ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của nhân dân ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng trong những năm qua đã thu được nhiều thành tựu to lớn, từng bước đưa
đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn
định, đời sống của nhân dân cũng từng bước được cải thiện, bộ mặt của xã hội đã có
những thay đổi đáng kể. Một trong những tiền đề để tạo ra sự thành công đó là Đảng ta
đã đánh giá đúng vị trí và vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từng bước xây dựng và phát triển kinh tế tri
thức đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Ngày nay, sự ứng dụng ngày càng rộng rãi những thành tựu của khoa học và
công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất đã làm năng suất lao động tăng nhanh. Tuy
nhiên, khoa học và công nghệ dù có sức mạnh thế nào cũng không thể thay thế hoàn
toàn vai trò của con người. Nguồn nhân lực vẫn đóng một vai trò quan trọng, quyết định
quá trình sản xuất, tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội. Thế giới đang có xu hướng
chuyển từ nền kinh tế dựa vào sự giàu có của các nguồn tài nguyên sang kinh tế tri thức.
Trong bối cảnh như vậy, nguồn lực con người càng trở thành động lực chủ yếu của sự
phát triển nhanh và bền vững. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng đã chỉ rõ: con người là nguồn lực quan
trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, quyết định sự hưng thịnh của đất nước. Tại
Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định sự cần thiết phải thực hiện một cách có hiệu
quả chiến lược phát triển con người. Tiếp tục thực hiện đường lối đúng đắn và khoa học
đó, Đại hội lần thứ X của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu của chiến
lược phát triển kinh tế – xã hội là “Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức”
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2007, 2008 đã tác động không
nhỏ đến việc làm, thu nhập của người lao động và cũng cho thấy rõ các tồn tại của
nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực nước ta đa số có trình độ chuyên môn, kỹ thuật thấp,
việc làm thiếu bền vững, thích ứng chậm với sự biến đổi của thị trường lao động trong
thời kỳ khủng hoảng kinh tế, các phẩm chất mới của nguồn nhân lực chưa được hình
thành đầy đủ,… đã làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trên phạm vi toàn bộ nền
kinh tế. Chính vì vậy, phát triển nguồn nhân lực thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế có vai
trò quan trọng đối với việc tiếp tục thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu
quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Chính vì vậy, nhóm 6 đã chọn đề tài về “Con người và vấn đề phát triển
nguồn nhân lực thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế” để nghiên cứu.
Do hạn chế về khả năng cũng như thời gian thực hiện tiểu luận có hạn nên
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được nhận xét và những đóng góp của
cô giáo và các bạn.
CHƯƠNG I
Cơ sở lý luận
I. Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người.
1. Quan của các nhà triết học trước Mác về con người
Con người là thực thể tự nhiên và cũng là thực thể xã hội. Con người cũng
chịu sự chi phối của tiến trình phát triển tự nhiện “sinh – lão – bệnh – tử”, sự chi phối
của các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, con người cũng có thể chi phối được xã hội, chinh
phục tự nhiên để phục vụ cho lợi ích của mình. Vì vậy, con người được coi là một
phạm trù tự nhiên vả xã hội, nó cũng có bản chất và quy luật riêng của nó. Do đó,
phạm trù con người đã được nghiên cứu rất nhiều trong mỗi giai đoạn lịch sữ phát
triển của con người kể từ khi nền triết học ra đời. Nhìn chung từ nền triết học Phương
Đông (Ấn Độ, Trung Quốc) đến nền triết học Phương Tây (Hy Lạp, triết học Phương
Tây thời phục hưng, triết học cổ điển Đức…,) đầu có những nghiên cứu và định
nghĩa riêng về con người và bản chất con người. Chung quy lại, tất cả đều đi tìm câu
trả lời cho những vấn đề sau: Bản chất con người là gì? Bản chất con người là bản
chất tự nhiên hay xã hội. Con người từ đâu mà có? Vị trí, vai trò của con người trong
dòng chảy lịch sử tự nhiên, xã hội là gì? Tác động của con người đối với tự nhiên và
xã hội? Giữa con người và tự nhiên xã hội phải có mối quan hệ như thế nào để cùng
tồn tại và phát triển?
Quan niệm con người trong triết học Phương Đông thường đi sâu vào các vấn
đề nguồn gốc bản chất con người. Các nhà triết học, các học thuyết trong nền triết
học này đa phần cho rằng bản chất con người là tâm linh mang nặng tính duy tâm
(con người bao gồm linh hồn và thể xác trong đó linh hồn có trước thể xác và linh
hồn quan trọng nhất), con người là do thượng đế tạo ra. Tiêu biểu là các học thuyết
của triết học Ấn Độ như kinh Vêđa, kinh Upanihad, triết học phật giáo…,) triết học
Trung Quốc thì đi tìm bản chất con người từ đó xây dựng và giải phóng con người
trong xã hội và trong tự nhiên tiêu biểu là các nền tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử,
Tuân Tử, Dương Chu…
Quan niệm con người trong triết học Phương Tây thường tập trung mọi cố
gắng nghiên cứu con người một cách khá toàn diện và đặc biệt đề cao con người coi
“con người là trung tâm của vũ trụ” thước đo của vạn vật. Quan niệm của nền triết
học này thường mang tính duy vật chủ quan hoặc vừa duy tâm, vừa duy vật. Chính
quan điểm triết học về con người trong nền triết học Phương Tây đã giải phóng con
người và đưa con người lên tầm cao mới, con người là trung tâm của xã hội, con
người có thể chinh phục được tự nhiên. Từ đó đưa nên khoa học tri thức ngày càng
phát triển và cũng chính nền tri thức khoa học tự nhiên xã hội lại chỉ rõ ra những vấn
đề quan trọng trong việc giải phóng con người làm con người ngày càng phát triển cả
về thể chất tự nhiên lẫn tinh thần.
Tuy nhiên, cả hai nền triết học trên vẫn còn nhiều mặt mâu thuẩn, chủ yếu là
mâu thuẩn giữa hai hệ tư tưởng tư duy là duy vật và duy tâm, vẫn còn lẫn quẫn khi
cho rằng linh hồn con người là do đấng siêu nhiên tạo thành.
2. Quan điểm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người.
Kế thừa có phê phán và phát triển trên những quan niệm trên cũng như tránh
các sai lầm về quan niệm của hai nền triết học trên, triết học Mác – Lênin có những
nghiên cứu và lý luận về con người một cách riêng và cụ thể hơn. Điểm xuất phát để
nghiên cứu về con người của triết học Mác đó là con người trong hoạt động thực tiễn,
trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nó. Triết học Mác đã đưa ra các quan niệm khoa
học về con người như sau:
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng
thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố
xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng
do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính
loài của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại
của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người";
con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá
lâu dài của môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy
nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người
với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan
niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng
công cụ lao động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người động vật có tư
duy... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó
trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã
hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà
trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc
vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân
con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của
con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người
đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình".
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến
giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra
toàn bộ giới tự nhiên".
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt
động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông
qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần,
phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập
quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của
con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của
con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống
nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với
môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa... quy định
phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành
và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát
vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa
người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh
trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh
học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội
trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu
cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa
mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi
con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn
mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh
học phải được "nhân hóa" để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu
cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống
nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự
nhiên - xã hội.
Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt
lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ
với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến
cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ
bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực
liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận
đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không
phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội".
Trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật Mác đã khảo sát bản chất con
người bắt đầu từ hoạt động thực tiễn, từ trong hoàn cảnh xã hội lịch sử - cụ thể. Khi
vạch ra bản chất con người Mác đặc biệt nhấn mạnh “trong tính hiện thực”, bởi vì
luận điểm xuất phát của Mác là luận điểm cho rằng xét về thực chất, quá trình hình
thành và phát triển đời sống con người là hoạt động sản xuất, hoạt động thực tiễn của
con người. Còn các quá trình tư tưởng- tinh thần là sự thể hiện của đời sống thực tiễn
mang tính khách quan của con người. Luận điểm này chỉ rõ bản chất con người là
bản chất được xem xét “trong tính hiện thực” cụ thể, không phải là bản chất loài trừu
tượng thoát ly tính lịch sử, tính xã hội. Để nhận thức đúng đắn về con người, về bản
chất con người, mối quan hệ: Tự nhiên – Con người – Xã hội (lịch sử) thì phải xem
xét con người với tư cách là con người hiện thực, con người với cuộc sống tộc loại,
với đời sống xã hội hiện thực của nó, với sự phát triển lịch sử của nó, thông qua
những hành động lịch sử và các mối quan hệ của nó. Do vậy, cá nhân được xem xét
trong định nghĩa này là những cá nhân trong hiện thực, là những cá nhân đang hoạt
động trong giới hạn, tiền đề và những điều kiện vật chất nhất định, tức là cá nhận
trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn là đặc điểm cơ bản của con người hiện thực. Chỉ
có nắm vững điều này mới giải thích đúng bản chất con người. Con người nói chung
chung không tồn tại trong cuộc sống hiện thực.
“Bản chất con người là tổng hòa nhựng quan hệ xã hội” – Luận điểm này cho
thấy con người là một thực thể có tính loài. Đặc tính “loài” của con người hiện thực
tức là tính người. Tính người bao gồm toàn bộ các thuộc tính vốn có của con người,
trong đó có ba thuộc tính cơ bản nhất đó là thuộc tính tự nhiên, thuộc tính xã hội và
thuộc tính tư dưy, trong ba thuộc tính ấy thì thuộc tính nào là thuộc tính bản chất con
người? Như chúng ta đã biết bản chất của mọi sự vật là sự tổng hợp những mặt,
những yếu tố, những thuộc tính tất nhiên vốn có bên trong sự vật, quy định sự vận
động phát triển của sự vật đó. Tổng họp không phải là tổng cộng giản đơn các thuộc
tính của sự vật mà tổng hợp chính là thuộc tính đặc trưng giữ vai trò chi phối các
thuộc tính cơ bản của sự vật đó. Trong ba thuộc tính cơ bản của con người thì thuộc
tính tự nhiên của con người là cái đặc trưng và bản năng vốn có của sinh vật tự nhiên,
là điều kiện sinh lý để loài người sinh tồn và phát triển, nó đóng vai trò là cơ sở vật
chất của thuộc tính xã hội và thuộc tính tư duy, nhưng thuộc tính tự nhiên chỉ biểu thị
mặt nguồn gốc và lien hệ giữa con người với các sinh vật khác, nó chưa nói lên được
sự khác nhau căn bản giữa con người và con vật vì thế nó không phải là thuộc tính
bản chất của con người. Còn thuộc tính tư vì thế nó không phải là thuộc tính bản chất
của con người. Còn thuộc tính tư duy của con người (ngôn ngữ, tư duy, lý tính…,) là
hiện tượng riêng có ở loài người, song nó cũng không phải là thựoc tính bản chất vì
nó kông có ý nghĩa chi phối đối với các thuộc tính khác. Chỉ có thuộc tính xã hội là
thuộc tính chế ước và quy định thuộc tư duy và thuộc tính tự nhiên của con người,
khiến cho dấu ấn xã hội được in đậm, thấm sâu vào nội dung của các thuộc tính đó.
Bởi so tác động của thuộc tính xã hội mà các nhu cầu tự nhiên ở con người đã bị xã
hội hóa và ý thức, ngôn ngữ.v.v.. của con người là sản phẩm của xã hội, mang tính xã
hội.
Theo quan điểm của triết học Mác, tồn tại con người là tồn tại mang tính tự
nhiên, con ngưồi là bộ phận của tự nhiên, là sản phẩm cao nhất trong quá trình phát
triển của tự nhiên. Cùng với đó, con người còn là một thực thể xã hội. Con người vừa
là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội và do vậy yếu tố sinh học trong
mỗi con người không phải tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội mà chúng hòa quyện vào
nhau tồn tại trong yếu tố xã hội. Do đó, bản tính tự nhiên của con người được chuyển
vào bản tính xã hội và được cải biến trong đó.
Con người là một thực thể hiện thực, thực thể sinh học – xã hội và trong tính
hiện thực ấy, “bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Quan hệ xã
hội đây được hiểu là tổng thể những quan hệ mà con người đã có, đang có và trong
chừng mực nào đó nó còn bao hàm cả những quan hệ trong tương lai. Các quan hệ xã
hội của loài người bao gồm hai loại quan hệ: Quan hệ vật chất (quan hệ sản xuất) và
quan hệ tư tưởng (quan hệ chính trị, pháp luật, đạo đưc…) trong đó quan hệ vật chất
quy định quan hệ tư tưởng. Chỉ có đặt con người trong tổng hòa các quan hệ xã hội
đó để tiến hành khảo sát, tổng hợp thì mới có thể năm bắt được toàn diện bản chất
con người. Bản chất con người không phải là cái gì nhất thành bất biến mà luôn vận
động, phát triển cùng với sự vận động phát triển, biến đổi của hoàn cảnh sống, với
những biến đổi của thời đại, gắn liền với phương thức sản xuất ra của cải vật chất.
Chính vì vậy mà thời đại nào thì sản sinh ra con người của thời đại ấy.
Bản chất con người vừa phản ánh cái chung của sự phát triển xã hội loài
người, vừa phản ánh cái riêng của mỗi thời đại lịch sử, và vì vậy, con người có bản
chất chung xuyên suốt mọi thời đại. Đặc tính chung này do bản năng sinh vật, những
nhu cầu, lợi ích của con người quy định. Nhưng cái chung lại được thể hiện thông
qua cái riêng. Do vậy trong xã hội có giai cấp, bản chất của con người mang tính giai
cấp, thể hiện trong xã hội có giai cấp con người ta có quyền sở hữu khác nhau đối với
tư liệu sản xuất và do đó có sự khác nhau về lợi ích vật chất, tư tưởng, đạo đức, tác
phong … của giai cấp. Vì bản chất con người mang tính chất giai cấp nhất định cho
nên cái gọi là con người trừu tượng, siêu giai cấp không tồn tại. Bản chất chung được
hiểu là tính người, tính nhân loại – là cái chung nằm trong tính giai cấp – tức cái
riêng.
Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội nhưng con người bao giờ
cũng là con người riêng biệt, con người cụ thể ứng với những thời đại, những giai
đoạn lịch sử nhất định, với từng tập đoàn người. Đồng thời nó cũng mang bản chất
chung của nhân loại, phát triển trong toàn bộ lịch sử loài người. Mỗi cá nhân từ khi
sinh ra buộc phải tiếp nhận những quan hệ xã hội đã có và đang có, quá trình con
người lớn lên, trưởng thành, nắm bắt văn hóa xã hội hòa nhập vào xã hội, hòa nhập
vào các quan hệ xã hội, quá trình xã hội hóa ấy chính là quá trình hình thành bản chất
con người. Tổng hòa các quan hệ xã hội tạo thành bản chất con người, không những
là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa con người và con vật mà còn là cơ sở để phân
biệt giữa cá nhân với cá nhân trong cộng đồng, bởi vì mỗi cá nhân do hoạt động thực
tiễn của họ khác nhau cho nên quan hệ xã hội của họ khác nhau. Tổng hòa các quan
hệ xã hội không những cho phép giải thích bản chất cộng đồng của loài người mà còn
giải thích được bản chất đặc thù của cá nhân trong cộng đồng đó.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong
một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử
đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh
thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối
quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế;
quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của
mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là
phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn
tại trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật
ở con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách
hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới
hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử
- xã hội. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người
là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng
chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần
phải được giáo dục". Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho
rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử
phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy
không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra
lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của
chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này
bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức
bấy nhiêu".
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển
của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên.
Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú
thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính
bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của
con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở
nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh
thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do
con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật
xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn
phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với
điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp.
Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương
ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà các quan hệ xã hội",
con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo.
Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói
rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không
trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi
trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm
đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông
qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn
cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi
con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận
thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa
con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
Quan niệm về sự giải phóng con người.
Xuất phát từ quan điểm duy vật về con người, coi bản chất con người là tổng
hòa các quan hệ xã hội, triết học Mác đã lấy tư tưởng “vì con người và giải phóng
nhân loại” và “xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng
cho mỗi cá nhân riêng biệt” làm tư tưởng nền tảng để xây dụng học thuyết của chủ
nghĩa Mác – Lênin về xã hội nói chung, về xã hội cộng sản chủ nghĩa nói riêng. Một
trong những đặc trưng cơ bản nhất của chế độ xã hội mới mà giai cấp vô sản có sứ
mệnh xây dựng thành công là giải phóng con người, giải phóng nhân loại. Trong
quan niệm của triết học Mác mục tiêu cao nhất của chế độ xã hội mới là phát triển
con người toàn diện, “tạo nên những con người mới”-những con người “có khả năng
sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của mình”.
Nói đến vấn đề giải phóng con người, giải phóng nhân loại, trong triết học
Mác đã phân biệt rõ sự khác nhau giữa “giải phóng chính trị” và “giải phóng con
người”. Giải phóng chính trị là sự giải phóng con người thoát khỏi sự khép kín về
đảng cấp, về địa vị, về vị trí của con người trong xã hội, là sự thừa nhận bản chất phổ
biến của con người, thừa nhận bản tính của con người trái với tất cả sự khác biệt hiện
thực, xuyên suốt sự tồn tại hiện thực của con người. Từ quan niệm ấy về giải phóng
chính trị các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã đi đến kết luận rắng một
thời đại mới về nguyên tắc trong sự phát triển của con người chỉ có thể bắt đầu nhờ
giải phóng con người. Chỉ bằng cách giải phóng con người, chúng ta mới khắc phục
được tính phân đôi, tính độc lập giữa nhà nước chính trị và xã hội công nhân, giữa
công nhân trừu tượng của nhà nước với thành viên hiện thực của xã hội công dân,
giữa con người với tư cách thực thể loài với con người với tư cách là cá nhân ích kỷ.
Sự giải phóng con người là con đuờng, là phương thức thực hiện đúng đắn bản chất
loài của con người. Nhờ giải phóng ấy, con người sẽ nhận thức được và tổ chức hoạt
động của mình với tư cách hoạt động xã hội, và sẽ không còn tách hoạt động ấy ra
khỏi đời sống hiện thực của mình dưới dạng một hoạt động độc lập. Giải phóng con
người là xóa bỏ sự đối lập giữa con người cá nhân với người công dân trừu tượng,
việc xóa bỏ ấy chỉ có thể thực hiện được bằng hoạt động tích cực của con người. Đó
là cuộc đấu tranh nhằm mục đích xóa bỏ sự tha hóa của con người.
Cơ sở cho sự tha hóa của con người chính là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
gắn liền trực tiếp với chế độ tư bản chủ nghĩa. Bởi thế, việc xóa bỏ chế độ tư hữu ấy
là tiền đề cơ bản cho việc xóa bỏ mọi tha hóa của con người, cho sự nghiệp giải
phóng con người, giải phóng xã hội. Lực lượng thực hiện này là giai cấp vô sản.
Chương II
Phát triển nguồn nhân lực thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế toàn cầu
I. Một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nhân lực hậu khủng hoảng kinh
tế toàn cầu
Sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007- 2008, nền kinh tế Việt Nam đang phục
hồi trở lại, có tốc độ phát triển mới. Tuy nhiên, tình trạng thiếu nhân lực chuyên môn, kỹ
thuật, nhân tài cho doanh nghiệp vẫn rất nghiêm trọng và yêu cầu phát triển nguồn nhân
lực cho các doanh nghiệp, ngành nghề vẫn đang được Chính phủ và các ngành, doanh
nghiệp hết sức quan tâm. Yêu cầu đặt ra của phát triển nguồn nhân lực thời kỳ hậu
khủng hoảng kinh tế toàn cầu thể hiện ở các mặt dưới đây:
Một là, Tăng trưởng kinh tế của Việt nam sẽ tăng cao trong các năm tới, tốc độ
tăng GDP của Việt Nam năm 2008 là 5,6%, năm 2009 là 5,28%, năm 2010 là 6,78% và
dự báo các năm sau đó tăng lên trên 7 % - 12%. Như vậy, với sự tăng trưởng trở lại của
nền kinh tế, nhu cầu nhân lực chuyên môn, kỹ thuật trong các ngành kinh tế sẽ tăng lên
nhanh chóng, từ đó đặt ra yêu cầu phải đào tạo, phát triển nguồn nhân lực kịp thời, đáp
ứng cho thị trường lao động trong điều kiện mới.
Hai là, Tái cấu trúc doanh nghiệp và cơ cấu nền kinh tế phù hợp, thích ứng với
điều kiện kinh doanh đầy biến động của kinh tế thế giới, sự phát triển của kinh tế tri
thức và không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của nguồn nhân lực là yêu cầu cấp
thiết trong các năm tới. Đặc biệt, quá trình tái cấu trúc có tác động thúc đẩy phát triển
nguồn nhân lực các ngành kinh tế mũi nhọn, ngành công nghệ cao, do sự gia tăng nhanh
quy mô và chất lượng hoạt động của các ngành này. Trong đó, có sự gia tăng nhanh
nhân lực chuyên môn, kỹ thuật của các ngành công nghệ thông tin, công nghiệp chế
biến, công nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm chính xác cao, xây dựng, vật liệu xây
dựng, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, dệt may, da gầy, du lịch… Đồng thời, quá trình tái
cấu trúc nền kinh tế và công nghiệp hoá thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nước ta sau khủng hoảng sẽ được thúc đẩy trên bình diện quốc gia,
vùng, địa phương, sản phẩm và doanh nghiệp. Trong đó, chuyển dịch từ kinh tế nông
nghiệp sang dịch vụ, công nghiệp, từ khu vực phi chính thức sang các ngành, lĩnh vực
có năng suất lao động cao hơn là trọng tâm của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Từ đó, đặt ra
nhiệm vụ phải thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng, đáp ứng
được cho nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ba là, Sau thời kỳ khủng hoảng, nền kinh tế thế giới đã phục hồi dần, các thị
trường cho hoạt động xuất, nhập khẩu được mở rộng. Khả năng hội nhập, kết nối nền
kinh tế nước ta với kinh tế khu vực và toàn cầu càng chặt chẽ, toàn diện. Vị thế, khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, ngành và nền kinh tế không ngừng được nâng
cao. Tuy nhiên, các yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực của
các ngành sản xuất, kinh doanh hướng vào xuất khẩu và nhân lực cho xuất khẩu nhân
lực, đòi hỏi phải được cải thiện nhanh chóng.
Bốn là, Ngoài ra, một trong những nhân tố tác động đến nguồn nhân lực doanh
nghiệp trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu là có sự di chuyển, biến động mạnh.
Một bộ phận lớn doanh nghiệp có tỷ lệ lớn nhân lực chuyên môn, kỹ thuật rời khỏi
doanh nghiệp. Theo thuyết quản trị nhân lực hiện đại thì thậm chí trong thời kỳ không
có khủng hoảng kinh tế vẫn có “các dòng nhân lực chảy qua doanh nghiệp” đòi hỏi các
doanh nghiệp phải có công cụ quản lý phù hợp, theo phương pháp “quản trị dòng” (FM
- Flow Management). Đặc biệt, trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các dòng
này trở nên mạnh mẽ hơn. Do đó, sau khủng hoảng kinh tế, các doanh nghiệp phải có kế
hoạch, chính sách nhân lực phù hợp để thu hút, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực mới,
đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh.
Năm là, Nhân tố di cư của nhân lực nông thôn cũng có tác động đến phát triển
nguồn nhân lực hậu khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Thực tế cho thấy, tác động của khủng
hoảng kinh tế toàn cầu lớn hơn là đối với thị trường lao động thành thị và các vùng kinh
tế trọng điểm, nơi có tăng trưởng kinh tế cao và nơi nhanh chóng hình thành các khu
công nghiệp, khu chế xuất. Tại các doanh nghiệp khu vực này, ngoài nguồn nhân lực tại
chỗ còn sử dụng một tỷ lệ lớn (50 - 60%) nhân lực từ nông thôn di cư tới. Dưới tác động
của khủng hoảng kinh tế, một bộ phận lớn nhân lực làm việc trong các doanh nghiệp
này cũng mất việc làm, về quê trở thành thất nghiệp. Do đó, đào tạo lại nghề nghiệp cho
lao động nông thôn sau thời kỳ khủng hoảng là rất cần thiết.
II. Đặc điểm nguồn nhân lực thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Trên tổng thể hiện nay, nguồn nhân lực của Việt Nam có quy mô lớn. Kết quả
điều tra dân số năm 2009 cho thấy dân số nước ta là 86 triệu người với tháp dân số trẻ,
bắt đầu bước vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Trong đó, dân số trong độ tuổi lao động
chiếm 63% (54 triệu người), tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động là 2,5%/năm, lao
động độ tuổi 20-39 chiếm tỷ lệ 50%. Đây là yếu tố thuận lợi cho phát triển nguồn nhân
lực nhưng đồng thời cũng là thách thức đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo, mở rộng
cầu lao động trên thị trường lao động và đảm bảo việc làm cho người lao động. Hơn
nữa, nguồn nhân lực nông thôn có tỷ lệ lớn, dân số nông thôn 62 triệu người, chiếm
khoảng 70% dân số cả nước. Số việc làm trong khu vực nông nghiệp năm 2008 chiếm tỷ
lệ 52% việc làm của cả nước nhưng chỉ tạo ra 22,1% GDP. Đặc điểm rõ nét nữa của
nguồn nhân lực là chất lượng thấp, đến năm 2008 tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp tiểu học
trở xuống còn 15%, số lao động tốt nghiệp phổ thông trung học mới có 25% lực lượng
lao động. Trong khi đó, trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực còn thấp, năm
2009 tỷ lệ lao động qua đào tạo là 36,4% lực lượng lao động (công nhân kỹ thuật có
bằng trở lên 22,37%). Đó là chưa kể đến các hạn chế khác của nguồn nhân lực như thể
lực người lao động chưa đáp ứng được cho các nghề có điều kiện làm việc sử dụng các
loại hình máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế; kỷ luật công nghệ, tác phong công
nghiệp, chuyên nghiệp và khả năng thích ứng linh hoạt với thị trường lao động chưa
cao, chưa phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế; trình độ
ngoại ngữ, tin học của nguồn nhân lực thấp...
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động tới nguồn nhân lực của nhiều ngành, các
doanh nghiệp cắt giảm nhân lực (trong 2 năm 2007, 2008 đã có trên 300 nghìn lao động
mất việc làm), hoàn thiện tổ chức lao động, đồng thời đó cũng là thời gian mà các doanh
nghiệp cơ cấu lại nguồn nhân lực và bộ máy quản lý phù hợp với điều kiện kinh doanh
mới. Do quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp và sự phát triển mới của sản xuất, kinh
doanh nên sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng
lao động trở lại, hướng vào các tiêu chuẩn nhân lực khắt khe, để đáp ứng ngay được cho
yêu cầu sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, việc tuyển dụng của các doanh nghiệp gặp
nhiều khó khăn do thiếu lao động có chuyên môn, kỹ thuật. Cụ thể, ở một số ngành:
- Ngành du lịch hiện nay có 234 nghìn lao động trực tiếp và 510 nghìn lao động gián
tiếp nhưng chất lượng lao động hiện tại đang có những bất cập nhất định. Số lao động
qua đào tạo từ sơ cấp trở lên mới chiếm tỷ lệ 57%. Sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
tốc độ tăng lao động của ngành là 25 nghìn lao động/năm. Nhu cầu tuyển dụng lao động
qua đào tạo chuyên môn, kỹ thuật của ngành là rất lớn, trong khi trên thị trường lao
động khan hiếm nhân lực qua đào tạo du lịch, đặc biệt là ở trình độ cao đẳng, đại học trở
lên, do hệ thống đàotạo còn mỏng.
- Tác động của khủng hoảng đến nguồn nhân lực ngành may rất lớn, do ngành này sản
xuất, kinh doanh có mối quan hệ mật thiết với thị trường toàn cầu. Trong khủng hoảng,
nhiều doanh nghiệp đã giảm đến 50% sản lượng và tương ứng với đó là cắt giảm nhân
lực. Sau khủng hoảng, tình trạng không tuyển dụng được nhân lực cho ngành may là rất
bức xúc, khủng hoảng thiếu hụt nghiêm trọng. Nguồn cung không đủ cầu nên các doanh
nghiệp phải tuyển những người có tay nghề thấp và lao động chưa có nghề để đào tạo
dẫn đến tăng chi phí của doanh nghiệp. Trong khi đó, dệt may là ngành gia công, sử
dụng công nghệ thấp, tiền lương thấp càng tác động đến khả năng phát triển nguồn nhân
lực cho ngành dệt may. Trong 10 năm tới, ngành dệt may cần tuyển dụng thêm 50 nghìn
kỹ sư công nghệ, 5 nghìn cán bộ quản lý và hàng vạn công nhân dệt may cho các
chương trình đầu tư mở rộng dệt may, chưa kể phải tuyển dụng lao động thay thế những
người rời khỏi doanh nghiệp do nhu cầu cá nhân, nghỉ hưu… Do đó, việc thực hiện các
biện pháp tăng cường đào tạo nhân lực cho ngành dệt may phải được triển khai trên diện
rộng và đồng thời với đó là các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo.
- Cũng như ngành dệt may, ngành da giầy là ngành sản xuất kinh doanh sử dụng phần
lớn nguyên vật liệu nhập từ thị trường thế giới và đa số dùng để xuất khẩu. Do đó, tác
động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu lên ngành da giầy rất lớn. Hiện nay, ngành này
vẫn gặp nhiều khó khăn do hậu quả của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, lượng vốn FDI
giảm sút, cầu hàng hoá trên thị trường thế giới giảm,… Ngoài ra, ngành da giầy còn đối
mặt với các thách thức như bị EU cắt ưu đãi thuế quan, bị áp thuế chống bán phá giá kéo
dài thêm 15 tháng (từ tháng 12/2009). Mặc dù vậy, sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
vấn đề nhân lực của ngành da giầy vẫn là nan giải. Tình trạng thiếu hụt nhân lực, không
tuyển được nhân lực đáp ứng cho phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh sau khủng
hoảng kinh tế toàn cầu là phổ biến ở các công ty da giầy. Hàng loạt công ty thiếu từ 100
- 1000 lao động (Xí nghiệp giầy nữ Nam Nghĩa thiếu 200 lao động, công ty Cai- Nan có
nhu cầu tuyển 1200 lao động, Nhà máy giầy Liên Dinh thiếu 1000 lao động,...). Nhiều
công ty đã đưa ra chính sách mới về ưu đãi nhân lực (tăng mức lương, chế độ phúc
lợi…) nhưng vẫn không thu hút được nhân lực, vì thiếu nhân lực tay nghề cao và tiền
lương trong ngành do giầy thấp, không hấp dẫn trên thị trường lao động.
- Ngành xây dựng suy thoái trong giai đoạn khủng hoảng nay đã bắt đầu tăng trưởng trở
lại. Tuy nhiên, hiện nay, vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho ngành xây dựng đang rất
cấp thiết. Nhìn chung, nguồn nhân lực ngành xây dựng có trình độ chuyên môn, kỹ thuật
thấp, số công nhân được đào tạo trong các trường, lớp chính quy chưa nhiều, công nhân
xây dựng đa số là đến từ nông thôn, chưa qua đào tạo, ý thức chấp hành kỷ luật công
việc chưa cao, nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sản phẩm. Trong toàn ngành,
số lao động có trình độ cao đẳng, trung cấp nghề chỉ chiếm tỷ lệ 11,8%, thợ bậc cao 7%.
Nhu cầu tuyển dụng, đào tạo lại nhân lực bao gồm cả kỹ sư xây dựng, công nhân lành
nghề (cao đẳng, trung cấp nghề) là rất lớn trong các năm tới. Do đó, hệ thống đào tạo
của ngành xây dựng phải được đổi mới, liên kết đào tạo với doanh nghiệp, đào tạo theo
quan hệ thị trường và sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật xây dựng là yêu cầu
thực tế đặt ra hiện nay.
Một đặc điểm quan trọng của thị trường lao động tác động đến phát triển nguồn
nhân lực nước ta hiện nay là cung cầu lao động bất cân đối. Tình trạng thất nghiệp còn
khá cao, trong giai đoạn 2000-2008, bình quân mỗi năm có khoảng 900 nghìn người thất
nghiệp. Năm 2008 tỷ lệ thất nghiệp thành thị là 4,5%, nông thôn 1,45%. Tình trạng thừa
nhân lực lao động phổ thông, lao động kỹ năng thấp và thiếu lao động trình độ chuyên
môn, kỹ thuật cao đang rất phổ biến. Giải quyết vấn đề quan hệ giữa nhân lực phổ thông
và nhân lực chuyên môn kỹ thuật cao phụ thuộc vào trình độ phát triển của hệ thống
giáo dục, đào tạo và tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong
đó, đặc biệt là sự tăng trưởng, phát triển của các ngành kinh tế mũi nhọn, ngành sử dụng
công nghệ cao, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng tri thức cao, có đóng góp
quan trọng trong thu nhập của quốc gia và thúc đẩy các ngành khác phát triển.
Đồng thời, hệ thống các cơ sở dịch vụ việc làm cũng có đóng góp quan trọng đối
với thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay, toàn quốc có khoảng 160 trung tâm
giới thiệu việc làm và 3000 doanh nghiệp dịch vụ việc làm tư nhân. Giai đoạn 20002008, mỗi năm hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm nhà nước tư vấn cho khoảng 300500 nghìn lao động, giới thiệu việc làm cho hơn 200 nghìn lao động. Mặc dù vậy, hoạt
động của các hệ thống trung gian thị trường lao động đạt hiệu quả chưa cao, đặc biệt là
chưa thích ứng với việc thực hiện các biện pháp hiệu quả về dịch vụ nhân lực cho thời
kỳ biến động kinh tế dưới tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, một
trong những khó khăn hiện nay của các doanh nghiệp trong thu hút nhân lực là do cung
cầu chưa gặp nhau hoặc do cung lao động chưa được chuẩn bị, đào tạo theo yêu cầu của
sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hơn nữa, khủng hoảng kinh tế toàn cầu còn cho thấy, chính sách tiền lương đối
với thu hút và phát triển nguồn nhân lực còn có bất cập. Đối với các ngành có mức
lương cao và khá cao (hàng không, điện lực, dầu khí, công nghệ thông tin…) nhìn
chung, thu hút và đào tạo phát triển nhân lực có thuận lợi hơn, nhưng các ngành tiền
lương thấp có nhiều khó khăn trong phát triển nguồn nhân lực. Bên cạnh đó là chính
sách thuế chưa có sự ưu đãi đối với các ngành có lợi nhuận thấp, khả năng chi trả tiền
lương hạn chế nhưng sử dụng nhiều nhân lực, tạo nhiều việc làm cho xã hội. Trong đó,
các ngành như dệt may, da giầy… là những ngành thu hút nhiều lao động nhưng tiền
lương chỉ bẳng 40- 50% của các ngành có mức lương trung bình (2,8 triệu/tháng) và chỉ
bằng 1/10 tiền lương bình quân của các ngành có mức lương cao (dầu khí, hàng không,
… 12- 13 triệu đồng/tháng). Ngoài ra, do chính sách tiền lương nhà nước quy định hiện
nay (tiền lương tối thiểu) chưa có sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, nên cùng một
ngành nghề thì khu vực FDI dễ dàng hơn trong thu hút, phát triển nhân lực còn các khu
vực khác khó khăn hơn do lương tối thiểu khu vực này thấp hơn.
III. Các khuyến nghị
Từ một số tình hình thực tế về phát triển nguồn nhân lực thời kỳ hậu khủng
hoảng kinh tế có một số khuyến nghị thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực sau đây:
Một là, Nhà nước cần có cơ chế nắm bắt thông tin và có chính sách hỗ trợ đào
tạo nguồn nhân lực kịp thời cho các ngành, vùng đang thiếu nghiêm trọng nhân lực, cụ
thể như các ngành dệt may, da giầy, xây dựng,… vùng kinh tế trọng điểm. Đồng thời,
có chính sách thuế hợp lý đối với các ngành sử dụng nhiều lao động nhưng khả năng
chi trả tiền lương thấp để các doanh nghiệp có điều kiện nâng mức lương bình quân,
nâng cao khả năng cạnh tranh về nhân lực trên thị trường lao động.
Hai là, Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu sống còn để đáp ứng yêu
cầu của phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm,
khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
ngoài các giải pháp truyền thống (thu hút đầu tư cho nâng cấp các cơ sở đào tạo, đào tạo
giảng viên, đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng đầu
vào…) cần thực hiện các biện pháp có tính đột phá như: tạo nguồn đầu tư cho xây dựng
hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, cơ sở dạy nghề đạt chuẩn quốc tế; xây
dựng thương hiệu cho các cơ sở đào tạo đạt chất lượng cao; thị trường hoá ở mức độ
thích hợp đối với sự nghiệp đào tạo, dạy nghề; hỗ trợ học sinh, sinh viên đi du học tại
các nước phát triển các ngành nghề thị trường lao động Việt Nam khan hiếm... Chú
trọng đào tạo nghề nghiệp đối với lao động nông thôn, lao động vùng chuyển đổi mục
đích sử dụng đất dưới tác động của công nghiệp hoá, để đưa người lao động tái hoà
nhập thị trường lao độngTrên cơ sở đó, khơi mạch dòng cung ứng nguồn nhân lực chất
lượng cao cho thị trường lao động, đáp ứng nhu cầu theo ngành nghề, cấp trình độ của
các doanh nghiệp.
Ba là, Nhà nước đầu tư xây dựng các trạm quan sát thị trường lao động, đầu tư
kinh phí cho điều tra thị trường lao động, nhằm đảm bảo cung ứng thông tin thị trường
lao động kịp thời, chính xác. Từ đó, góp phần điều chỉnh chính sách đào tạo, dạy nghề
phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế- xã hội. Thông tin thị trường lao động còn là
cơ sở quan trọng để kết nối cung cầu lao động, thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực hiệu
quả cho quá trình công nghiệp hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, Mở cửa mạnh hơn thị trường lao động nước ta và có cơ chế kiểm soát
hiệu quả nhằm thu hút lao động chuyên môn, kỹ thuật cao của thị trường lao động quốc
tế vào làm việc và nâng cao quy mô xuất khẩu lao động. Đồng thời, nâng cao khả năng
cạnh tranh và kích thích phát triển nguồn nhân lực nước ta, không những phạm vi quốc
gia mà trên cả bình diện quốc tế.
Năm là, Cải cách chính sách tiền lương hướng vào khuyến khích các doanh
nghiệp áp dụng các hình thức tiền lương linh hoạt, tiền lương được trả theo đóng góp
lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và theo quan hệ thị trường
để nâng cao tính kích thích, cạnh tranh của tiền lương. Chính sách tiền lương tối thiểu
phải bình đẳng giữa các khu vực kinh tế nhằm loại bỏ những rào cản hoạt động thông
suốt của thị trường lao động. Tiền lương của người lao động là một loại chi phí đặc biệt,
đầu tư vào tiền lương phải được coi là đầu tư cho nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh, phát triển nguồn nhân lực, khai thác các tiềm năng vốn nhân lực của doanh
nghiệp.
Sáu là, Hoàn thiện và thúc đẩy thực hiện hiệu quả chính sách bảo hiểm xã hội,
đặc biệt là chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách hỗ trợ đào tạo mới, đào tạo lại
nghề nghiệp cho lao động bị mất việc làm do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn
cầu. . Bảo hiểm xã hội phải được thúc đẩy mở rộng, bao trùm với quy mô ngày càng lớn
đối với khu vực phi kết cấu, lao động nông nghiệp, nhằm đảm bảo bình đẳng và cuộc
sống an toàn cho tất cả những người lao động trong các trường hợp mất thu nhập do các
rủi ro, trong đó có rủi ro mất việc làm do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
KẾT LUẬN
Tóm lại, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Đưa nền nước ta vượt qua những thách thức của cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, tranh thủ được các thời cơ thuân lợi mới, đòi hỏi chúng ta phải
tập trung trí tuệ và nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực, mặt khác phải đồng thời
thường xuyên cải thiện và đổi mới môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, gìn giữ
môi trường tự nhiên của quốc gia. Chúng ta cần phải thực hiện đầy đủ và đồng bộ các
giải pháp. Giữa các giải pháp có mối quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau, coi nhẹ hoặc
bỏ qua một giải pháp nào đó sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả của các giải pháp khác.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo kế hoạch dạy nghề, việc làm và xuất khẩu lao động giai đoạn 2007-2010, Bộ
LĐTBXH.
2. Kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số Việt Nam 2009, TCTK.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh xu thế phát
triển của kinh tế thế giới đến năm 2020.
4. Trang tin điện tử của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê, Ngân hàng
Nhà nước, Bộ Tài chính, Thời báo Kinh tế...
5. Niên giám thống kê 2009, TCTK
6. Tạp chí KT&PT tháng 6.2010
7. Giáo trình triết học Mác Lênin
8. Web www.chungta.com.
- Xem thêm -