ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THANH MAI
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THANH MAI
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số
: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cừ
HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUAN HỆ TÀI
SẢN CỦA VỢ CHỒNG
6
1.1.
Khái niệm quan hệ tài sản của vợ chồng
6
1.2.
Đặc điểm quan hệ tài sản của vợ chồng
9
1.3.
Ý nghĩa của việc xác định quan hệ tài sản của vợ chồng
13
1.4.
Sơ lược lịch sử quan hệ tài sản của vợ chồng theo quy định của
pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam qua các thời kỳ
17
1.5.
Nội dung quan hệ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam năm 2000
28
Chương 2: NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
VIỆT NAM NĂM 2000
43
Cơ sở lý luận điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng
43
2.1.1. Quan hệ tài sản của vợ chồng được xây dựng trên cơ sở chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
43
2.1.2. Đường lối, chính sách của Đảng là cơ sở lý luận quan trọng
để xây dựng quan hệ tài sản của vợ chồng
44
2.1.3. Quan hệ tài sản của vợ chồng được xây dựng tuân thủ theo
những quy định của Hiến pháp, phù hợp với hệ thống pháp
luật Việt Nam và quốc tế
47
2.1.4. Quan hệ tài sản của vợ chồng phát sinh, thay đổi hay chấm
dứt dựa trên sự kiện pháp lý phát sinh, thay đổi hay chấm dứt
quan hệ hôn nhân
49
2.1.5. Quan hệ tài sản của vợ chồng phát sinh do tính chất của quan
hệ hôn nhân
54
2.1.6. Quan hệ tài sản của vợ chồng phát sinh dựa trên mục đích của
quan hệ hôn nhân
57
2.1.
2.2.
Cơ sở thực tiễn điều chỉnh quan tài sản của vợ chồng
58
2.2.1. Do sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội
58
2.2.2. Do tác động của phong tục, tập quán, đạo đức đến các quy
định của pháp luật về quan hệ tài sản của vợ chồng
61
2.2.3. Do ảnh hưởng của yếu tố lịch sử đến quan hệ tài sản của vợ chồng
64
2.2.4. Do ảnh hưởng của yếu tố chính trị
66
2.2.5. Do nhận thức của nhà làm luật tác động đến quan hệ pháp
luật về tài sản của vợ chồng
67
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH QUAN HỆ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
69
Thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ
chồng
69
3.1.
3.1.1. Trong việc xác định quan hệ hôn nhân
69
3.1.2. Trong quan hệ sở hữu giữa vợ và chồng
72
3.1.3. Trong quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng
86
3.1.4. Về quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng
87
3.2.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật điều
chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng trong giai đoạn hiện nay
88
3.2.1. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
88
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
quan hệ tài sản của vợ chồng
89
3.2.3. Các biện pháp tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật
107
KẾT LUẬN
115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
117
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật Dân sự
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
ĐCS
Đảng Cộng sản
HĐTP
Hội đồng Thẩm phán
HN&GĐ
Hôn nhân và gia đình
PK
Phong kiến
Nghị định số
70/2001/NĐ-CP
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày
03/10/2001 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật HN&GĐ
Nghị quyết số
35/2000/QH10
Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày
9/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành
Luật HN&GĐ
TA
Tòa án
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Khi hai người nam nữ quyết định kết hôn với nhau, tức là họ đã lựa chọn
cho mình một con đường mới với rất nhiều bổn phận, nghĩa vụ và quyền lợi,
trong đó có quyền lợi và nghĩa vụ về tài sản. Quan hệ hôn nhân là một quan
hệ đặc thù, theo đó, quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng cũng là một loại quan
hệ đặc biệt. Chính vì vậy, pháp luật về quan hệ tài sản của vợ chồng đã giành
được nhiều sự quan tâm và không ngừng được hoàn thiện qua các thời kỳ.
Luật HN&GĐ năm 2000 đã thực hiện vai trò điều chỉnh quan hệ
HN&GĐ, trong đó có quan hệ tài sản của vợ chồng được gần 10 năm. Ngày
nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, diện mạo của gia đình
đã thay đổi đáng kể, chức năng kinh tế của gia đình đã chuyển từ sản xuất
sang tiêu dùng. Kinh tế xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, mối quan hệ
trong gia đình vì thế cũng gặp những thuận lợi và thách thức. Cùng với sự
phát triển của xã hội, Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi
hành cũng bộc lộ những điểm hạn chế cần giải quyết.
Việc hiểu rõ hơn những cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự ra đời những
quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là một
vấn đề mang tính khách quan, cấp thiết nhằm tìm ra những căn nguyên để
hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về quan hệ tài sản của vợ
chồng. Qua đó, góp phần tích cực hướng tới mục tiêu xây dựng gia đình ấm
no, hạnh phúc và bền vững.
Do đó, tác giả đã chọn đề tài "Cơ sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh
quan hệ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000" làm
đề tài cho luận văn Thạc sỹ của mình.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, việc xác định cơ sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh quan hệ tài
sản vợ chồng được nhiều tác giả đề cập đến trong nhiều công trình, bài viết.
Ví dụ: sách chuyên khảo của tác giả Nguyễn Văn Cừ về “Chế độ tài sản của
vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” được Nhà xuất bản
Tư pháp xuất bản năm 2008; hoặc Luận văn thạc sĩ năm 2002 của tác giả
Nguyễn Hồng Hải về “Xác định tài sản của vợ chồng, một số vấn đề lý luận
và thực tiễn”; hoặc Đề tài khoa học cấp trường của Trường Đại học Luật Hà
Nội năm 2008 về “Tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh”.
Tuy nhiên, các tác giả này chỉ đề cập tới việc xác định cơ sở lý luận và
thực tiễn điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng như một phần của một vấn
đề khác hoặc là chỉ đề cập tới một phần của nó (và thường được đề cập khi
gắn nó với chế độ tài sản của vợ chồng). Luận văn tập trung nghiên cứu một
cách hệ thống các cơ sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ
chồng, vì vậy, nó không bị trùng lắp với bất kỳ một đề tài nào trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu những khái
niệm liên quan đến quan hệ tài sản của vợ chồng, đặc điểm quan hệ tài sản vợ
chồng cũng như lịch sử phát triển quy định của pháp luật về quan hệ tài sản
của vợ chồng để tìm ra cơ sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh quan hệ tài sản
của vợ chồng theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam, thực tiễn áp dụng pháp luật
điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng, trên cơ sở đó, nhận thức rõ hiệu quả,
tác dụng cũng như những điểm hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng
pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng, đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện hệ thống các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ tài
sản của vợ chồng, qua đó góp phần tích cực trong việc xây dựng và phát triển
2
gia đình hạnh phúc, xã hội ổn định.
Trên cơ sở mục đích đó, Luận văn được thực hiện với nhiệm vụ:
- Nghiên cứu khái niệm quan hệ tài sản của vợ chồng, đặc điểm quan hệ
tài sản của vợ chồng, ý nghĩa của việc xác định quan hệ tài sản của vợ chồng;
- Sơ lược lịch sử quan hệ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp
luật HN&GĐ Việt Nam qua các thời kỳ, cũng như nội dung quan hệ tài sản
của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000;
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ
chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản vợ
chồng và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật
điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng trong giai đoạn hiện nay trên các cơ
sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng.
Quan hệ tài sản của vợ chồng có thể hiểu với ý nghĩa là quan hệ sở hữu
tài sản của vợ chồng (nghĩa hẹp) hoặc với ý nghĩa là quan hệ sở hữu tài sản,
quan hệ cấp dưỡng và quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng (nghĩa
rộng).
Vì quan hệ tài sản của vợ chồng theo nghĩa rộng sẽ không chỉ bao hàm
quan hệ sở hữu giữa vợ chồng mà còn những quan hệ khác liên quan đến tài
sản vợ chồng như quan hệ thừa kế, cấp dưỡng, nên quan hệ tài sản hiểu theo
nghĩa này sẽ bao trùm lên các vấn đề liên quan đến tài sản của vợ chồng, và vì
vậy, nó sẽ mang tính khái quát, hệ thống nhất.
Do đó, Luận văn sẽ phân tích trong phạm vi cơ sở lý luận và thực tiễn
điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng với ý nghĩa là quan hệ sở hữu tài sản,
quan hệ cấp dưỡng và quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng.
3
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn sử dụng một số phương pháp luận
như phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử. Đồng
thời, vận dụng các tư tưởng của Hồ Chí Minh, quan điểm của ĐCS Việt Nam
và Chính phủ Việt Nam về xây dựng và phát triển gia đình.
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác
như phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, phân tích khách
quan cũng như tham khảo, vận dụng thực tế, dự đoán làm nổi bật những nội
dung liên quan đến đề tài.
5. Những điểm mới của Luận văn
- Hệ thống hóa khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc xác định quan hệ
tài sản của vợ chồng;
- Xây dựng một cách tổng thể những cơ sở lý luận và thực tiễn điều
chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam;
- Dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh quan hệ pháp luật
về tài sản của vợ chồng để đưa ra hướng giải quyết triệt để, toàn diện, đồng bộ
và tích cực nhất quan hệ tài sản của vợ chồng, đồng thời, đề xuất, kiến nghị
một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về quan hệ tài sản
của vợ chồng, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của vợ, chồng, của
nhà nước và xã hội, góp phần xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
6. Kết cấu Luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành ba chương, cụ thể:
Chương 1. Khái quát chung về quan hệ tài sản của vợ chồng
Chương 2. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh quan hệ tài
4
sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000
Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản vợ
chồng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật điều chỉnh
quan hệ tài sản của vợ chồng trong giai đoạn hiện nay
Luận văn được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng
dẫn, gia đình, bạn bè và nỗ lực của bản thân. Tuy nhiên, với khả năng còn hạn
chế, Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và người đọc.
5
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
1.1. Khái niệm quan hệ tài sản của vợ chồng
1.1.1. Khái niệm hôn nhân
Việc xác định một cách đúng đắn, đầy đủ khái niệm về hôn nhân có ý
nghĩa rất quan trọng. Nó không chỉ tạo cơ sở lý luận cho việc xác định bản
chất pháp lý của hôn nhân, mà nó còn tạo cơ sở để xác định sự tồn tại hay
chấm dứt quan hệ vợ chồng. Thời điểm xác lập hay chấm dứt quan hệ hôn
nhân giữa vợ chồng quyết định đến thời điểm xác lập, thay đổi hay chấm dứt
quan hệ tài sản của vợ chồng.
Thực tế, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm hôn nhân. Theo
quan niệm truyền thống về hôn nhân của Cơ đốc giáo thì “Hôn nhân là sự liên
kết tự nguyện suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà, mà
không vì mục đích nào khác”. Còn theo quan điểm của một số luật gia ở Châu
Âu và Mỹ thì cho rằng “Hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một người nam
và một người nữ với tư cách là vợ chồng”, hoặc “Hôn nhân là hành vi hoặc
tình trạng chung sống giữa một người nam và một người nữ với tư cách là vợ
chồng” [12, tr.1].
Ở Việt Nam, khái niệm hôn nhân đã được pháp điển hóa trong Luật
HN&GĐ năm 2000. Khoản 6 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
"Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn".
Từ những khái niệm hôn nhân nêu trên, có thể hiểu, hôn nhân là sự liên
kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà, trên cơ sở hoàn toàn tự
nguyện, bình đẳng, theo điều kiện và trình tự do pháp luật quy định, nhằm
chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc và bền vững.
6
1.1.2. Khái niệm tài sản của vợ chồng
Trong đời sống hàng ngày, tài sản đóng vai trò quan trọng trong việc đáp
ứng nhu cầu chung của gia đình, tạo điều kiện để vợ chồng có thể tham gia
vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế gia đình, hay nhu cầu bản thân cá nhân vợ hoặc chồng. Vì vậy, vấn đề khái
niệm tài sản qua đó xác định giới hạn về tài sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc xác định quan hệ tài sản của vợ chồng.
Điều 163 BLDS năm 2005 của Nhà nước ta quy định: “Tài sản bao gồm
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
Tuy nhiên, quan hệ HN&GĐ, trong đó giữ vai trò quan trọng là quan hệ
tài sản của vợ chồng, mang tính đặc thù. Bởi, những quan hệ ấy gắn liền với
những chủ thể nhất định và chỉ phát sinh, thay đổi hay chấm dứt khi quan hệ
hôn nhân phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt. Vì vậy, trên cơ sở Điều 163
BLDS nói trên và các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 có thể đưa ra
một khái niệm chung về tài sản của vợ chồng là: Tài sản của vợ chồng bao
gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng.
Nhưng khái niệm tài sản này mới chỉ bao gồm tài sản thuộc quyền sở
hữu mà không bao gồm tài sản nợ thuộc nghĩa vụ tài sản của vợ chồng. Bởi,
vợ, chồng ngoài tư cách là chủ thể của quan hệ HN&GĐ còn là chủ thể của
các quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế... Do đó, họ có thể xác lập các quyền về
tài sản nhưng đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản
phát sinh. Vì vậy, nói đến tài sản của vợ chồng mà chỉ đề cập đến vật và
những lợi ích vật chất khác thuộc quyền mà không đề cập đến các tài sản nợ
mà vợ, chồng có nghĩa vụ thanh toán cho người thứ ba là không đầy đủ. Theo
đó, hiểu theo nghĩa đầy đủ tài sản của vợ chồng bao gồm vật, tiền, giấy tờ có
giá, các quyền và nghĩa vụ về tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng.
7
1.1.3. Khái niệm quan hệ tài sản của vợ chồng
Trong gia đình, bên cạnh đời sống tình cảm, yêu thương giữa vợ chồng,
cần phải có đời sống vật chất, tài sản của vợ chồng vì đó là cơ sở kinh tế bảo
đảm cho gia đình tồn tại và phát triển. Do đó, pháp luật đã dành sự quan tâm
lớn để điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng.
Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 2000 chưa có quy định nào về khái niệm
“quan hệ tài sản của vợ chồng”. Nhưng, từ những khái niệm về hôn nhân,
cũng như khái niệm về tài sản của vợ chồng và những quy định trong Luật
HN&GĐ năm 2000, nhận thấy, khái niệm quan hệ tài sản của vợ chồng có thể
hiểu theo hai nghĩa với hai phạm vi tác động khác nhau: Khái niệm quan hệ
tài sản của vợ chồng có thể hiểu với ý nghĩa là quan hệ sở hữu tài sản của vợ
chồng và với ý nghĩa là quan hệ sở hữu tài sản, quan hệ cấp dưỡng và quyền
thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng.
Điều 164 BLDS quy định quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của
pháp luật. Theo đó, có thể hiểu quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ chồng là quan
hệ về quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt của vợ chồng đối
với tài sản chung và tài sản riêng của mỗi bên.
Mặt khác, với ý nghĩa là quan hệ sở hữu tài sản, quan hệ cấp dưỡng và
quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ chồng, quan hệ tài sản của vợ chồng
hay quan hệ pháp luật về tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản của vợ
chồng, đồng thời xác định những xử sự mà vợ chồng được phép thực hiện liên
quan đến những tài sản đó (thừa kế, cấp dưỡng) trên cơ sở đảm bảo lợi ích
chung của gia đình, của Nhà nước và của xã hội. Quan hệ tài sản của vợ
chồng theo nghĩa này sẽ bao hàm cả những quan hệ khác liên quan đến tài sản
vợ chồng như quan hệ thừa kế, cấp dưỡng, nên nó sẽ bao trùm lên các vấn đề
8
liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Tóm lại, quan hệ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh về quyền sở hữu tài sản, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng, quyền
thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng.
1.2. Đặc điểm quan hệ tài sản của vợ chồng
1.2.1. Chủ thể quan hệ tài sản vợ chồng
Một trong những đặc điểm của quan hệ tài sản của vợ chồng là yếu tố
chủ thể. Chủ thể của quan hệ tài sản vợ chồng chỉ có thể là công dân (thể
nhân), nghĩa là con người xác định.
Cá nhân muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật về tài sản của vợ
chồng phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
- Năng lực pháp luật về quan hệ tài sản của vợ chồng là khả năng của cá
nhân có quyền và nghĩa vụ về quan hệ tài sản của vợ chồng.
Để trở thành chủ thể của quan hệ tài sản của vợ chồng, cá nhân không
chỉ đảm bảo điều kiện về năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự mà
còn phải đủ điều kiện về năng lực chủ thể theo Luật HN&GĐ.
Bởi, trong một số trường hợp pháp luật HN&GĐ quy định những điều
kiện mà khi có hoặc không có các điều kiện đó thì công dân không thể có các
quyền và nghĩa vụ trong quan hệ tài sản vợ chồng (các điều kiện về độ tuổi
kết hôn, điều kiện về sự tự nguyện, không vi phạm các điều cấm kết hôn).
Ví dụ, việc cấm kết hôn giữa những người có quan hệ thân thuộc về trực
hệ. Điều đó có nghĩa là những người có quan hệ thân thuộc về trực hệ thì
không thể kết hôn với nhau, kéo theo đó là không thể tồn tài quan hệ tài sản
vợ chồng giữa họ được.
- Năng lực hành vi là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình tạo ra
9
cho bản thân những quyền và nghĩa vụ về quan hệ tài sản của vợ chồng. Vì
năng lực pháp luật về quan hệ tài sản của vợ chồng của cá nhân chỉ phát sinh
khi cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định (độ tuổi kết hôn) nên năng lực hành
vi của cá nhân cũng phát sinh từ khi phát sinh năng lực pháp luật, tất nhiên,
trừ những người mắc bệnh tâm thần.
Đồng thời, một cá nhân, công dân, muốn trở thành chủ thể của quan hệ
pháp luật về tài sản của vợ chồng thì không những họ phải đảm bảo đủ điều
kiện về năng lực pháp luật và năng lực hành vi mà quan hệ hôn nhân (quan hệ
vợ chồng) của họ phải được công nhận theo trình tự, thủ tục luật định. Nghĩa
là, chủ thể đó phải đảm bảo đã thực thi năng lực hành vi của mình trên thực
tế, nghĩa là họ phải đăng ký kết hôn và được trao Giấy chứng nhận kết hôn.
Do đó, Giấy chứng nhận kết hôn có một ý nghĩa quan trọng để xác định chủ
thể của quan hệ tài sản của vợ chồng.
1.2.2. Yếu tố tình cảm là nét đặc trưng
Trong quan hệ vợ chồng, tình cảm là yếu tố đặc trưng, gắn bó giữa vợ
chồng, nó quyết định việc xác lập, tồn tại hay chấm dứt quan hệ tài sản của vợ
chồng.
Khi hai người nam và nữ có tình cảm thương yêu nhau, họ mới tiến tới
quan hệ hôn nhân và trở thành vợ chồng, các quyền và nghĩa vụ về tài sản của
vợ chồng mới phát sinh. Đồng thời, các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ
chồng cũng chỉ được thực hiện trên cơ sở tình cảm gắn kết giữa vợ và chồng.
Ví dụ: vợ, chồng thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung nhằm đáp ứng
nhu cầu đời sống chung của vợ chồng, thể hiện tình yêu thương, chăm sóc lẫn
nhau giữa vợ chồng.
Chính nét đặt trưng này dẫn đến đặc điểm là quyền và nghĩa vụ tài sản
giữa vợ chồng trong Luật HN&GĐ không mang tính chất đền bù, ngang giá
10
và thường gắn liền với nhân thân của các chủ thể không thể chuyển dịch cho
người khác. Điều này khác hẳn với quan hệ tài sản trong pháp luật dân sự,
quan hệ mang tính chất đền bù, ngang giá, tính chất hàng hoá tiền tệ và có thể
chuyển dịch cho người thứ ba thông qua thoả thuận. Trong quan hệ pháp luật
dân sự thì các chủ thể tham gia nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của
mình trên cơ sở thoả thuận hoặc do pháp luật quy định. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp cũng có thể xuất phát từ yếu tố tình cảm như tặng cho, thừa kế
theo di chúc... nhưng không mang tính chất thường xuyên, không thể hiện nét
đặc trưng như trong quan hệ pháp luật tài sản của vợ chồng.
1.2.3. Quan hệ tài sản của vợ chồng nhằm bảo đảm quyền lợi của gia
đình, trong đó có lợi ích cá nhân của vợ, chồng
Gia đình có một vị trí, vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Vì vậy, những quy định của pháp luật về quan hệ tài sản của vợ
chồng trước hết là bảo vệ quyền lợi của gia đình, qua đó duy trì và phát triển
gia đình bền vững, đảm bảo ổn định xã hội. Ví dụ việc Luật quy định các căn
cứ, nguồn gốc, phạm vi các loại tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng,
theo đó, vợ, chồng sử dụng các loại tài sản này để đảm bảo đời sống chung
của gia đình, đảm bảo lợi ích của gia đình. Hoặc xuất phát từ việc đảm bảo
đời sống chung của gia đình, vì lợi ích của vợ, chồng, con cái, pháp luật quy
định các trường hợp do một bên vợ, chồng ký kết với người khác vì nhu cầu
thiết yếu của gia đình được coi là có hiệu lực, bên kia (chồng hoặc vợ) phải
chịu trách nhiệm liên đới. Đặc biệt, với việc thừa nhận nguyên tắc suy đoán
tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ
năm 2000 (Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ,
chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản
chung) đã thể hiện rõ rằng việc quy định quan hệ tài sản của vợ chồng trước
tiên và chủ yếu là nhằm bảo vệ quyền lợi của gia đình.
11
Pháp luật về tài sản của vợ chồng cũng bảo vệ các lợi ích cá nhân của vợ
hoặc chồng. Nó là cơ sở, là điều kiện để vợ, chồng chủ động thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình đối với tài sản của vợ chồng. Đó là những lợi ích
về vật chất được thực hiện trong các quyền về quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ
chồng, quyền về cấp dưỡng giữa vợ và chồng, và quyền về thừa kế tài sản của
nhau giữa vợ và chồng.
1.2.4. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ có những điểm đặc thù hay
giới hạn nhất định
Việc thực hiện quyền hay nghĩa vụ của vợ hoặc chồng với quan hệ tài
sản của vợ chồng có những điểm đặc thù hoặc giới hạn nhất định mà trong
quan hệ pháp luật dân sự không có.
Đối với tài sản chung của vợ chồng, khi tham gia các giao dịch dân sự,
kinh tế, vợ chồng phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình. Thông thường,
khi vợ, chồng sử dụng tài sản chung để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của
gia đình thì pháp luật luôn coi là có sự thỏa thuận đương nhiên của cả hai vợ
chồng, trừ những tài sản chung có giá trị lớn.
Trong một số trường hợp, quyền của vợ, chồng đối với tài sản riêng của
mình bị giới hạn. Thông thường, đối với tài sản riêng, người sở hữu tài sản đó
có quyền tự mình định đoạt tài sản, không phụ thuộc vào ý chí của người
khác. Nhưng, xuất phát từ lợi ích chung của gia đình mà quyền năng này của
người chồng hay người vợ đối với tài sản riêng bị pháp luật hạn chế.
Ví dụ: nếu tài sản riêng của vợ, chồng đang là nguồn sống duy nhất của
cả gia đình thì khi định đoạt tài sản này phải có sự thỏa thuận của hai vợ
chồng; hoặc hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng (không
phải là tài sản riêng có được do chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân) được coi là tài sản chung của vợ chồng.
12
1.3. Ý nghĩa của việc xác định quan hệ tài sản của vợ chồng
1.3.1. Là điều kiện để nhà nước điều tiết và quản lý các quan hệ xã hội
Quan hệ tài sản của vợ chồng, trong đó bao gồm quyền sở hữu tài sản
của vợ chồng; quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ, chồng; quyền thừa kế tài
sản của nhau giữa vợ, chồng là đối tượng tôn trọng và bảo vệ của pháp luật
nói chung và pháp luật HN&GĐ nói riêng. Vì quan hệ tài sản của vợ chồng là
một trong những quan hệ pháp luật phổ biến nhất trong xã hội.
Hơn nữa, trong suốt thời kỳ hôn nhân, vợ chồng không chỉ có quan hệ về
tài sản với nhau mà còn có các quan hệ tài sản khác của chung vợ chồng hay
của riêng vợ, chồng khi tham gia các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại.
Quan hệ tài sản của vợ chồng là loại quan hệ xã hội được pháp luật của nhà
nước điều chỉnh. Nhờ có các quy định của pháp luật về quan hệ tài sản của vợ
chồng như các quy định về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng; quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng... mà các giao
dịch dân sự, kinh tế, thương mại mới được đảm bảo thực hiện, quyền, lợi ích
hợp pháp của vợ, chồng và người tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của
vợ chồng mới được đảm bảo. Thông qua hệ thống của quy định của pháp luật
về quan hệ tài sản của vợ chồng, trật tự pháp lý được bảo vệ, các quan hệ xã
hội mới được quản lý và điều tiết phù hợp.
Vì vậy, xác định quan hệ tài sản của vợ chồng có ý nghĩa đặc biệt, là điều
kiện quan trọng để nhà nước điều tiết và quản lý các quan hệ xã hội, đảm bảo
sự kết hợp chặt chẽ và hài hòa các lợi ích của vợ, của chồng, của người tham
gia qan hệ giao dịch với vợ, chồng, cũng như của nhà nước, của xã hội. Trên
cơ sở đó, giúp nhà nước quản lý và điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan
đến tài sản của vợ chồng, đưa chúng vào quỹ đạo chung mà Nhà nước đề ra,
để nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển xã hội bền vững, công bằng, dân chủ
và văn minh.
13
1.3.2. Là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ chồng
về tài sản
Quyền sở hữu của vợ chồng; quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ,
chồng; quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ, chồng phải được xác lập trên
cơ sở những căn cứ do pháp luật quy định, nhằm mục đích xác định tính hợp
pháp, hình thức sở hữu, điều kiện, thủ tục... nhất định. Qua đó, Nhà nước xây
dựng cơ chế pháp lý đảm bảo việc thực hiện các quyền của vợ, chồng; là điều
kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của vợ, chồng, tránh những tranh chấp xảy ra
làm tổn thương đến tình cảm và sự đoàn kết trong gia đình.
Việc quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng trong quan hệ tài sản
của vợ chồng là một minh chứng rõ nét, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của vợ, chồng về tài sản. Ví dụ như
trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể chia tài sản chung để một bên vợ,
chồng thực hiện đầu tư kinh doanh riêng. Điều này không chỉ đảm bảo quyền
lợi cho người vợ hoặc chồng khi có nhu cầu đầu tư kinh doanh khi bên còn lại
không muốn kinh doanh (do lĩnh vực này tiềm ẩn nhiều rủi ro), mà nó còn
đảm bảo quyền lợi cho bên còn lại khi việc đầu tư kinh doanh đó không hiệu
quả.
Quy định về quan hệ tài sản của vợ chồng cũng tạo cơ sở pháp lý để vợ
chồng thực hiện sự dân chủ và bình đẳng trong các quan hệ về tài sản. Nó quy
định và tạo điều kiện, khuyến khích vợ chồng có trách nhiệm đối với gia đình
của mình, cùng sát cánh bên nhau, đồng tâm hiệp lực xây dựng cơ sở vật chất
cho cuộc sống gia đình. Vợ chồng cùng nhau thỏa thuận bình đẳng, lựa chọn
những hình thức quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản phù hợp nhất để xây
dựng và củng cố gia đình. Đồng thời, đảm bảo các tiền đề vật chất cho tính
độc lập của vợ, chồng, giúp họ không chỉ thực hiện tốt vai trò của người vợ,
người chồng trong gia đình, mà còn thực hiện tốt vai trò của người công dân,
14
thành viên của xã hội.
1.3.3. Là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người
thứ ba có quan hệ giao dịch về tài sản với vợ chồng
Khi vợ, chồng thiết lập các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại bằng tài
sản của mình, tất yếu sẽ liên quan đến quyền lợi của người thứ ba. Những
người này khi có quan hệ về tài sản với vợ, chồng, họ cần phải biết giao dịch
mà họ tiến hành liên quan đến tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng
của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản đó như thế
nào. Qua đó, người thứ ba biết giao dịch được bảo đảm thực hiện bằng tài sản
nào và ở mức độ bao nhiêu.
Pháp luật của một số nước thường quy định quan hệ tài sản của vợ chồng
phải được niêm yết, thông báo tại nơi cư trú của vợ chồng khi đăng ký kết
hôn. Quy định này sẽ đảm bảo các thông tin tối thiểu cần có để người thứ ba
có thể yên tâm thực hiện các hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại với vợ
hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng.
Ở Việt Nam, Điều 25 Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định: vợ hoặc
chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do
một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của
gia đình. Quy định này không chỉ đảm bảo quyền lợi của gia đình mà còn đảm
bảo quyền lợi của người thứ ba khi tham gia giao dịch, bởi lúc này, tài sản để
bảo đảm cho giao dịch được thực hiện sẽ có thể được tăng lên, đồng nghĩa với
việc người thứ ba sẽ có cơ sở thuận lợi để thực hiện giao dịch với vợ, chồng.
Vì vậy, việc xác định quan hệ tài sản của vợ chồng sẽ là tiền đề quan
trọng tạo môi trường pháp lý thuận lợi, ổn định để vợ chồng tham gia các
quan hệ xã hội, nhằm phát triển kinh tế gia đình, đồng thời bảo vệ quyền và
lợi ích của người thứ ba khi tham gia quan hệ tài sản với vợ chồng.
15
- Xem thêm -