) Bảng 1.1 Một số điển dạng phạm trù của người Mĩ Các phạm trù tri nhận có cấu trúc hết sức phức tạp, bao gồm nhiều điển dạng, các thí dụ đạt, các thí dụ tồi và có các ranh giới mờ. Cấu trúc thuộc tớnh của các phạm trù điển dạng có thể được hình dung như sau: (1) Các thành viên điển dạng của phạm trù tri nhận có nhiều nhất các thuộc tớnh chung với các thành viên khác của cùng một phạm trù và ít nhất 18 các thuộc tớnh cũng thấy ở phạm trù lõn cận, tức là các thuộc tớnh của một điển dạng ở phạm trù này là khác tối đa với các thuộc tính của một điển dạng ở một phạm trù khác. (2) Các thí dụ tồi chỉ có chung một hoặc hai thuộc tớnh với các thành viên khác của cùng một phạm trù, nhưng có một số thuộc tớnh vốn cũng thấy ở các phạm trù khác, nghĩa là ranh giới giữa các phạm trù là ranh giới mờ. Trong khoá luận của mình, chúng tôi đi giải quyết vấn đề, trong trang sức loại nào là điển dạng. 1.1.2. Nghĩa của từ và trường từ vựng ngữ nghĩa Đề tài kế thừa các quan điểm khoa học và uy tín về nghĩa của từ và trường từ vựng ngữ nghĩa của GS Đỗ Hữu Chõu. 1.1.2.1. Nghĩa của từ Trong các công trình của mình, Đỗ Hữu Chõu đã cho rằng “nghĩa của từ là toàn bộ nội dung tinh thần mà từ gợi ra”[4, 91]. Các thành phần nghĩa của từ theo chức năng mà từ đảm nhiệm chia ra các thành phần nghĩa: a. Ý nghĩa biểu vật tương ứng với các chức năng biểu vật. b. Ý nghĩa biểu niệm tương ứng với các chức năng biểu niệm. c. Ý nghĩa biểu thái tương ứng với các chức năng biểu thái. Đõy là các thành phần ý nghĩa từ vựng, phần ý nghĩa từ vựng này đối lập với ý nghĩa d. Ý nghĩa ngữ pháp tương ứng với chức năng ngữ pháp Trong từ vựng rất phổ biến trường hợp một từ có nhiều nghĩa. Hiện tượng từ nhiều nghĩa này xảy ra với ý nghĩa biểu vật, biểu niệm và biểu thái. Đó là kết quả của sự chuyển biến nghĩa của từ. 19 Từ mới xuất hiện chỉ có một nét nghĩa biểu vật. Sau một thời gian sử dụng, từ có thêm nét nghĩa biểu vật mới. Khi nghĩa biểu vật mới xuất hiện ngày càng nhiều thì nghĩa biểu niệm của từ đó càng có khả năng biến đổi. Có rất nhiều tiêu chí khác nhau để phõn loại nghĩa biểu vật của một từ. Dựa trên tiêu chí lịch sử biến đổi sẽ có nghĩa gốc và nghĩa nhánh, theo khả năng sử dụng sẽ có nghĩa cổ và nghĩa hiện dùng, theo khu vực địa lí sẽ có nghĩa địa phương và nghĩa toàn dõn, theo lĩnh vực xã hội có nghĩa thuật ngữ nghề nghiệp, nghĩa biệt ngữ so với nghĩa phổ thông của từ. Cách phõn loại phổ biến nhất là phõn loại theo nguyên tắc đồng đại. Đối tượng của sự phõn loại là tất cả các nghĩa hiện dùng của từ, không kể đó là từ nguyên hay nghĩa gốc. Các cuốn từ điển trước đó đề nghị phõn chia nghĩa đen hay nghĩa bóng, hoặc nghĩa hẹp hay nghĩa rộng, để phõn loại các nét nghĩa hiện dùng của một từ. Đỗ Hữu Chõu đề xuất cách phõn chia nghĩa chớnh hay nghĩa phụ. Hai phương thức chuyển nghĩa cơ bản nhất là ẩn dụ và hoán dụ. Đó đều là cách chuyển nghĩa của từ dựa trên những nét tương đồng (ẩn dụ) hay những nét gần gũi (hoán dụ) giữa các sự vật được gọi tên. Các cơ chế chuyển nghĩa đã được Đỗ Hữu Chõu trình bày chi tiết trong cuốn Từ vựng, ngữ nghĩa tiếng Việt. Trong đề tài này, chúng tôi vận dụng một khuynh hướng nghiên cứu ngôn ngữ trên lí thuyết tri nhận, trong đó đặc biệt quan tõm đến quan niệm mới về ẩn dụ của G.Lakoff. 1.1.2.2. Trường từ vựng ngữ nghĩa Theo Đỗ Hữu Chõu có thể phõn chia trường nghĩa – những tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa – thành trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm, trường tuyến tớnh và trường liên tưởng. Trong đề tài của mình, chúng tôi quan tõm nhiều nhất đến trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu niệm. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan