Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính dùng trong ngành giao thông (theo quan điểm...

Tài liệu đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính dùng trong ngành giao thông (theo quan điểm phân tích diễn ngôn)

.PDF
149
1077
95

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA NGÔN NGỮ HỌC -----  ----NGUYỄN THỊ HIỀN ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ VĂN BẢN HÀNH CHÍNH SỬ DỤNG TRONG NGÀNH GIAO THÔNG (THEO QUAN ĐIỂM PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC MÃ SỐ: 60 22 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HỮU ĐẠT HÀ NỘI, 2009 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phân tích diễn ngôn hiện là một lĩnh vực đang được các nhà ngôn ngữ học trên thế giới quan tâm. Nhiều người coi đây là ngữ pháp văn bản giai đoạn 2 để phân biệt với ngữ pháp văn bản giai đoạn 1 của những năm đầu thập niên 70. Sự khác biệt của hai giai đoạn này là ở chỗ: trong khi ngữ pháp văn bản giai đoạn 1 tập trung vào khái niệm liên kết về hình thức (cohesion), thì ngữ pháp văn bản giai đoạn 2 lại tập trung vào khái niệm liên kết về nội dung, tức mạch lạc (coherence) của diễn ngôn. Với những công trình mẫu mực của Leech (1974), Widdowson (1975), Brown và Yule (1983)…lý luận về phân tích diễn ngôn đã trở thành một trong những lĩnh vực mũi nhọn của ngôn ngữ học ứng dụng. Ở Việt Nam, so với các lĩnh vực khác của ngôn ngữ học như: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và ngữ nghĩa thì cho đến nay, số lượng các công trình nghiên cứu về diễn ngôn còn chưa nhiều. Tuy vậy, trong những năm gần đây, lĩnh vực này đang ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và đã thu được những kết quả ban đầu rất quan trọng. Có thể nói đây chính là hướng đi mới của ngôn ngữ học. Trong những nghiên cứu về diễn ngôn, đã có một vài công trình nghiên cứu quan tâm đến diễn ngôn văn bản hành chính bởi tính cần thiết của loại hình văn bản này trong hoạt động xã hội. Văn bản nói chung và văn bản hành chính nói riêng có vai trò rất quan trọng trong việc thiết lập các mối quan hệ giữa các cá nhân, các đơn vị với nhau. Có thể thấy một điều rằng, xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của các văn bản hành chính ngày càng lớn. Các giao dịch giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa cơ quan nhà nước với nhân dân đều lấy văn bản hành chính làm sợi dây liên lạc. Mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội từ lĩnh vực kinh tế đến lĩnh vực chính trị đều được điều hành thông qua các loại văn bản này. Do đó, soạn thảo và xử lý văn bản có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống nói chung và trong mỗi ngành nghề nói riêng. Hiện nay, vai trò đó ngày càng được nâng cao hơn do nhu cầu phát triển của công tác quản lý xã hội. Điều đó càng cho thấy rằng việc rèn luyện kỹ năng soạn thảo và xử lý văn bản đối với người Việt nói chung đòi hỏi cần được quan tâm. 1 Tuy nhiên, những nghiên cứu đó chỉ tập trung văn những văn bản hành chính pháp quy còn việc nghiên cứu công văn hành chính (CVHC) một loại hình văn bản hành chính thuộc loại văn bản hành chính phi pháp quy - với tư cách là đối tượng nghiên cứu của phân tích diễn ngôn vẫn chưa được quan tâm. Là một loại hình văn bản, ngôn ngữ trong CVHC có những đặc điểm của ngôn ngữ văn bản nói chung. Nhưng nó cũng có những đặc điểm khác biệt. Và việc nghiên cứu các CVHC dưới góc độ phân tích diễn ngôn còn chưa có vị trí thích đáng. Khi chúng tôi chọn đề tài Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính ngành giao thông (theo quan điểm phân tích diễn ngôn) với đối tượng nghiên cứu chính là các CVHC ngành giao thông, chúng tôi mong muốn góp phần làm sáng tỏ lý thuyết về phân tích diễn ngôn đồng thời góp phần làm phong phú thêm phần thực hành cho công tác soạn thảo văn bản hành chính. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn hướng vào việc khảo sát đặc trưng ngôn ngữ của các CVHC sử dụng trong ngành giao thông. Điều cần nhấn mạnh ở đây là luận văn không đi sâu vào phân tích các CVHC theo lĩnh vực quản lý hành chính mà phân tích theo địa hạt ngôn ngữ học. Nói cách khác, luận văn đặt các CVHC trên bình diện các diễn ngôn và phân tích chúng. Theo Brown & Yule (1983), thực chất của việc phân tích diễn ngôn là bao gồm việc phân tích ngữ pháp và phân tích ngữ nghĩa. Đồng thời, khi đặt quá trình phân tích đó trên cơ sở ngữ dụng, chúng tôi chú ý đến hiệu lực ngôn ngữ trong giao tiếp, gắn với vấn đề dụng học. Nói cách khác, nó liên quan đến người ban hành diễn ngôn, người tiếp nhận diễn ngôn, mục đích của diễn ngôn và những nhân tố tình huống khác. Như vậy, người tiến hành phân tích diễn ngôn phải xử lý tư liệu của mình vừa như là công cụ, vừa như là sản phẩm của một quá trình mà trong đó ngôn ngữ được sử dụng như một công cụ giao tiếp mang tính tình huống để thể hiện nghĩa và đạt được đích giao tiếp. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Tư liệu mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu trong luận văn này là 300 công văn hành chính của các cơ quan khác nhau: Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng giao thông 8, Ban Quản lý dự án đường Hồ Chí Minh, Ban Quản 2 lý dự án Thăng Long, Công ty cổ phần Thuỷ điện Zahưng, Sở Giao thông vận tải Điện Biên... 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ quan điểm trên, chúng tôi đặt cho luận văn những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu khung lý thuyết phân tích diễn ngôn phù hợp với đối tượng nghiên cứu là các CVHC sử dụng trong ngành giao thông. - Xác định đặc điểm của CVHC trong tương quan với các thể loại văn bản hành chính pháp quy khác. - Tập trung miêu tả các phương tiện từ vựng, cú pháp được sử dụng trong các CVHC nhằm phục vụ cho mạch lạc trong diễn ngôn. - Miêu tả cấu trúc hình thức của các CVHC với tư cách là diễn ngôn hành chính phi pháp quy. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Theo GS. Nguyễn Thiện Giáp trong công trình “Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ”, ngôn ngữ học có hai phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp miêu tả và phương pháp so sánh. Trong luận văn này, phương pháp nghiên cứu chính mà chúng tôi đã sử dụng là phương pháp miêu tả. Cụ thể chúng tôi đã sử dụng những thủ pháp chính sau: - Thủ pháp thống kê toán học: chúng tôi đã tiến hành thống kê các CVHC nhằm phân loại chúng, thống kê các loại hành vi ngôn ngữ được sử dụng trong các CVHC mà chúng tôi thu thập được trong ngành giao thông dựa trên những tiêu chí nhận diện mà chúng tôi đã đưa ra trong phần lý luận chung - Thủ pháp phân tích ngôn cảnh: dựa trên những tư liệu thống kê, chúng tôi tiến hành phân tích các CVHC đó dựa trên ngôn cảnh (một loại môi trường phi ngôn ngữ, trong đó ngôn ngữ được sử dụng). - Thủ pháp miêu tả chuẩn phong cách – một trong những thủ pháp xã hội học: dựa trên những tư liệu mà chúng tôi đã phân loại được, chúng tôi tiến hành miêu tả cụ thể những tư liệu đó xem chúng đã đúng với phong cách hành chính – công vụ chưa. 3 5. Dự kiến đóng góp Về mặt lý luận, kết quả của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận phân tích diễn ngôn. Đó là nghiên cứu ngôn ngữ không chỉ ở bình diện cấu trúc thuần tuý mà là trên bình diện giao tiếp. Hay nói cách khác, việc nghiên cứu ngôn ngữ gắn liền với việc nghiên cứu giao tiếp. Ngôn ngữ ở đây được sử dụng trong giao tiếp nói chung và trong giao tiếp hành chính nói riêng. Nếu như trước đây, nhiều nhà nghiên cứu chỉ nghiên cứu các văn bản hành chính dưới góc độ cấu trúc thì hiện nay một số nhà nghiên cứu đã bắt đầu đi vào nghiên cứu các văn bản hành chính dưới góc độ giao tiếp. Và để góp phần vào kết quả nghiên cứu về vấn đề này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu một số loại CVHC được sử dụng trong một ngành cụ thể - ngành giao thông - để góp phần làm sáng rõ một số vấn đề về phân tích diễn ngôn nói chung và lý thuyết giao tiếp nói riêng. Về phương diện thực tiễn, bên cạnh việc góp phần làm sáng tỏ lý thuyết phân tích diễn ngôn, kết quả của luận văn còn làm phong phú thêm phần thực hành cho công tác soạn thảo văn bản hành chính. Thông qua việc tìm hiểu các cấu trúc điển hình và các phương tiện chức năng biểu nghĩa của các CVHC, luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ đặc điểm của thể loại ngôn bản này. Từ đó, có tác dụng hướng dẫn công tác soạn thảo và xử lý chúng trong hoạt động hành chính của ngành giao thông nói riêng và trong hoạt động hành chính của xã hội nói chung. Nói cách khác, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào hai phương diện: soạn thảo văn bản một cách chuẩn mực và xử lý văn bản một cách có hiệu quả. 6. Bố cục của luận văn: Luận văn có 03 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần mở đầu: Phần này có nhiệm vụ giới thiệu về: lý do chọn đề tài, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, dự kiến đóng góp và bố cục của luận văn. Phần nội dung: Phần này được chia thành 03 chương. Trong Chương thứ nhất – Lý luận chung, chúng tôi đề cập đến những vấn đề lý luận chính về diễn ngôn và phân tích diễn ngôn; lý thuyết giao tiếp; lý thuyết hành vi ngôn ngữ; liên kết và mạch lạc và lý thuyết về lập luận. Trong Chương thứ hai – Phân tích đặc điểm cấu trúc của diễn ngôn CVHC ngành giao thông, chúng 4 tôi dựa trên những cơ sở lý luận đi vào phân tích các diễn ngôn CVHC ở bình diện hình thức, thống kê những đặc trưng định lượng về các loại CVHC, đưa ra mô hình cấu trúc hình thức chung của diễn ngôn CVHC, từ đó rút ra những cấu trúc điển hình của diễn ngôn CVHC ngành giao thông. Trong Chương thứ ba - Phân tích đặc điểm ngôn ngữ sử dung trong diễn ngôn CVHC ngành giao thông, chúng tôi đi vào miêu tả những phương thức liên kết về nội dung, những hành vi ngôn ngữ qua đó tìm hiểu lực ngôn trung trong các diễn ngôn CVHC; đồng thời chúng tôi đi vào miêu tả mạch lạc trong CVHC và phương thức lập luận sử dụng trong các loại công văn này với tư cách là một biểu hiện của tính mạch lạc. Phần kết luận: Phần này chúng tôi sẽ trình bày tóm tắt lại nội dung của luận văn, những luận điểm chính và những đóng góp cơ bản của luận văn trong việc nghiên cứu phân tích diễn ngôn, trong việc soạn thảo CVHC. 5 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG 1.1. Diễn ngôn và phân tích diễn ngôn 1.1.1. Diễn ngôn (DN) và phân tích diễn ngôn (PTDN). Có nhiều quan niệm khác nhau về DN và PTDN tuỳ theo các phương diện nghiên cứu khác nhau của các nhà nghiên cứu. Theo tác giả G. Cook, “DN là những chuỗi ngôn ngữ được nhận biết là trọn nghĩa, được hợp nhất lại và có mục đích” [dẫn theo 2; tr 20]. Tác giả D. Crystal lại định nghĩa “DN là một chuỗi nối tiếp của ngôn ngữ (đặc biệt là ngôn ngữ nói) lớn hơn một câu, thường cấu thành một chỉnh thể có tính mạch lạc, kiểu như một bài thuyết giáo có tính tranh luận, truyện vui hoặc truyện kể” [dẫn theo 2; tr 20] Trong bài “Ngôn ngữ học diễn ngôn” (1970) của mình, tác giả R. Barthes định nghĩa “chúng ta sẽ gọi cái khách thể của xuyên ngôn ngữ học là diễn ngôn – tương tự với văn bản do ngôn ngữ học nghiên cứu và chúng ta sẽ định nghĩa nó (hãy còn là sơ bộ) như là một đoạn lời nói hữu tận bất kỳ, tạo thành một thể thống nhất xét từ quan điểm nội dung, được truyền đạt cùng với những mục đích giao tiếp thứ cấp, và có một tổ chức nội tại phù hợp với những mục đích này, vả lại (đoạn lời này) gắn bó với những nhân tố văn hoá khác nữa, ngoài những nhân tố có quan hệ đến bản thân ngôn ngữ” [dẫn theo 2; tr 18-19] David Nunan [32] cho rằng DN như là một chuỗi ngôn ngữ gồm một số câu, những câu này được nhận biết là có liên quan theo một cách nào đó hay DN chỉ việc giải thuyết sự kiện giao tiếp trong ngữ cảnh và PTDN là nghiên cứu ngôn ngữ trong sử dụng. Ông viết “…Phân tích DN liên quan đến phân tích ngôn ngữ trong sử dụng - so sánh với phân tích các thuộc tính cấu trúc của ngôn ngữ bị tách khỏi các chức năng giao tiếp của chúng” [32]. Tác giả George Yule [4] cho rằng PTDN tập trung vào cái được ghi lại (nói và viết) của quá trình theo đó ngôn ngữ được dùng trong 6 một số ngữ cảnh để diễn đạt ý định và cùng với Brown [4], ông khẳng định PTDN nhất thiết là sự phân tích ngôn ngữ hành chức. Nhất thiết không giới hạn nó ở việc miêu tả các hình thức ngôn ngữ tách biệt với các mục đích hay chức năng mà các hình thức này sinh ra để đảm nhận trong xã hội loài người. Còn tác giả Diệp Quang Ban thì lại cho rằng DN là các sản phẩm của ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói có mạch lạc và liên kết... Ở đây chúng tôi không đi sâu vào trình bày quá trình phát triển theo thời gian về khái niệm DN và PTDN cũng như đi vào phân tích những góc độ nghiên cứu những khái niệm này, mà chúng tôi chỉ muốn trình bày một số khái niệm trên để có một cái nhìn tóm lược về những quan điểm về DN và PTDN. Tuy nhiên theo chúng tôi, quan điểm của tác giả Nguyễn Hoà [20] cho rằng DN là một sự kiện giao tiếp hoàn chỉnh thống nhất trong hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể là phù hợp với hướng nghiên cứu của chúng tôi về các diễn ngôn CVHC. Vì thế, trong luận văn, chúng tôi chấp nhận quan điểm này và lấy quan điểm này làm căn cứ để tiến hành phân tích các diễn ngôn CVHC ngành giao thông. DN không chỉ đơn thuần là những cấu trúc ngôn ngữ mà nó là tổng thể của ngôn ngữ (những đặc điểm của cấu trúc, phương tiện ngôn ngữ), người sử dụng ngôn ngữ (trình độ, nghề nghiệp, vốn kiến thức văn hoá, sự chi phối của quan hệ xã hội, hoàn cảnh, điều kiện sống...), hoàn cảnh giao tiếp xã hội (tình huống, kiến thức nền, văn hoá, mục đích phát ngôn)... Như vậy, PTDN là nghiên cứu, phân tích tính mạch lạc, những hành động nói sử dụng kiến thức nền trong quá trình tạo và hiểu diễn ngôn. 1.1.2. Những đặc tính của diễn ngôn và phân loại diễn ngôn. 1.1.2.1. Những đặc tính của diễn ngôn. Đặc tính cơ bản của DN là tính mạch lạc, tính giao tiếp, ký hiệu và tính quan yếu. a. Tính mạch lạc Mạch lạc được Nguyễn Thiện Giáp [16] coi là cái quyết định để một tác phẩm ngôn ngữ trở thành một DN. Như vậy, cơ sở của mạch lạc là những 7 cái gì quen thuộc, kiến thức văn hoá chung, kiến thức nền. Có thể hiểu một cách ngắn gọn rằng mạch lạc là mạch nối DN cho phép hiểu DN trong các hoàn cảnh giao tiếp xã hội. Mạch lạc không phải là các phương tiện liên kết hình thức của văn bản mà nó là một phần nội dung thực của văn bản. Nó được thể hiện qua những phương tiện ngôn ngữ và phương tiện ngoài ngôn ngữ (hình thức tổ chức văn bản, quan hệ nghĩa - lôgic giữa các từ ngữ trong văn bản, quan hệ giữa từ ngữ trong văn bản với cái được nói tới trong tình huống từ bên ngoài văn bản...) Mạch lạc còn thể hiện trong cấu trúc hay cách thức tổ chức các yếu tố quan yếu của DN theo một cách thức hay trình tự nhất định nào đó nhằm thể hiện những ý tứ tạo thành mục đích nói. Như vậy, có thể thấy tính cấu trúc của DN mang tính chủ quan của người viết. b. Tính giao tiếp và tính ký hiệu. Xuất phát từ quan điểm ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu được dùng làm công cụ giao tiếp, mà DN trước hết là sự kiện giao tiếp, tính giao tiếp và tính ký hiệu là những đặc tính không thể thiếu của DN. Tuy nhiên, DN là một đơn vị ngôn ngữ chứa hành động ngôn từ, do đó, tính giao tiếp và tính ký hiệu của nó còn có thêm phần ý nghĩa lời nói (ngữ nghĩa) và ý nghĩa dụng ngôn (ngữ dụng). Ý nghĩa lời nói được hiểu là nội dung biểu hiện hay nội dung mệnh đề, nó được thể hiện qua các tham thể và mối quan hệ giữa các tham thể. Nội dung mệnh đề thay đổi khi có sự thay đổi của một trong những yếu tố này. Xét về mặt nội dung biểu hiện, ý nghĩa của DN bao gồm ý nghĩa của ký hiệu từ ngữ trong ngữ cảnh văn hoá và ngữ cảnh tình huống trong việc tạo và hiểu lời. Nội dung dụng học là ý nghĩa rút ra từ ý định của người nói. Dụng học quan tâm đến lực ngôn trung của DN. Tính giao tiếp và tính ký hiệu của DN còn thể hiện ở sự tham gia vào hai quan hệ chủ yếu trong ngôn ngữ học. Đó là quan hệ hệ hình và quan hệ cú đoạn. Nó được phản ánh qua khả năng kết hợp và lựa chọn DN tuỳ theo tình 8 huống giao tiếp, chủ đề giao tiếp cũng như việc cấu tạo thành những đơn vị DN lớn hơn. c. Tính quan yếu Xét về hình thức, DN là một cấu trúc các yếu tố quan yếu tạo nên mạch lạc của DN. Theo tác giả Nguyễn Hoà [20], các yếu tố quan yếu là các đóng góp thể hiện tính giao tiếp của DN. Các yếu tố quan yếu có chức năng biểu hiện một sự thể bao gồm các tham thể, quá trình, mối quan hệ giữa các tham thể cũng như ý nghĩa dụng học kèm theo. Các yếu tố quan yếu tham gia vào DN với hình thức là những đơn vị từ ngữ. Những đơn vị từ ngữ lại bị quy định bởi hoàn cảnh giao tiếp xã hội, mục đích phát ngôn và thể loại DN. Với tư cách là một quá trình giao tiếp tương tác, nội dung của DN được tổng hợp từ nhiều phương diện, trong đó mạch lạc là yếu tố quan trọng nhất. Mạch lạc là sự hiện thực hoá của liên kết, cấu trúc, sự dung hợp giữa các hành động nói và tính quan yếu. Tính quan yếu của DN cũng chịu sự quy định của yếu tố văn hoá và những thông tin ngữ cảnh. 1.1.2.2. Phân loại DN. DN là sự kiện giao tiếp hoàn chỉnh trong những hoàn cảnh xã hội cụ thể. Như vậy, trong mỗi hoàn cảnh, chúng ta lại có một thể loại DN. Điều này cho thấy việc phân loại DN không phải là việc làm dễ dàng, có tính thuyết phục. Có nhiều quan điểm khác nhau về phân loại DN: dựa vào phương thức biểu đạt, chúng ta có DN nói và DN viết. Sự phân biệt này đã được nêu lên từ lâu và có tầm quan trọng nhất định đối với quan điểm sư phạm như dạy đọc, dạy viết, dạy nói. Một hướng phân loại khái quát khác là phân biệt DN đối thoại với DN đơn thoại. Cách phân loại này liên quan đến việc nghiên cứu ngôn ngữ trong sinh hoạt hằng ngày và cả ngôn ngữ trong văn học. Tuy nhiên theo tác giả Hausenblas [dẫn theo 2] thì muốn có sự phân loại có hệ thống và thoả đáng thì phải cần đến sự hợp tác của cả hai bộ phận cùng quan tâm đến việc miêu tả ngôn ngữ. Đó là ngữ pháp và phong cách học. Từ đó, tác giả đưa ra các cách phân loại DN như sau: 9 a) Phân loại DN theo cấu trúc * Về khuôn hình văn bản: Do tính chất quá phức tạp của DN và tính quá đa dạng của các DN cụ thể, cho nên để khái quát được người ta chỉ có thể chia tất cả các DN thành hai nhóm lớn: - Thuộc nhóm thứ nhất là các diễn ngôn xây dựng theo những khuôn hình cứng nhắc, đã được định sẵn: các văn bản thuộc phong cách hành chính công vụ và một số văn bản pháp lý thuộc lĩnh vực khoa học - kỹ thuật - Thuộc nhóm thứ hai là các diễn ngôn xây dựng theo những khuôn hình mềm dẻo, bao gồm: + Nhóm nhỏ có những khuôn hình thông dụng: các văn bản khoa học (bài báo, luận án khoa học) và một số văn bản báo chí + Nhóm nhỏ có khuôn hình tự do: các tác phẩm văn chương... * Phân loại DN theo cấu trúc nội tại: Dựa vào những tiêu chuẩn: tính đơn giản/tính phức tạp trong cấu trúc văn bản của DN, tính độc lập/ tính lệ thuộc của các DN, tính liên tục/ tính gián đoạn của các diễn ngôn, ông tiến hành phân loại các DN: - Các DN có độ phức tạp khác nhau trong cấu trúc - Các DN tự do và các DN lệ thuộc - DN liên tục và DN gián đoạn b) Phân loại DN trong phong cách học Một lĩnh vực chú ý nhiều đến sự khác biệt trong các kiểu loại DN khác nhau là phong cách học nhất là phong cách chức năng. * Tác giả Morohovski đã đưa ra bản phân loại diễn ngôn với các tiêu chí sau: Trước hết, tác giả phân định phong cách học thành ba bậc lớn từ đó đưa ra các loại hình diễn ngôn cụ thể: - Phong cách học ngôn ngữ: có 2 kiểu lớn: + Ngôn ngữ phi nghệ thuật + Ngôn ngữ nghệ thuật 10 - Phong cách học hoạt động lời nói: hoạt động lời nói được xem xét trong các khu vực ít nhiều có tính chất chuyên môn trong đời sống xã hội và nhờ đó đưa ra 5 phong cách chức năng: + Chính thức – công vụ + Khoa học + Công luận + Hội thoại văn học + Hội thoại đời thường - Phong các học lời nói: có sự phân định các lớp văn bản từ chung đến riêng theo trình tự sau: + Phong cách chính thức công vụ có các kiểu loại văn bản: chỉ đạo, pháp lý, quân sự, ngoại giao, thương mại, kinh tế + Phong cách khoa học: khoa học xã hội, khoa học kĩ thuật + Phong cách công luận: chính trị, kinh tế, luật, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo * Theo tác giả Hữu Đạt [13], tiếng Việt có 6 phong cách chức năng khác nhau, đó là phong cách sinh hoạt hằng ngày, phong cách hành chính công vụ, phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong cách báo chí và phong cách văn học nghệ thuật. Mỗi loại phong cách có các thể loại DN khác nhau... * Tuy nhiên, cách phân loại dựa vào trường DN, tính chất DN và cách thức DN được quan tâm hơn cả vì tính hợp lý của nó. Hay nói cách khác là dựa vào chủ đề được đề cập, nội dung mệnh đề, mối quan hệ giữa các cá nhân tham gia (bao gồm cả ý nghĩa dụng học) và phương tiện thể hiện ngôn ngữ (nói hoặc viết), người ta phân chia thành các ngữ vực, tiếp đó trong các ngữ vực, có những thể loại DN cụ thể. Chẳng hạn, trong ngữ vực báo chí, có các thể loại DN như: tin, bình luận, tin vắn, phóng sự, ký...Trong ngữ vực văn chương, có các thể loại DN như: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ lục bát, thơ văn xuôi, cổ tích, truyền thuyết...Trong hội thoại hàng ngày, có các thể loại DN như: hội thoại, phiếm đàm, tâm sự, chào hỏi, phóng vấn... 11 1.2. Khái quát về lý thuyết giao tiếp ngôn ngữ Việc nghiên cứu về giao tiếp đã được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm từ khoảng giữa thể kỷ XX. Một số nhà nghiên cứu như Shannon khi nghiên cứu về mô hình truyền thông nói chung cũng đã đưa ra mô hình về hoạt động giao tiếp. Nhưng đó chỉ là mô hình hoạt động giao tiếp diễn ra trên truyền thông và mạng điện báo chứ không phải là hoạt động giao tiếp của con người. Mãi đến năm 1960, trong công trình nghiên cứu "Ngôn ngữ và thi ca" (Linguistics and poetics) của mình, R. Jacobson - được coi là người đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối đầy đủ quá trình giao tiếp của con người - đã đưa ra mô hình hoạt động giao tiếp. Theo mô hình đó, hoạt động giao tiếp của con người chịu sự chi phối của 6 nhân tố. Đó là người phát, người nhận, thông điệp, ngữ cảnh, tiếp xúc và mã ngôn ngữ. Mô hình giao tiếp đó như sau: Ngữ cảnh Người phát-----------Thông điệp-----------Người nhận Tiếp xúc Mã Mô hình này của Jacobson được coi là mô hình cổ điển về giao tiếp bởi nó đã thể hiện khá đầy đủ các nhân tố của hoạt động giao tiếp. Và hoạt đông giao tiếp ở đây được hiểu theo một nghĩa rộng, đó là tất cả các dạng của quá trình trao đổi thông tin giữa con người với nhau. Mô hình này đã được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ sau này kế thừa và phát triển theo nhiều cách khác nhau như Halliday (1973), Leech (1974)... Theo tác giả Đỗ Hữu Châu [7], hoạt động giao tiếp luôn bị chi phối bởi các nhân tố giao tiếp tham gia vào hoạt động giao tiếp đó. Nhân tố đầu tiên là nhân vật giao tiếp gồm người phát và người nhận. Khi phát ra một thông điệp nào đó, người phát luôn phải lựa chọn nội dung và cách thức để thể hiện thông điệp đó. Hơn nữa, trong quá trình giao tiếp, người phát chỉ có một người nhưng người nhận có thể là một nhưng cũng có thể là nhiều người. Chính điều này cũng quy định hình thức và nội dung thông điệp. 12 Trong trường hợp người nhận là số đông thì người phát phải phân biệt được người nhận đích thực và người nhận nói chung. Như vậy, thông điệp bị quy định bởi cả hai chiều: người phát và người nhận. Nhân tố thứ hai là thực tế được nói tới hay nội dung giao tiếp. Về bản chất, đây là những nhận thức chủ quan của người phát về hiện thực được đưa vào nội dung thông điệp để truyền đạt cho người nhận nhằm đạt một mục đích giao tiếp nào đó. Do đó, người nhận có quyền nhận hay từ chối tiếp nhận những nội dung của thông điệp đó. Vì vậy, trước khi phát đi thông điệp của mình, người phát không thể không tính đến khả năng này ở người nhận để quyết định lựa chọn nội dung và hình thức của thông điệp định truyền đi. Nhân tố thứ ba là hoàn cảnh giao tiếp. Hiểu theo nghĩa rộng, hoàn cảnh giao tiếp bao gồm hoàn cảnh tự nhiên xã hội, lịch sử văn hoá của cộng đồng quốc gia mà các nhân vật giao tiếp đang có mặt. Hoàn cảnh này chi phối cả nội dung và hình thức của thông điệp. Tuy nhiên, chúng không trực tiếp tham gia vào giao tiếp mà chỉ tham gia gián tiếp dưới dạng những hiểu biết, những kinh nghiệm tiềm ẩn trong tư duy người phát và người nhận trước khi cuộc giao tiếp diễn ra. Chúng được gọi là các tiền giả định giao tiếp. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, hoàn cảnh giao tiếp chỉ nơi chốn cụ thể diễn ra hoạt động giao tiếp. Nó được gọi là môi trường giao tiếp, ảnh hưởng không nhỏ đến nội dung và hình thức của thông điệp và hiệu quả của cuộc giao tiếp. Tập hợp ba yếu tố trên được gọi là ngữ cảnh. Đây chính là ngữ cảnh mà Nunan [32] gọi là ngữ cảnh ngoài ngôn ngữ. Khái niệm ngữ cảnh được hiểu là một tập hợp của nhiều yếu tố và khá phức tạp, được tính từ khi cuộc giao tiếp diễn ra. Vì vậy, có thể thấy, trong một cuộc giao tiếp, ngữ cảnh không phải là bất biến mà trái lại nó luôn vận động. Sự vận động của ngữ cảnh và sự tương ứng của nó trong từng thời điểm giao tiếp được gọi là tình huống giao tiếp. Nhân tố thứ tư là hệ thống tín hiệu được sử dụng trong giao tiếp. Đó có thể là ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ viết, các yếu tố kèm ngôn ngữ như: ánh mắt, giọng điệu...hoặc các tín hiệu phi ngôn ngữ. Đối với các nhân vật tham gia giao 13 tiếp, mỗi loại tín hiệu sẽ có hiệu quả và chất lượng giao tiếp khác nhau. Nhân tố cuối cùng là đích của hoạt động giao tiếp. Khi phát ra một thông điệp, bao giờ người phát cũng hướng đến một mục đích nhất định. Đó là đích của hoạt động giao tiếp. Đích này được thể hiện ở hai loại mục đích của thông điệp: đích nhận thức và đích tác động. Mục đích nhận thức của thông điệp là làm cho người nhận sau khi tiếp nhận nội dung của thông điệp sẽ có cùng nhận thức với người phát. Mục đích tác động của thông điệp là mục đích làm cho người tiếp nhận phải có những biến đổi nhất định trong trạng thái tâm lý, tình cảm từ đó có hành động phù hợp với mong muốn của người phát. Hai loại mục đích này luôn tương tác, hỗ trợ cho nhau, cái này là chỗ dựa cho cái kia. Trước đây, ngôn ngữ học có một hạn chế rất lớn là chưa phát hiện ra bản chất của quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ. Chỉ đến khi ngữ dụng học ra đời, giao tiếp ngôn ngữ mới được quan tâm như là địa hạt thể hiện và thực thi các hành vi ngôn ngữ của các nhân vật giao tiếp. Theo đó, nói năng là một loại hành động thực hiện bằng ngôn từ. Như vậy, giao tiếp ngôn ngữ thực chất là sự trao đổi hành động bằng ngôn từ và lý thuyết ngôn giao thực chất là lý thuyết của ngữ dụng học mà nòng cốt của nó là lý thuyết hành vi ngôn ngữ (các đại diện là Austin, Searle). Trọng tâm nghiên cứu của lý thuyết ngôn giao là nghiên cứu ngôn ngữ ở dạng hành chức, trong mối quan hệ với người sử dụng nó, với hiện thực được nói tới, với hoàn cảnh giao tiếp trong đó sự giao tiếp đang diễn ra. 1.3. Sơ lƣợc về lý thuyết hành vi ngôn ngữ 1.3.1. Hành vi ngôn ngữ là gì? Lý thuyết hành vi ngôn ngữ hay hành động ngôn từ mà người đầu tiên đi tiên phong là Austin [8], người kế thừa và phát triển là Searle (và các tác giả sau này) đã chỉ ra bản chất hành động của lời nói: Khi ta nói là ta đã thực hiện một hành vi ngôn ngữ. Theo Austin có ba loại hành vi ngôn ngữ: hành vi tạo lời, hành vi tại lời và hành vi mượn lời. Hành vi tạo lời: là hành vi sử dụng các yếu của ngôn ngữ như: âm, từ, 14 các kiểu kết hợp từ thành câu...để tạo ra một phát ngôn về hình thức và nội dung. Một bộ phận của hành vi tạo lời đã là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ tiền dụng học Hành vi tại lời: là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận. Ví dụ về hành vi tại lời: hỏi, yêu cầu, ra lệnh, mời, hứa hẹn, khuyên bảo...Khi chúng ta hỏi một ai về điều gì đó thì người được hỏi có nhiệm vụ phải trả lời chúng ta dù trả lời là không biết. Không trả lời, không đáp lại người nghe vị xem là không lịch sự. Hành vi tại lời có ý định quy ước và có thể chế dù rằng quy ước và thể chế của chúng không hiển ngôn mà quy tắc vận hành chúng được mọi người trong cộng đồng ngôn ngữ tuân theo một cách không tự giác. Có thể nói, nắm được ngôn ngữ, không chỉ có nghĩa là nắm được ngữ âm, từ ngữ, câu...của ngôn ngữ đó mà còn là nắm được những quy tắc để điều khiển các hành vi tại lời ở ngôn ngữ đó, nghĩa là biết các quy tắc để “hỏi”, “hứa hẹn”, “mời”...sao cho đúng lúc, đúng chỗ, thích hợp với ngữ cảnh và với người được hỏi. Hành vi mượn lời: là những hành vi mượn phương tiện ngôn ngữ, nói đúng hơn là mượn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở người nghe, người nhận hoặc ở chính nguời nói. Chức năng hành động của giao tiếp được thực hiện nhờ các hiệu quả mượn lời của phát ngôn. Có những hiệu quả mượn lời là đích ở lời của một hành vi ở lời nhưng có những hiệu quả không thuộc đích của hành vi ở lời. Những hiệu quả mượn lời thường rất phân tán và không thể tính toán được. Trong dụng học, người ta thiên về tập trung nghiên cứu hành vi thứ hai, tức là hành vi tại lời.Do vậy, khi nói đến hành vi ngôn ngữ là hành vi tại lời: Một hành vi ngôn ngữ được tạo ra khi người nói trao một phát ngôn cho người nghe trong một ngữ cảnh nhất định. Mỗi hành vi ngôn ngữ đều chuyển tải một lực tại lời gọi là lực ngôn trung. 15 1.3.2. Phân loại hành vi ngôn ngữ Có hai hướng để phân loại hành vi ngôn ngữ. 1.3.2.1. Phân loại hành vi ngôn ngữ theo Austin (1962) Theo Austin [8], các hành vi ngôn ngữ được chia thành 05 nhóm là: <1> Phán định: đây là những hành vi đưa ra những lời phán xét về một sự kiện hay một giá trí dựa trên những chứng cớ hiển nhiên hoặc dựa vào lí lẽ vững chắc như: xem là, tính toán,... <2> Hành sử: đây là những hành vi đưa ra những quyết định thuận lợi hay chống lại một chuỗi hành động nào đó: ra lệnh, khẩn cầu, đặt hàng... <3> Cam kết: đây là những hành vi ràng buộc người nói vào một chuỗi những hành động nhất định: hứa hẹn, giao ước, thề nguyền... <4> Trình bày: đây là những hành vi được dùng để trình bày quan điểm, dẫn dắt lập luận, giải thích cách dùng các từ như khẳng định, phủ định, trả lời, nhượng bộ... <5> Ứng xử: đây là những hành vi phản ứng với cách cư xử của người khác, đối với sự kiện có liên quan, chúng cũng là cách biểu hiện thái độ đối với hành vi hay số phận người khác: xin lỗi, cám ơn, khen ngợi, chống lại, thách thức, nghi ngờ... 1.3.2.1. Phân loại hành vi ngôn ngữ theo Searle Searle chính là người đầu tiên chỉ ra hạn chế của bảng phân loại hành vi ngôn ngữ của Austin. Theo Searle, có 12 điểm khác biệt giữa các hành vi ngôn ngữ được dùng làm tiêu chí phân loại như sau: đích tại lời; hướng khớp lời với hiện thực mà lời đề cập đến; trạng thái tâm lý được thể hiện; sức mạnh mà đích được trình bày ra; tính quan yếu của mối quan liên hệ cá nhân giữa người nói và người nghe; định hướng; câu hỏi và trả lời; nội dung mệnh đề;...Tuy nhiên, Searle chỉ dùng bốn trong số 12 tiêu chí để phân loại các hành vi ngôn ngữ. Đó là các tiêu chí: đích tại lời, hướng khớp ghép, trạng thái tâm lý, nội dung mệnh đề. Dựa trên các tiêu chí đó, Searle [8] phân lập được năm loại hành vi tại lời. Đó là các hành vi: Tái hiện hay xác tín; điều khiển; cam kết; biểu cảm và tuyên bố 16 Mặc dù trong bảng phân loại của Austin còn nhiều điều không thoả đáng: có chỗ còn chồng chéo, có chỗ mơ hồ, nhưng cho đến nay, những quan niệm của Austin cũng như lý thuyết hành vi ngôn ngữ và bảng phân loại của ông vẫn được các nhà nghiên cứu coi trọng và xem là kim chỉ nam cho các nghiên cứu về ngữ dụng học. 1.4. Khái lƣợc về lý thuyết lập luận 1.4.1. Lập luận là gì? Trước đây, lập luận (arguementation) được nghiên cứu trong tu từ học và trong lôgic học. Theo các hiểu của lôgic học, “lập luận là là một hoạt động ngôn từ. Bằng công cụ ngôn ngữ, người nói đưa ra những lý lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một hệ thống xác tín nào đó: rút ra một (/một số) kết luận hay chấp nhận một (/một số) kết luận nào đó.” [10; tr 165] Như vậy, một lập luận bao giờ cũng gồm 3 thành tố lôgic: tiền đề (luận cứ), kết đề và lí lẽ. Tiền đề là một hoặc nhiều dữ kiện xuất hiện làm căn cứ cho lập luận, từ đó suy ra kết đề. Kết đề là một khẳng định đích hay là một khẳng định mục tiêu. Lí lẽ (còn gọi là luật suy diễn hay luận chứng) là những yếu tố mà nhờ đó từ tiền đề chúng ta suy ra kết đề. Những yếu tố này có thể là những nguyên lí, quy luật tự nhiên, những định lí, định luật, quy tắc trong các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật, và cũng có thể là những lí lẽ trong lôgic đời thường. Ví dụ “ - Đã 7 giờ tối rồi. Họ không lên nữa đâu - Căn cứ vào đâu mà cậu nói như vậy? - Chiều mai họ bay ra Hà Nội rồi. Không ai từ Sài Gòn lên Đà Lạt thăm bạn bè vài tiếng để rồi vội vã quay về thành phố cả” Trong đoạn trên, tiền đề là “Đã 7 giờ tối rồi”, kết đề là “Họ không lên nữa đâu”. Lí lẽ là “Không ai từ Sài Gòn lên Đà Lạt thăm bạn bè vài tiếng để rồi vội vã quay về thành phố cả”. Đây là lí lẽ trong lôgic đời thường. Quan điểm về lập luận nêu trên là quan điểm về lập luận trong lôgic 17 học. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ muốn tìm hiểu bản chất ngữ dụng học của lập luận. Từ đó, áp dụng nó vào nghiên cứu các lập luận trong CVHC. Theo Đỗ Hữu Châu, “lập luận là đưa ra các lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn đạt tới.” [8; tr 155]. Có thể biểu diễn quan hệ lập luận giữa các phát ngôn (nói đúng hơn là giữa nội dung các phát ngôn) như sau: p --> r Trong đó, p là lí lẽ, r là kết luận. Trong quan hệ lập luận, lí lẽ được gọi là luận cứ. Vậy có thể nói quan hệ lập luận là quan hệ giữa luận cứ với kết luận. Và các luận cứ có thể là một thông tin miêu tả hay một định luật, một nguyên lí xử thế. Ví dụ: Cái áo này rẻ mà lại đẹp, nên mua p ở đây là 2 thông tin miêu tả: cái áo này đẹp (p1), cái áo này rẻ (p2). r ở đây là “nên mua” Như vậy, từ hai luận cứ p1 và p2, người nói đã đưa ra kết luận r. Có thể biểu diễn lập luận này như sau: p1 r p2 Theo tác giả Đỗ Hữu Châu [8], xét về bản chất ngữ dụng, lập luận là một hành động ở lời. Lý do là vì hành vi lập luận cũng làm thay đổi tư cách pháp nhân của những người tham gia lập luận. Điều này được thể hiện ở chỗ: khi đưa ra một lập luận, người lập luận phải tin vào và chịu trách nhiệm về những luận cứ và kết luận mà mình đưa ra. Đối với người tiếp nhận, thì sự thay đổi về tư cách pháp nhân thể hiện ở chỗ người này đang ở trạng thái vô can chuyển sang trạng thái chờ đợi lập luận, tức là chờ đợi hoặc kết luận hoặc luận cứ. Trong luận văn này, chúng tôi dựa theo quan điểm về lập luận của Đỗ Hữu Châu để đi vào phân tích lập luận trong diễn ngôn CVHC ngành giao thông. 18 1.4.2. Một số khái niệm trong lập luận a) Kết tử lập luận: Kết tử lập luận là những yếu tố phối hợp hai hay một phát ngôn riêng rẽ thành một lập luận duy nhất. Nói cách khác, chính kết tử lập luận đã biến các phát ngôn thành luận cứ hoặc kết luận trong một lập luận nào đó. Ví dụ: từ các phát ngôn riêng lẻ: - Trời đẹp - Tôi bận học - Tôi không thể đi chơi được Từ những phát ngôn đó, nếu chúng ta thêm những kết tử lập luận thì chúng ta sẽ có được một lập luận hoàn chỉnh. Trời đẹp nhưng tôi bận học nên tôi không thể đi chơi được. ở phát ngôn này, kết luận là: Tôi không thể đi chơi được Hai luận cứ là: Trời đẹp Tôi bận học Các kết tử lập luận là: nhưng, nên b) Tác tử lập luận: Tác tử lập luận là những yếu tố mà khi đưa vào phát ngôn nào đó sẽ làm thay đổi tiềm năng lập luận mà không làm thay đổi thông tin miêu tả của phát ngôn. Ví dụ : (1) Cái áo này mới (miêu tả) (2) Cái áo này mà mới (đã xuất hiện thái độ của người nói) Trong ví dụ (2) ta thấy sự đánh giá của người nói: cái áo đấy không mới và hướng về kết luận: chê áo đấy cũ. Trong tiếng Việt, những tác tử lập luận thường là những phụ từ: đã, rồi, mà, cứ, thôi... Có những loại tác tử lập luận sau: - Tác tử về thời gian Ví dụ: Mới hai giờ thôi (hãy còn sớm) Đã hai giờ rồi à? (muộn quá rồi) 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan