Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng...

Tài liệu Công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng

.PDF
125
228
115

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THU HỒNG CÔNG CHỨNG CÁC VĂN BẢN LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THU HỒNG CÔNG CHỨNG CÁC VĂN BẢN LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn HÀ NỘI - 2012 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU Chương 1: 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CHỨNG VÀ 7 VIỆC CÔNG CHỨNG CÁC VĂN BẢN LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ, CHỒNG 1.1. Công chứng 7 1.1.1. Khái niệm công chứng 7 1.1.2. Công chứng viên 9 1.1.2.1. Công chứng viên 9 1.1.2.2. Vai trò của công chứng viên trong việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch 11 1.1.3. Văn bản công chứng 14 1.1.3.1. Khái niệm 14 1.1.3.2. Đặc điểm của văn bản công chứng 15 1.1.3.3. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng 18 1.2. Pháp luật Việt Nam về chế độ tài sản của vợ, chồng và việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng qua các giai đoạn 25 1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến năm 1954 25 1.2.2. Giai đoạn từ 1954 đến năm 1975 26 1.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến năm 2000 27 1.2.4. Giai đoạn từ 2000 đến nay 31 3 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP 34 DỤNG TRONG VIỆC CÔNG CHỨNG CÁC VĂN BẢN LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ, CHỒNG 2.1. Một số quy định chung về công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng 34 2.1.1. Thủ tục chung về công chứng hợp đồng, giao dịch 34 2.1.1.1. Công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn 34 2.1.1.2. Công chứng hợp đồng, giao dịch do công chứng viên soạn thảo theo đề nghị của người yêu cầu công chứng 36 2.1.2. Thời hạn và địa điểm công chứng 37 2.1.2.1. Thời hạn công chứng 37 2.1.2.2. Địa điểm công chứng 38 2.1.3. Tiếng nói, chữ viết và việc ghi trang, tờ trong văn bản công chứng 39 2.1.4. Sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng 40 2.1.5. Công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ giao dịch 40 2.1.6. Người được đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu 41 2.2. Thủ tục công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng 41 2.2.1. Tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng 42 2.2.1.1. Yêu cầu về kiến thức pháp luật 42 2.2.1.2. Yêu cầu về kỹ năng 51 Soạn thảo các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng hoặc kiểm tra nội dung dự thảo văn bản 77 2.2.2.1. Soạn thảo các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng theo đề nghị của người yêu cầu công chứng 77 2.2.2.2. Kiểm tra dự thảo văn bản liên quan đến tài sản của vợ, 86 2.2.2. 4 chồng do vợ chồng xuất trình 2.2.3. Ký kết và công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng 87 2.2.4. Lưu trữ hồ sơ 91 Chương 3: 93 HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG CÁC VĂN BẢN LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ, CHỒNG THEO YÊU CẦU XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng 93 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng theo yêu cầu xã hội hóa hoạt động công chứng 95 3.2.1. Sửa đổi, bổ sung pháp luật về công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng 95 3.2.2. Sửa đổi, bổ sung pháp luật hôn nhân và gia đình có liên quan đến việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng 107 KẾT LUẬN 114 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116 5 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Bên cạnh việc ghi nhận vợ, chồng có quyền sở hữu tài sản chung, pháp luật Việt Nam hiện hành còn ghi nhận quyền sở hữu tài sản riêng của mỗi người. Một trong những cách thức mà vợ, chồng có thể thực hiện khi định đoạt tài sản chung hoặc tài sản riêng là yêu cầu công chứng các văn bản thỏa thuận liên quan đến tài sản của vợ, chồng. Theo quy định tại Điều 6 Luật Công chứng năm 2006 thì: 1. Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác; 2. Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết sự, kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu [42]. Do vậy, các văn bản thỏa thuận về tài sản của vợ, chồng được công chứng là căn cứ pháp lý để vợ, chồng tiến hành việc sang tên trước bạ (đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng) và thực hiện quyền của chủ sở hữu, sử dụng đối với tài sản. Sở dĩ văn bản công chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành bởi "Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tình hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng" [42 Điều 2]. Hơn nữa, khi chứng nhận các hợp đồng, giao dịch, cá nhân công chứng viên phải "chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng" [42, khoản 3 Điều 3]. 6 Do vậy, để bảo đảm tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch; bảo đảm giá trị thi hành, giá trị chứng cứ của các văn bản công chứng đòi hỏi công chứng viên phải có kiến thức pháp luật chuyên sâu về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, đất đai…, đồng thời phải có những kỹ năng nghề nghiệp nhất định khi thực hiện việc công chứng. Nhìn bề ngoài, hoạt động công chứng là hoạt động mang tính thủ tục, hình thức, nhưng để giải quyết được các việc công chứng thì công chứng viên phải hoàn toàn dựa trên các quy định của pháp luật nội dung. Đối với việc chứng nhận các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng, công chứng viên phải hiểu biết tường tận và vận dụng tốt các quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng, đồng thời phải vận dụng tốt các kỹ năng nghề nghiệp, tuân thủ đúng trình tự, thủ tục công chứng được quy định trong Luật Công chứng và các văn bản pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng ở nước ta thời gian qua đã có nhiều quan điểm, nhận thức đánh giá khác nhau giữa các tổ chức hành nghề công chứng, giữa các công chứng viên; và đến nay cũng chưa có sự hướng dẫn thống nhất từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều đó dẫn đến tình trạng cùng một vụ việc, có công chứng viên từ chối công chứng nhưng có thể lại có công chứng viên khác thực hiện việc chứng nhận. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này về lĩnh vực công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng còn chưa đầy đủ, chưa cụ thể, chưa theo kịp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu sâu và toàn diện về công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng. Thực tiễn đòi hỏi phải làm sáng tỏ hơn căn cứ để công chứng 7 viên thực hiện việc chứng nhận các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng; đồng thời thực tiễn cũng đặt ra yêu cầu phải có sự phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng và thực trạng áp dụng các quy định này, từ đó đưa ra được giải pháp khắc phục những bất cập, thiếu sót và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng theo chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng" có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam đến nay, tuy đã có những công trình liên quan đến đề tài luận văn nhưng hầu hết tập trung nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng dưới các khía cạnh khác nhau, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng. Có thể kể đến một số công trình như: Công trình khoa học đề tài cấp Viện (Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp) với "Bình luận Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000"; TS. Nguyễn Ngọc Điện với "Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam"; Nguyễn Văn Cừ với đề tài luận án tiến sĩ năm 2005 "Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam" (Trường Đại học Luật Hà Nội); Trần Đức Hoài với đề tài luận văn thạc sĩ năm 2006 "Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình trong hoạt động sản xuất kinh doanh" (Trường Đại học Luật Hà Nội); Đinh Hạnh Nga với đề tài luận văn thạc sĩ "Ảnh hưởng của Nho giáo đến các quy định pháp luật Việt Nam về mối quan hệ giữa vợ và chồng" (Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội)… Ngoài ra, còn một số bài viết đăng trên Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Nhà nước và pháp luật... nghiên cứu, đề xuất kiến nghị một số vấn đề liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng như: "Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân" của Nguyễn Phương Lan, Tạp chí Luật học, số 6/2002; "Bàn thêm 8 về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành" của ThS Bùi Minh Hồng, Tạp chí Luật học, số 5/2003; "Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng liên hệ từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật Việt Nam" của ThS Bùi Minh Hồng - Khoa Luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội, Tạp chí Luật học, số 11 (114) năm 2009… Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng, vấn đề công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ nội dung các quy định của pháp luật về công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng, thực tiễn thực hiện việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng, từ đó đánh giá, đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng theo chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra trong giai đoạn hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu Theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành thì có nhiều văn bản có liên quan đến tài sản của vợ, chồng. Tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật trên gồm: - Công chứng văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân; 9 - Công chứng văn bản khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng; - Công chứng văn bản nhập tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung. Ngoài ra, đề tài cũng đề cập đến hai loại văn bản phát sinh trong thực tiễn hành nghề công chứng có liên quan đến tài sản của vợ, chồng được phần lớn công chứng viên thực hiện việc chứng nhận là: văn bản xác nhận tài sản riêng của vợ hoặc chồng và văn bản chia tài sản chung sau khi có bản án hoặc quyết định công nhận thuận tình ly hôn đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa hoạt động công chứng. Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp khảo sát thực tiễn, phỏng vấn chuyên gia… 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng. - Luận văn đã phân tích, làm rõ quy trình công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng; chỉ ra và phân tích các yếu tố quy định và chi phối việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng thể hiện trong các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, chỉ ra những điểm tiến bộ so với các quy định trước đây và những điểm còn bất cập. Luận văn cũng đưa ra những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng thực hiện việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản vợ, chồng trong thực tiễn hoạt động công chứng. 10 - Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra được những kiến nghị cụ thể về hoàn thiện pháp luật công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng cũng như các kỹ năng cần thiết bảo đảm cho công chứng viên thực hiện tốt hơn vai trò là "thẩm phán phòng ngừa" của mình. Do vậy, những kiến nghị luận văn đưa ra có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với hoạt động công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng. 6. Ý nghĩa của luận văn Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật, góp phần nâng cao hoạt động công chứng của các tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập cho các học viên các lớp đào tạo nghiệp vụ công chứng, môn học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Luận văn cũng được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các công chứng viên khi thực hiện việc chứng nhận các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng. Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng trong việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng theo yêu cầu xã hội hóa hoạt động công chứng. 11 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CHỨNG VÀ VIỆC CÔNG CHỨNG CÁC VĂN BẢN LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ, CHỒNG 1.1. CÔNG CHỨNG 1.1.1. Khái niệm công chứng Công chứng là một hoạt động có liên quan đến quyền lực nhà nước. Khái niệm công chứng ở nước ta lần đầu tiên được đề cập đến trong Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công tác công chứng của nhà nước (dưới đây gọi là Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987), theo đó "Công chứng nhà nước là một hoạt động của Nhà nước, nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện" [6]. Từ khái niệm trên cho thấy công chứng nhà nước là một hoạt động chỉ do các cơ quan nhà nước thực hiện. Theo Công văn số 554/CV-CC ngày 10/7/1989 của Bộ Tư pháp về việc bổ sung một số điểm trong việc triển khai thực hiện Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 và Thông tư số 858/QLTP ngày 15/10/1987 thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện công chứng nhà nước là Phòng công chứng nhà nước và Ủy ban nhân dân tỉnh (nơi chưa có Phòng công chứng nhà nước) (mục II.2 "Về thẩm quyền thực hiện các việc làm Công chứng nhà nước"). Khái niệm trên cũng chỉ rõ phạm vi công chứng nhà nước bao gồm việc lập và xác nhận các văn bản, sự kiện pháp lý theo yêu cầu của công dân, cơ quan, tổ chức và sau khi công chứng viên chứng nhận, các văn bản, sự kiện đó có giá trị pháp lý được "hợp pháp hóa" và "có hiệu lực thực hiện". Theo Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi là Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991) thì: 12 Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và các giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [10]. Từ khái niệm này cho thấy công chứng vẫn là hoạt động đặc thù chỉ do nhà nước thực hiện, nhưng phạm vi công chứng đã thu hẹp lại, chỉ là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và các giấy tờ theo quy định của pháp luật. Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (dưới đây gọi là Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996) đưa ra khái niệm công chứng như sau: Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và các giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [11]. Như vậy, Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 đưa ra khái niệm "công chứng" thay vì "công chứng nhà nước" như quy định tại các văn bản pháp luật đã đề cập trước đó. Ngoại trừ điểm khác biệt đó, nội dung khái niệm "công chứng" cũng tương tự như khái niệm "công chứng nhà nước" được nêu trong Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991. Đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 18/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực (sau đây gọi là Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 18/12/2000) thì khái niệm "công chứng" được ghi nhận tại khoản 1 Điều 2, theo đó: Công chứng là việc Phòng Công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập 13 trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và các quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này [13]. Như vậy, từ những văn bản đầu tiên cho đến trước khi Luật Công chứng ra đời, khái niệm công chứng luôn gắn liền với hoạt động của nhà nước, các hoạt động công chứng đều do các Phòng công chứng nhà nước thực hiện và công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các văn bản được xác lập. Luật Công chứng được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực từ ngày 01/7/2007 đã đưa ra khái niệm về công chứng với nhiều điểm mới, theo đó: "Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng" [42, Điều 2]. Như vậy, Luật Công chứng với khái niệm nêu trên đã khẳng định chủ thể thực hiện hành vi công chứng là công chứng viên chứ không phải là Phòng công chứng như ghi nhận tại các văn bản quy phạm pháp luật trước đó. Công chứng viên là chủ thể thực hiện việc "chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch" và việc chứng nhận đó được thực hiện theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu tự nguyện của tổ chức cá nhân. 1.1.2. Công chứng viên 1.1.2.1. Công chứng viên Xuất phát từ việc công chứng là một hoạt động góp phần phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, các văn bản pháp luật trước đây đều có những quy định mang tính chất "chuẩn hóa" đối với chức danh công chứng viên như: công chứng viên phải là người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; đã tốt nghiệp đại học pháp lý (đại học luật) và được bồi dưỡng về nghiệp vụ công chứng (mục II Thông tư số 574/QLTPK ngày 14 10/10/1987, Điều 14 của Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991, Điều 17 Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996, Điều 30 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 18/12/2000). Ngoài các tiêu chí trên, cùng với sự phát triển của hoạt động công chứng, điều kiện để một người được bổ nhiệm công chứng viên cũng ngày càng cao hơn. Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 (Điều 14), Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 (Điều 17), Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 18/12/2000 (Điều 30) đều đòi hỏi ngoài các điều kiện đã nêu, một người muốn được bổ nhiệm công chứng viên còn phải đáp ứng điều kiện có thời gian công tác pháp luật từ 5 năm trở lên; Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 18/12/2000 còn đòi hỏi công chứng viên được bổ nhiệm phải có chứng chỉ tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng. Mặt khác, các văn bản pháp luật về công chứng trước đó cũng đã có những quy định về việc công chứng viên phải hoạt động chuyên trách không được kiêm nhiệm các công việc khác (mục II.5 Thông tư số 276/TT-CC ngày 20/4/1991 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về tổ chức và quản lý công chứng nhà nước; Điều 17 Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 và Điều 29 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 18/12/2000). Luật Công chứng đã có sự kế thừa và phát triển các quy định trước đây về công chứng viên. Điều 7 Luật Công chứng quy định "Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật này, được bổ nhiệm để hành nghề công chứng" [42]. Khoản 1 Điều 13 Luật Công chứng quy định về tiêu chuẩn công chứng viên là: 1. Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm làm công chứng viên: a) Có bằng cử nhân luật; b) Có thời gian công tác pháp luật từ năm năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức; c) Có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng; d) Đã qua thời gian tập sự hành nghề công chứng; đ) Có sức khỏe bảo đảm hành nghề công chứng [42]. 15 Như vậy, ngoài các điều kiện đã được nêu tại các văn bản pháp luật trước đó, một người để được bổ nhiệm làm công chứng viên theo quy định của Luật Công chứng thì còn phải qua thời gian tập sự hành nghề công chứng ít nhất là 12 tháng tại tổ chức hành nghề công chứng. Luật cũng quy định rõ nội dung công việc mà người tập sự nghề công chứng phải làm trong thời gian tập sự. Và công chứng viên phải hoạt động chuyên trách, phải "hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng" (điểm d khoản 2 Điều 22 Luật Công chứng). Một trong những điểm rất mới của Luật Công chứng là công chứng viên không bắt buộc phải là công chức nhà nước. Điều 22 Luật Công chứng quy định công chứng viên có quyền lựa chọn tổ chức hành nghề công chứng. Điều 23 Luật Công chứng quy định tổ chức hành nghề công chứng gồm có Phòng công chứng và Văn phòng công chứng. Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp. Văn phòng công chứng do công chứng viên thành lập, được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân (nếu Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập); được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh (nếu Văn phòng công chứng do hai công chứng viên trở lên thành lập). Như vậy, công chứng viên là công chức hoặc viên chức nhà nước nếu làm việc tại Phòng công chứng, không phải là công chức hay viên chức nhà nước nếu làm việc tại các Văn phòng công chứng. Dù làm việc ở tổ chức hành nghề công chứng nào và có là công chức, viên chức nhà nước hay không thì địa vị pháp lý của các công chứng viên trong hành nghề công chứng là hoàn toàn như nhau. Họ đều có quyền công chứng các loại hợp đồng, giao dịch như nhau và các văn bản do họ chứng nhận có giá trị pháp lý như nhau. 1.1.2.2. Vai trò của công chứng viên trong việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch Công chứng viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động công chứng. Tuy nhiên các văn bản pháp luật về công chứng trước đây chưa làm rõ được vị trí của công chứng viên, thậm chí vai trò, vị trí của công chứng viên 16 bị lu mờ so với Phòng công chứng. Cách thức tổ chức Phòng công chứng nhà nước trước đây khiến cho phần lớn người dân và các cơ quan, tổ chức coi Phòng công chứng là chủ thể duy nhất của hoạt động công chứng, còn công chứng viên chỉ là công chức làm việc trong Phòng công chứng giống như các công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước khác. Điều 2 Luật Công chứng quy định "Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch" [42]. Khi chứng nhận hợp đồng, giao dịch, công chứng viên phải tuân theo các nguyên tắc hành nghề công chứng được quy định tại Điều 3 Luật Công chứng như: tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; khách quan, trung thực; chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng; tuân theo quy tắc đạo đức hành nghề công chứng. Như vậy chủ thể thực hiện việc công chứng nói chung và thực hiện việc chứng nhận các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng nói riêng là công chứng viên. Tuy nhiên trách nhiệm đặt lên vai các công chứng viên là rất lớn bởi khi chứng nhận hợp đồng, giao dịch trong đó có các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng, công chứng viên không chỉ đảm bảo "tính xác thực" mà còn phải đảm bảo "tính hợp pháp" của các hợp đồng, giao dịch đó. Bản thân công chứng viên phải chịu trách nhiệm về văn bản công chứng do mình chứng nhận. Theo Giáo trình kỹ năng công chứng của Học viện Tư pháp do Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2010 thì: Công chứng viên có vai trò rất quan trọng, không chỉ xác lập hợp đồng, giao dịch về mặt hình thức phù hợp pháp luật mà còn phải giải thích về pháp luật và tư vấn cho các bên về quyền và nghĩa vụ của họ; bảo đảm các quy định bắt buộc của pháp luật phải được tuân thủ; tư vấn cho các bên về những sự lựa chọn mà họ có thể trong trường hợp các bên còn chưa thống nhất, hay nói cách khác làm cho nội dung của hợp đồng, giao dịch phù hợp theo quy định của pháp luật và đạo đức xã hội, và một vấn đề rất quan trọng là làm cho các giao dịch thực tế đúng như quy định của pháp luật. 17 Nó cũng đòi hỏi công chứng viên phải xác định chính xác và khách quan những người tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, cưỡng ép, lừa dối [29, tr. 79]. Tính xác thực của hợp đồng, giao dịch được công chứng viên chứng nhận là một yếu tố bảo đảm cho các hợp đồng, giao dịch đó có giá trị chứng cứ. Mà nói đến chứng cứ trong hoạt động tố tụng là nói đến "những gì có thật" và công chứng viên chỉ được chứng nhận "những gì có thật". Điều 3 Luật Công chứng cũng quy định công chứng viên phải "khách quan, trung thực" khi thực hiện việc công chứng. Công chứng viên "có quyền từ chối công chứng" nếu trong hồ sơ yêu cầu công chứng "có vấn đề chưa rõ" hoặc "có sự nghi ngờ đối tượng của hợp đồng, giao dịch là không có thật" mà người yêu cầu công chứng "không làm rõ được" hoặc sau khi công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định theo đề nghị của người yêu cầu công chứng mà cũng "không làm rõ được" (khoản 4 Điều 35 Luật Công chứng). Do vậy, các tình tiết, sự kiện trong các văn bản công chứng đã được công chứng viên chứng nhận là những tình tiết, sự kiện có thực, khách quan, đúng như được mô tả trong hợp đồng, giao dịch. Khi chứng nhận hợp đồng, giao dịch, trong đó có các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng, ngoài việc đảm bảo tính xác thực, công chứng viên còn phải đảm bảo tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đó. Đây chính là điểm khác biệt giữa trường phái công chứng hệ Latine (công chứng nội dung) và công chứng hệ Anglosason (trường phái công chứng hình thức). Đối với công chứng hệ Anglosason, việc công chứng được giao cho các luật sư, hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của nhà thờ thực hiện. Khi công chứng, họ chỉ chú trọng đến tính xác thực về mặt hình thức như: nhận diện đúng khách hàng, xác định đúng thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, ghi lại sự kiện pháp lý hoặc thỏa thuận của các bên mà không quan tâm đến việc xác định tình trạng pháp lý của đối tượng hợp đồng, không quan tâm đến việc thỏa thuận của các bên yêu cầu công chứng có phù hợp hay trái với các quy định 18 của pháp luật…Do vậy, những hợp đồng, văn bản được lập và chứng nhận bởi các luật sư, hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của nhà thờ mang lại sự an toàn pháp lý không cao, không được coi là chứng cứ trước Tòa án mà chỉ được coi là nguồn chứng cứ nên vẫn cần phải điều tra, xác minh. Trong công chứng hệ Latine, công chứng viên chỉ chứng nhận các hợp đồng, giao dịch hợp pháp và được từ chối công chứng đối với những hợp đồng, giao dịch bất hợp pháp. Luật Công chứng của nước ta quy định công chứng viên khi chứng nhận hợp đồng, giao dịch là chứng nhận "tính hợp pháp" của các hợp đồng, giao dịch đó. Công chứng viên "có quyền từ chối công chứng" đối với những hợp đồng, giao dịch "có điều khoản vi phạm pháp luật" sau khi công chứng viên đã chỉ rõ cho người yêu cầu công chứng sửa chữa nhưng họ không sửa chữa (khoản 5 Điều 35 Luật Công chứng). Theo Giáo trình kỹ năng công chứng của Học viện Tư pháp do nhà xuất bản tư pháp ấn hành năm 2010 thì việc đảm bảo tính xác thực và tính hợp pháp trong văn bản công chứng "chính là việc công chứng viên đảm bảo an toàn pháp lý cho hợp đồng, giao dịch, hạn chế tranh chấp, đạt hiệu quả tích cực về mặt kinh tế - xã hội" [29, tr. 179]. Và như vậy công chứng viên "đã hoàn thành nhiệm vụ chính trị của một "thẩm phán phòng ngừa" đối với việc "phòng ngừa những giao dịch, thỏa thuận không phù hợp với quy định của pháp luật, tạo môi trường lành mạnh, trong sạch cho đời sống kinh tế, thương mại, dân sự của xã hội" [29, tr. 179]. Và chính sự đảm bảo tính xác thực và tính hợp pháp khi chứng nhận hợp đồng, giao dịch là một yếu tố quan trọng làm nên giá trị pháp lý của văn bản công chứng. 1.1.3. Văn bản công chứng 1.1.3.1. Khái niệm Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2011 thì văn bản là "bản chép tay hoặc in ấn với một nội dung nhất định, thường để lưu lại lâu dài" [59, tr. 1744]. Khoản 1 19 Điều 4 Luật Công chứng quy định về văn bản công chứng, theo đó văn bản công chứng là "hợp đồng, giao dịch bằng văn bản đã được công chứng theo quy định của luật". Khác với các hợp đồng, giao dịch thông dụng, văn bản công chứng bao gồm hai yếu tố. Một là nội dung của hợp đồng, giao dịch được thể hiện trên giấy. Các nội dung này thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên khi tham gia giao dịch. Công chứng viên có trách nhiệm kiểm tra nội dung của hợp đồng, giao dịch để đảm bảo những nội dung đó không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội và công chứng viên sẽ thực hiện chứng nhận tính hợp pháp, tính xác thực của các nội dung đó theo một trình tự thủ tục do pháp luật qui định. Yếu tố thứ hai trong văn bản công chứng là lời chứng của công chứng viên. Theo quy định tại Điều 5 của Luật Công chứng thì lời chứng của công chứng viên phải ghi rõ các nội dung sau: thời gian, địa điểm công chứng, họ, tên công chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng; chứng nhận người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự, mục đích, nội dung của hợp đồng, giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng, giao dịch là có thật, chữ ký trong hợp đồng, giao dịch là đúng chữ ký của người tham gia hợp đồng, giao dịch. Sau những nội dung trên, công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng vào văn bản công chứng. 1.1.3.2. Đặc điểm của văn bản công chứng Văn bản công chứng có các đặc điểm sau: Thứ nhất, văn bản công chứng có tính chính xác về thời gian, địa điểm công chứng và chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch. Thời gian công chứng phải chính xác ngày, tháng, năm; trong một số trường hợp như công chứng di chúc hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng, thời gian công chứng còn phải chính xác cả giờ, phút. Ngày, 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan