Chuyên đề: MỘT SỐ ĐỔI MỚI VỀ NGHỆ THUẬT CỦA VĂN XUÔI SAU 1975
MÃ: V08
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
Nền văn học Việt Nam là một bộ phận trong đời sống văn hóa tinh thần của đất
nước, luôn đồng hành cùng dân tộc trên những chặng đường lịch sử, gắn bó với tổ quốc
và nhân dân. Trên mỗi chặng đường phát triển của mình, văn học nước nhà luôn sánh
bước cùng những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. Trong 30 năm cách mạng và chiến
tranh (1945 – 1975), nền văn học ấy đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước và chủ nghĩa
anh hùng ở mỗi con người và mọi tầng lớp nhân dân, để hướng tới mục tiêu cao cả: Độc
lập – Tự do và chủ nghĩa xã hội. Từ sau tháng 4 năm 1975, nền văn học cũng từng bước
chuyển mình trong sự vận động của hoàn cảnh xã hội – lịch sử và sự biến đổi trong nhu
cầu về văn hóa, tinh thần của công chúng.
Có thể nói văn học Việt Nam sau 1975, văn xuôi đã có nhiều khởi sắc. Dĩ nhiên
không phải ai cũng thừa nhận sự khởi sắc đó. Thậm chí có người còn cho là có bước thụt
lùi. Trong bài Thời kỳ văn học vừa qua và xu hướng phát triển của văn học, với tất cả
sự thận trọng của một nhà nghiên cứu có kinh nghiệm, Hoàng Ngọc Hiến đã khẳng định :
"Thời kỳ văn học từ 1975 đến nay đặc biệt quan trọng cho sự định hướng sắp tới… Đến
nay đã 15 năm nhưng vẫn còn là sớm để thấy hết chân giá trị của những tác phẩm ra đời
và những tác giả xuất hiện được chú ý thời kỳ này, một thời kỳ phong phú các hiện tượng
văn học". Và theo ông, đây là thời kỳ của "một sự kinh nghiệm - bừng tỉnh" . Với tư cách
là Chủ tịch hội đồng văn xuôi Hội nhà văn Việt Nam, nhà văn Bùi Hiển nhận xét : "Ngay
từ đầu những năm 80, đặc biệt là trong văn xuôi, sân khấu và điện ảnh đã bắt đầu xuất
hiện những sáng tác mang nhiều sắc thái mới”. Theo chúng tôi, đây là những nhận xét
phù hợp với sự phát triển của văn xuôi sau 1975.
Tìm hiểu, đánh giá văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 đã không chỉ là một nhu
cầu của hoạt động phê bình, của các nhà nghiên cứu mà đã trở thành một đòi hỏi của
công việc dạy và học văn trong nhà trường phổ thông. Thời gian qua đã có nhiều công
trình nghiên cứu về văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975, những công trình ấy đã có
đóng góp đáng kể trong việc đưa ra cái nhìn tổng quan về diện mạo và tiến trình văn học
1
Việt Nam giai đoạn này. Tuy vậy, chúng ta vẫn cần có những công trình tìm hiểu chuyên
sâu, làm rõ những vấn đề cụ thể nhằm đem đến cái nhìn rõ nét hơn, biệt là sự đổi mới về
nghệ thuật của văn xuôi giai đoạn này.
Với những lí do nêu trên chúng tôi lựa chọn Chuyên đề: Một số đổi mới về nghệ
thuật của văn xuôi sau 1975.
II. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu một số đổi mới nghệ thuật của văn xuôi sau 1975, chúng tôi mong muốn
đem đến một cái nhìn cụ thể, rõ nét hơn về diện mạo cũng như sự phát triển của văn học
nước nhà trong gian đoạn 1975 đến nay về phương diện nghệ thuật. Từ đó, chuyên đề
hướng đến khai thác nét kế thừa và thành tựu đạt được của văn học nước nhà trong giai
đoạn này.
Với học sinh : Giúp học sinh nâng cao năng lực phân tích, đánh giá, thẩm bình, để
hiểu sâu sắc giá trị tác phẩm văn học cũng như lí giải được bước phát triển của nền văn
học nước nhà nói chung và của một giai đoạn văn học nói riêng qua việc nghiên cứu sự
biến đổi về nghệ thuật của một giai đoạn văn học. Giúp các em học sinh có kĩ năng khái
quát, tổng hợp so sánh đánh giá sự biến đổi về nghệ thuật của các giai đoạn văn học.
Với giáo viên: Đây có thể được coi là cơ sở là tư liệu để giáo viên có cái nhìn sâu
sắc và toàn diện hơn về một giai đoạn văn học, đặc điểm của mỗi giai đoạn, với những
tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
III. Phạm vi nghiên cứu.
Bất cứ một nền văn học nào cũng phát triển qua những giai đoạn nhất định. Mỗi
giai đoạn phát triển của nền văn học lại có những vị trí, vai trò riêng không đồng nhất. Để
đánh giá được giá trị cũng như nhận ra sự biến đổi riêng đặc sắc cần phải nhìn nhận một
cách cụ thể, tỉ mỉ. Cơ sở để thực hiện những nghiên cứu cũng như đánh giá là dựa vào
những tác giả, tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn văn học đó.
Đề tài này chủ yếu dựa trên những nghiên cứu, đánh giá về các tác giả, tác phẩm
tiêu biểu của giai đoạn văn học 1975 đến nay để tìm hiểu những biến đổi về nghệ thuật
của văn xuôi sau 1975.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp mô tả, phân tích, so sánh, bình giảng…
2
PHẦN NỘI DUNG
I. Bối cảnh lịch sử - xã hội sau 1975 và đòi hỏi đổi mới văn học
Tháng 4 năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi. Đất nước
thống nhất, bước vào thời kì khôi phục và phát triển. Hoàn cảnh lịch sử đem đến những
thời cơ và thuận lợi mới nhưng cũng có vô vàn những khó khăn và thử thách chờ đợi phía
trước. Chiến tranh đi qua để lại những hậu quả nặng nề, con người bước từ thời chiến trở
lại thời bình không dễ dàng để hòa nhập và thích nghi với môi trường mới. Hơn hai mươi
năm chia cắt với sự đối lập về hệ tư tưởng, chính trị và những khác biệt về kinh tế, văn
hóa còn cần nhiều thời gian nữa mới có thể xóa nhòa đi những cách biệt ấy. Nền kinh tế
vốn lạc hậu, thấp kém của xứ thuộc địa mới giành được độc lập lại bị chiến tranh tàn phá
làm cho kiệt quệ và càng tụt hậu trong khu vực khiến nước ta rơi vào trong số những
nước nghèo của thế giới. Cùng với những khó khăn chồng chất thời hậu chiến mà bất cứ
nước nào vừa trải qua chiến tranh đều phải gánh chịu, chúng ta còn bị rơi vào tình thế
khó khăn gấp bội bởi chính sách cấm vận, cô lập của các thế lực đề quốc thù địch, bởi sự
khủng hoảng tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và sự xụp đổ của Liên bang
Xô viết. Thêm vào đó, còn là hậu quả của những chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội
nặng về duy ý chí, chủ quan nóng vội.
Nhưng với sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của dân tộc, đường lối đổi mới của Đảng
đã dần đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng. Đại hội VI của Đảng (1986) với những chính
sách, chỉ đạo kịp thời đã đưa nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới. Công cuộc đổi
mới khiến đất nước ta có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, làm biến đổi đời sống vật
chất tinh thần của cả dân tộc. Nền kinh tế thị trường với những mặt tích cực và tiêu cực
ảnh hưởng sâu sắc tới mỗi người và cuộc sống của cả dân tộc. Con đường đi lên và đổi
mới đất nước đã rõ ràng nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ và thách thức.
Từ chiến tranh sang hòa bình, từ nền kinh tế tập trung, bao cấp chuyển sang kinh tế
thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa, từ mối quan hệ về chính trị, kinh tế hầu như chỉ
khép kín đến chủ trương mở cửa, hội nhập, những điều đó tất yếu kéo theo nhiều thay đổi
về mặt xã hội. Trong chiến tranh, cuộc sống cá nhân, riêng tư của mỗi người phải thu
hẹp, nhường chỗ cho đời sống chung của tập thể, của dân tộc. Con người cá nhân ít được
3
chú ý mà thay vào đó con người được nhìn nhận đánh giá trước hết ở tư cách con người
của dân tộc, của nhân dân, của cách mạng.
Chiến tranh là một hoàn cảnh khác thường bởi vậy con người ở trong đó cũng
không thể sống cuộc sống bình thường. Hơn nữa chiến tranh kéo dài khiến con người khi
trở lại cuộc sống bình thường, đối diện với những phức tập, ngổn ngang, muôn vẻ của
cuộc sống, khiến họ ngỡ ngàng, bối rối. Những giá trị (xã hội, đạo đức, nhân cách…) bền
vững trước đây giờ thay đổi, thậm chí xung đột. Điều đó khiến tâm lí con người cũng có
nhiều xáo trộn. Điều đó đòi hỏi những chuẩn mực và giá trị mới cho đời sống.
Văn học Việt Nam trong 30 năm (1945 – 1975) đã làm tròn xứ mệnh cao cả của
một nền văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu vì tổ quốc, dân tộc, nhân dân. Nền
văn học ấy giờ đây chịu sự tác động mạnh mẽ của những biến đổi của đời sống xã hội,
văn hóa, tư tưởng, đặc biệt là những thay đổi trong nhu cầu về quan điểm thẩm mĩ đòi hỏi
văn học phải đổi mới. Nhìn chung sự đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975 diễn ra qua
ba chặng. Giai đoạn từ 1975 đến 1985 là thời kỳ chuyển tiếp từ văn học theo khuynh
hướng sử thỉ thời chiến sang văn học thời hậu chiến; giai đoạn từ 1986 đến thập kỉ 90 là
thời kì văn học đổi mới sôi nổi và mạnh mẽ gắn liền với chặng đầu của công cuộc đổi
mới đất nước. Từ giữa những năm 1990 đến nay, văn học trở lại với những qui luật bình
thường và hướng sự quan tâm nhiều hơn vào những cách tân nghệ thuật.
II. Một số đổi mới về nghệ thuật của văn xuôi sau 1975
1. Đổi mới về tư duy nghệ thuật
Trước hết có thể thấy rất rõ bước phát triển của văn xuôi trên bình diện tư duy
nghệ thuật. Văn xuôi của ta sau 75 đã chuyển dần từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết . Văn xuôi trước 75 chủ yếu là văn xuôi sử thi. Và sự tiếp cận này về cơ bản là phù
hợp với đối tượng mà nó phản ánh, cảm hứng mà nó bộc lộ. Với kiểu tiếp cận này, văn
xuôi giai đoạn này cũng đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Sau 1975, hiện thực đời sống
đã khác trước, cần phải có cách tiếp cận phù hợp. Điều đó đòi hỏi đổi mới tư duy nghệ
thuật. Tư duy nghệ thuật đã dần dần chuyển sang tư duy tiểu thuyết là phù hợp với đối
tượng phản ánh và là một quá trình tất yếu trong sự phát triển của văn học.
Thật ra, tư duy tiểu thuyết không phải không có trong văn xuôi giai đoạn trước.
Trong văn xuôi 1930 - 1945 mà biểu hiện rõ nhất là trong văn xuôi hiện thực phê phán tư
4
duy tiểu thuyết đã chiếm một vị trí đáng kể. Nhưng với văn học cách mạng 1945 - 1975
do đề cập đến những vấn đề lớn lao của dân tộc, của cách mạng nên tư duy sử thi chiếm
ưu thế. Đúng như Hoàng Ngọc Hiến nhận xét : "Trong văn xuôi ta, tư duy tiểu thuyết
thoảng hoặc bộc lộ ở một số tác phẩm đơn lẻ : Cha và con, và… của Nguyễn Khải, Thời
xa vắng của Lê Lựu, nói chung tư duy sử thi chiếm ưu thế". Phải đến sau 75 và nhất là từ
thập niên 80 tư duy nghệ thuật mới chuyển dân từng bước từ tư duy sử thi sang tư duy
tiểu thuyết. Có thể thấy quá trình chuyển biến này trong cả lớp nhà văn đã được khẳng
định cũng như ở lớp nhà văn mới, xuất hiện trong thời kỳ này. Đọc những Tâm tưởng của
Bùi Hiển, Gió từ miền cát của Xuân Thiều, Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú
Nam,… đã bắt đầu thấy có cách tiếp cận khác trước. Ở đây không chỉ ngợi ca khâm phục
mà còn là sự phân tích, lý giải các hiện tượng của hiện thực. Nếu trước đây chủ yếu là
cách nhìn đơn diện, rạch ròi thiện ác, địch ta, cao cả thấp hèn… thì bây giờ cách nhìn
nhiều chiều hơn, đa diện hơn, phức tạp hơn. Đến Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê
Lựu và nhất là ở lớp nhà văn trẻ sau 1975 cách nhìn tiểu thuyết mới thật sự chiếm vị trí
chủ yếu và trở nên có sức thuyết phục trong việc nắm bắt và lý giải hiện thực.
Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu xuất hiện sau 1975 đã gây nên tranh luận khá
sôi nổi. Nhiều người cho rằng anh đã "xa đề tài trung tâm", rằng trong sáng tác của anh
"chủ đề không rõ ràng", rằng những nhân vật mà anh đề cập là "dị thường", "không có
trong hiện thực"… Thật ra Nguyễn Minh Châu đã tiếp cận hiện thực từ một cách khác,
cách nhìn tiểu thuyết nghiêng về khía cạnh đời tư, khía cạnh đời sống cá nhân phức tạp.
Từ đó nhằm nêu lên những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh rộng lớn, không chỉ dừng lại ở
chiến đấu và xây dựng. Những ai quen với cách đọc cũ, cách tiếp cận cũ dễ dàng từ chối
cách viết này. Một chiếc thuyền ngoài xa là đề tài quen thuộc về một ngư phủ trong
sương, nhưng cũng có thể ẩn chứa trong đó nỗi đau số phận con ngưới, biết bao cay đắng,
nhục nhã, nhọc nhằn mà vẫn phải chấp nhận (Chiếc thuyền ngoài xa). Bức tranh chân
dung người chiến sĩ có thể làm người họa sĩ được giải thưởng quốc tế, mà cũng có thể vì
nó mà bao bà mẹ trở thành mù lòa vì khóc con. Và đấy chính là nỗi ân hận day dứt suốt
đời của ngưới họa sĩ đã từng được giải quốc tế. Tính nhiều chiều trong cách nhìn hiện
thực đó trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã làm cho truyện ngắn của ông trở nên có
chiều sâu, đậm chất triết luận.
5
Thời xa vắng của Lê Lựu cũng được bạn đọc đón nhận một cách nồng nhiệt. Có lẽ
trước hết là vấn đề mà ông nêu ra : nhận thức lại một thời mới đây thôi mà tưởng như xa
vắng từ thuở nào. Ấy là cái thời con người chỉ tưởng có lạc quan, chỉ là anh hùng mà
không được biết đến bi kịch, nỗi đau riêng tư. Lê Lựu đã chỉ ra khía cạnh ấy. Người anh
hùng Giang Minh Sài đã làm nên bao chiến công vang dội, bao chiến tích vẻ vang nhưng
chính cuộc đời anh đầy cay đắng, bi kịch. Cái mà tác giả quan tâm không phải là những
chiến công, ở sự ngưỡng vọng mà chính là nỗi đau nhân thế của người anh hùng. Thành
công củaThời xa vắng về phương diện tiểu thuyết chính là chính ở chỗ này.
Đặc biệt văn xuôi của một loạt cây bút trẻ đã làm thay đổi hẳn diện mạo của văn
xuôi thời kỳ này, mà nổi bật trong số họ là Nguyễn Huy Thiệp. Có thể nói trong văn xuôi
đương đại của ta, chưa có một tác giả nào vừa xuất hiện mà lại gây tranh luận dữ dội như
Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng không chỉ người khen anh mà cả người chê anh, nói như
Nguyễn Kiên, "những người chê anh dữ dội cũng công nhận anh có tài ". Cái tài của
Nguyễn Huy Thiệp chính là ở chỗ đã thay đổi hẳn cách viết, cách tư duy trong truyện
ngắn mà nói rộng ra là trong văn xuôi. Đó là lối tư duy tiểu thuyết đã có ở Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu… được Nguyễn Huy Thiệp phát triển đến cao độ. Văn xuôi
của ta, nói như Hoàng Ngọc Hiến, chủ yếu là kể lại nội dung chứ chưa phải là văn
xuôi viết lại nội dung. Với văn xuôi kể lại nội dung thì vấn đề quan tâm là kể lại cái gì ?
Còn với văn xuôi viết lại nội dung thì cái quan tâm là kể lại như thế nào? Tâm thế kể lại
nội dung đã đưa văn xuôi trượt theo văn đưa tin, loại văn này bao giờ cũng có độc giả của
nó, nếu đưa tin những chuyện có ý nghĩa giáo huấn sẽ được đánh giá là cần thiết, có ích,
kịp thời… Nếu đưa tin những chuyện lạ, giật gân có khi sẽ được công chúng rộng rãi mến
mộ. Trong văn xuôi viết lại nội dung sự kết hợp "viết cái gì" và "viết như thế nào" tạo ra
sức căng cho câu văn, mạch văn, làm cho câu văn có giọng, có hồn, không bị "bẹt", bị "ỉu
xìu". Văn xuôi của Nguyễn Huy Thiệp cũng như của Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,
Lê Lựu, … thuộc loại "viết lại nội dung". Ở họ, chúng ta thấy không chỉ là việc nêu lên
vấn đề gì, mà còn cả việc nêu vấn đề đó như thế nào nữa. Và do đó tác phẩm của họ
thường mang tính đa nghĩa, nhiều tầng, nhiều lớp. Nếu quen với văn xuôi đơn nghĩa thì
đọc loại này dễ buộc tội là "rối rắm", "khó hiểu"… Với Tướng về hưu chẳng hạn, Nguyễn
Huy Thiệp không chỉ thông tin với bạn đọc về người anh hùng hôm qua giữa đời thường
6
hôm nay, mà ở đây thông qua hình tượng vị tướng giữa đời thường tác giả lại viết lên
những nội dung khác, mà những nội dung đó phải đọc đằng sau những câu chữ, hình
tượng cụ thể : sự băng hoại đạo đức, quan niệm về con người, cuộc đời, các chuẩn mực
về đời sống cần được xem xét lại như thế nào …?
Phải nói rằng tư duy tiểu thuyết ngày càng đắc dụng và chiếm ưu thế trong văn
xuôi sau 1975, nhất là trong truyện ngắn. Nhà văn Nguyên Ngọc đã có một cảm nhận
đúng khi cho rằng : "Một số truyện ngắn gần đây (như Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh
Châu, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh…) lại có
tính chất tiểu thuyết hơn cả những sách có ghi là tiểu thuyết hẳn hoi".
Tư duy tiểu thuyết đã đưa lại sắc diện mới cho văn xuôi không phải chỉ những
mảng đề tài mới được đề cập, mà cả ngay ở mang đề tài vốn quen thuộc như sản xuất,
chiến đấu trước đây. Chẳng hạn ở mảng văn xuôi viết về chiến tranh sau 1975, với cách
nhìn tiểu thuyết cũng có những biến đổi khác trước. Có thể kể ra một số sáng tác như
: Họ cùng thời với những ai của Thái Bá Lợi, Gió từ miền cát của Xuân Thiều, Không
phải trò đùacủa Khuất Quang Thụy… Văn xuôi mảng đề tài này trước đây đều được quan
tâm chủ yếu là chiến công, lòng dũng cảm, tinh thần xả thân vì lý tưởng thì bây giờ
không chỉ là những điều đó mà còn chú ý đến số phận riêng tư của từng cá nhân, từng
con người trong cái khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh. Đọc Không phải trò đùa của
Khuất Quang Thụy người ta thấy là một tiểu thuyết về chiến tranh nhưng rất ít tiếng bom
rơi, đạn nổ. Cái mà tác giả quan tâm ở đây là số phận những người lính trong cuộc chiến
đấu đó như thế nào. Họ hành động, suy nghĩ thể nghiệm mình trong khói lửa chiến tranh.
Và ngọn lửa chiến tranh đã làm lộ ra đâu là những phẩm chất tốt đẹp, đầy lòng nhân ái,
đâu là những kẻ dối trá, phi nhân. Người lính ở đây kông chỉ hát bài hát của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, mà còn là hiện thân của nỗi suy tư về số phận con người trong
chiến tranh.
Sự đổi mới về tư duy nghệ thuật trong văn xuôi sẽ dẫn đến hệ quả tất yếu là thay
đổi các yếu tố thuộc về cơ cấu của văn xuôi như bút pháp, nhân vật trung tâm, hệ vấn đề,
cốt truyện, hệ đề tài, lời văn… Chẳng hạn về bút pháp văn xuôi của ta sau 1975 nhìn
chung thay đổi khác so với trước. Nhà văn Bùi Hiển đã đề cập về vấn đề này : "Theo
nhận xét riêng của tôi về khuynh hướng "hiện đại hóa" trong văn xuôi hiện nay, một
7
trong những đặc điểm bút pháp của nó là trầm tĩnh hơn, tỉnh táo hơn, bớt đi vẻ say sưa,
nồng nhiệt so với những sáng tác trước đây về cách mạng và kháng chiến, tạo một
khoảng cách nhất định với đối tượng miêu tả, do đó bình thản hơn, trí tụê hơn, thấm đậm
hơn giọng điệu phê phán, bình giá, trên cơ sở một cái nhìn thiên về bề sâu tâm tưởng, ý
nghĩa nhân sinh, tuy nhiên không vì thế mà lạnh lùng khô héo, trái lại nữa, qua giọng điệu
lời văn ta vẫn thấy cái hơi ấm nhân tình". Cái mà nhà văn Bùi Hiển nêu lên về mặt bút
pháp như trầm tĩnh hơn, tỉnh táo hơn, ít vẻ say sưa nồng nhiệt và thấm đậm giọng điệu
phê phán, bình giá… thực chất là kết quả của tư duy tiểu thuyết, của cách tiếp cận tiểu
thuyết đối với hiện thực. Cũng như giọng hào hùng của văn chương một thời là kết quả
của cảm hứng sử thi, tư duy sử thi.
Không chỉ bút pháp thay đổi, nhiều phương diện khác của văn xuôi cũng được biến
đổi cho phù hợp, đặc biệt là về thể tài, một bước phát triển đáng chú ý của văn xuôi sau
1975.
Văn xuôi 1945 - 1975 về thể tài mà nói thì thể tài lịch sử - dân tộc chiếm vị trí chủ
đạo, quyết định toàn bộ diện mạo thể tài, hệ thống thể loại của văn xuôi ta. Và do đó, văn
xuôi ở thời kỳ này có tham vọng trở thành bức tranh hoành tráng về lịch sử dân tộc.
Trong văn xuôi ở thời kỳ này, thể tài đời tư và thể tài thế sự giữ một vị trí thứ yếu không
đáng kể. Nói chính xác hơn, thể tài đời tư và thể tài đạo đức thể sự không phải hoàn toàn
vắng bóng trong những giai đoạn này. Những chuyện đổi đời nhờ cách mạng, những
chuyện con người lớn lên nhờ cách mạng, hay những chuyện gác tình riêng vì việc
chung… đầy rẫy trong văn học giai đoạn này không thể không khai, thác những yếu tố
đời tư. Nhưng những chuyện đời tư như vậy thường trở thành một yếu tố chức năng của
thể tài lịch sử dân tộc, bị chi phối và phối thuộc vào thể tài này. Ngoài chức năng phối
thuộc này, thể tài đời tư cũng như thể tài đạo đức - thể sự ít phát triển với tư cách là thể
tài độc lập.
Khác với giai đoạn trước, giai đoạn sau 1975, thể tài đời tư và thể tài đạo đức - thế
sự phát triển mạnh mẽ, và dần dần trở thành thể tài chính yếu của văn xuôi sau 1975. Có
thể kể đến các tác giả và các tác phẩm thuộc thể tài này như Nguyễn Khải với Cha và
con, và…, Giữa cõi nhân gian bé tí…; Nguyễn Minh Châu với Bức tranh, Bến quê,
Khách ở quê ra… ; Vũ Huy Anh với Cuộc đời bên ngoài ; Vũ Tú Nam với Sống với thời
8
gian hai chiều ; Lê Lựu với Thời xa vắng, Dương Thu Hương với Những bông bần li,
Ngôi nhà trên cát… ; Bùi Hiền với Tâm tưởng ; Xuân Thiểu với Gió từ miền cát, Người
mẹ tội lỗi ; Nguyễn Huy Thiệp với các truyện ngắn trong Tướng về hưu,Nguyễn Quang
Lập với Một giờ trước lúc rạng sáng, Những mảnh đời đen trắng ; Phạm Thị Hoài với Mê
lộ, Thiên sứ ; Ma Văn Kháng với Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá
thú; Trần Văn Tuấn vớiNgày thứ bảy u ám, Ngày không giờ v.v…, và v.v…
Phát triển thể tài thế sự đời tư văn chương có khả năng đi sâu vào ngõ ngách tâm
hồn con người, suy nghĩ cặn kẽ về các trạng thái nhân thế, nhất là trong hoàn cảnh một xã
hội từ trong chiến tranh ba mươi năm bước sang đời sống hòa bình đầy phức tạp và thử
thách. Con người bình thường, con người đời thường được miêu tả sâu sắc. Nhiều truyện
ngắn, truyện vừa và cả tiểu thuyết nữa đã tập trung miêu tả những con người bất hạnh với
những bi kịch đời họ. Đấy là cái bi kịch của một thời con người tự hy sinh cá nhân để
vươn tới cái tập thể một cách giản đơn, cứng nhắc để rồi suốt đời thất bại (Thời xa
vắng). Đấy là cái bi kịch chấp chới giữa danh vọng và tình yêu với những tính toán thấp
hèn không dám chịu trách nhiệm cuối cùng đều trở thành ảo ảnh cả (Bên kia bờ ảo
vọng).Đấy còn là những bi kịch của những ân hận xót xa, dằn vặt vì những lỗi lầm mà
con người vô tình hay cố ý gây ra (Con ăn cắp, Bức tranh)… Trong văn xuôi có một
khuynh hướng nổi lên rất rõ là khuynh hướng nhận thức lại một thời. Có người xem đó
là thời xa vắng, có người xem đó là một thời lãng mạn, lại có người xem đó là thời
của những thiên đường mù… Dù những nhìn nhận ngày có chỗ phải bàn lại, nhưng với
cách nhìn đó hiện thực được đào sâu hơn, và cái quan trọng là mang đến trong văn
xuôi tính phân tích, tính triết luận rất đáng quan tâm. Đây là cái phẩm chất mà văn xuôi
một thời thiếu vắng. Bởi như chúng ta đã biết, văn xuôi sử thi rất giàu chất thơ, thấm đẫm
chất tráng ca, nhưng đó là văn xuôi ca ngợi những vẻ đẹp khác nhau của con người và xã
hội trên bình diện lịch sử - dân tộc, do đó nó ít tính chất phân tích lý giải. Văn xuôi thế sự
trái lại đầy nếm trải, suy tư, chiêm nghiệm, phanh phui, mổ xẻ sự vật hiện tượng để đi
đến cùng cái bản chất của nó.
Cái "trạng thái thái nhân thế" trong văn xuôi sử thi không phải không có, nhưng ở
đó chủ yếu vẫn là trạng thái thời thế của vận mệnh lịch sử dân tộc. Với trạng thái đó,
người ta thường nói tới "nhân dân ta, thời đại ta, đất nước ta". Còn phương diện thời thế
9
như là nhân tình thế thái mà con người tồn tại, suy ngẫm trong đó ít được đề cập. Trong
văn xuôi sau 1975, trạng thái nhân thế này không những được đề cập mà còn được cắt
nghĩa, phân tích, lý giải. Người đọc thấy mình cũng được soi mình trong trạng thái nhân
thế đó. Đọc Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, người đọc thấy sự phát triển xô
bồ của Lý cũng như sự phát triển đơn giản của ông trong đời sống cá nhân đều là sự phản
ảnh của những trạng thái nhân thế khác nhau mà xã hội chúng ta đã và đang trải qua. Nêu
điều này tác phẩm có ý nghĩa cảnh tỉnh và nhận thức rất sâu sắc. Các trạng thái nhân tình
thế thái trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Dạ Ngân, Phạm Thị
Hoài, trong tiểu thuyết của Nguyễn Khải, Trần Văn Tuấn, Ma Văn Kháng, Khuất Quang
Thụy, Nguyễn Quang Lập, Lê Lựu đều góp phần đáng kể trong việc nhận thức và lý giải
hiện thực trong thời hiện tại cũng như trong quá khứ.
Có thể nói văn xuôi thế sự, đời tư đã phần nào đáp ứng được nhu cầu phân tích, lý
giải suy tư về con người, xã hội của một thời đầy biến động. Đấy là một bước phát triển
quan trọng của văn xuôi phù hợp với yêu cầu của hiện thực, của đối tượng phản ánh. Và
do đó, văn xuôi sau 1975 cũng đã gặt hái được những thành tựu nhất định.
2. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người dẫn đến sự biến đổi về hệ thống nhân
vật.
Văn xuôi sau 1975 từ bỏ cách nhìn giản đơn, nhất phiến, một chiều về con người
để đi đến cái nhìn con người trong tính phức tạp, đa chiều, luôn vận động và khó nắm bắt.
Trước 1975, trong nền văn học cách mạng tồn tại phổ biến cách phân định nhân vật theo
hai tuyến rõ rệt: tích cực – tiêu cực, tốt – xấu, địch – ta, tiên tiến – lạc hậu… Đó là cách
nhìn con người trong một thế giới bổ đôi mang tính tĩnh tại trong tư duy nghệ thuật của
sử thi, truyện cổ tích, văn chương tải đạo thời trung đại. Nếu như những nhân vật anh
hùng, những con người mới trong văn học trước 1975 thường được miêu tả là như những
con người toàn vẹn, giàu tính lí tưởng và hầu như không có mâu thuẫn, xung đột bên
trong (Núp trong Đất nước đứng lên, Tnú trong Rừng Xà nu, Chị Sứ trong Hòn Đất,
Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng…)thì trong một số sáng tác sau chiến tranh đã xuất
hiện những con người “bất toàn”, có sự vênh lệch giữa phẩm chất người lính, người anh
hùng trong chiến trận với những cách ứng xử của họ trong đời thường với các mối quan
hệ riêng tư (Hai người trở lại trung đoàn của Thái Bá Lợi, Lửa từ những ngôi nhà của
10
Nguyễn Minh Châu). Đến truyện ngắn Bức tranh (1982) thì Nguyễn Minh Châu đã dứt
khoát đi đến cái nhìn con người trong tính phức tạp, bất toàn, trong sự đan xen và xung
đột giữa “ánh sáng và bóng tối”, “rồng phượng lẫn rắn rết”, “thiên thần và ác quỉ”. Tính
phức tạp, biến động, đa diện của con người còn được nhìn nhận và thể hiện với tất cả sự
đa dạng, đầy bất ngờ trong những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng và rất
nhiều nhà văn khác.
Văn học giai đoạn sau 1975 cũng thoát khỏi cách nhìn con người quy vào phương
diện con người xã hội, giai cấp. Văn xuôi sau 1975 mở ra cái nhìn ở nhiều bình diện. Con
người như một thực thể tự nhiên, con người vừa được đặt trong tính cá thể đơn nhất, vừa
trong tính nhân loại phổ quát. Trong xu hướng này, phần bản năng tự nhiên của con
người mà trước đây văn học thường bỏ qua vì bị xem là tầm thường, thấp kém thì nay đã
được nhiều nhà văn đặc biệt quan tâm, thậm chí trở thành tư tưởng cốt lõi trong quan
niệm về con người của họ. Điều này phù hợp với sự thức tỉnh ý thức cá nhân và tinh thần
nhân bản. Nó trở thành động lực và nển tảng tư tưởng của sự đổi mới văn học.
Cùng với việc tiếp cận con người ở nhiều bình diện văn xuôi cũng mở ra sự khám
phá con người trong nhiều tầng bậc. Con người ý thức, tư tưởng, con người trong chiều
sâu của tiềm thức, vô thức, tâm linh. Đời sống tư tưởng của con người cũng được mở
rộng tới nhiều lĩnh vực, không chỉ là tư tưởng chính trị mà chủ yếu là những chiêm
nghiệm triết lí về nhân sinh, thế sự, lịch sử, về bản thể con người. Sự khám phá vào thế
giới tiềm thức, vô thức, đời sống tâm linh đã dẫn đến nhiều phương thức biểu đạt mới
như dòng ý thức, huyền ảo hóa trong các sáng tác của nhiều cây bút thuộc thế hệ đổi
mới(Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương…)
Trên khuynh hướng chú ý đến con người cá nhân, trong văn xuôi sau 1975 ở nhiều
nhà văn đã làm rõ nét hơn quan niệm này. Người ta thấy con người sám hối, con người
thức tỉnh, con người nhận đường và đầy suy tư dằn vặt trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu. Con người cô đơn đầy cay đắng trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Con người
vừa anh hùng vừa hèn hạ trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập… Các thanh sắc khắc
nhau ấy đã tạo cho văn xuôi sau 1975 một diện mạo đa diện, hấp dẫn. Nếu trong văn xuôi
sử thi quan niệm về con người tốt xấu rạch ròi, thì ở giai đoạn này con người được nhìn
nhận trong cái đa diện của nó. Một kẻ từng được xem như là anh hùng có thể trong một
11
phút nào đó là một tên hiếp dâm để rồi suốt đời ân hận, day dứt khôn nguôi về lỗi lầm ấy
(Đò ơi - Nguyễn Quang Lập). Trương Chi khát khao bài hát của tình yêu, nhưng rồi cũng
phải hát bài hát đông người, bài hát ca ngợi danh vọng, tiền tài để rồi kết thúc tiếng hát
cũng là lúc văng tục (Trương Chi - Nguyễn Huy Thiệp). Một người chạy theo lối sống xô
bồ tưởng như chỉ bỏ đi như Lý trong Mùa lá rụng trong vườn vẫn khiến chúng ta xe xót,
cảm thương và cả phần nào quý trọng. Quả là văn xuôi sau 1975 đã mở rộng cái nhìn đối
với quan niệm nghệ thuật về con người. Đó là cái nhìn đa diện, nhiều chiều.
Gạt bỏ con người cá nhân chủ nghĩa trong văn học trước cách mạng, văn học cách
mạng nhận thức con người như một chủ thể của lịch sử, và con người tập thể là âm chủ
của văn học 1945 - 1975. Ở giai đoạn sau 1975 văn xuôi trở lại con người cá nhân nhưng
ở trình độ phát triển cao hơn, không phải kiểu con người cá nhân chủ nghĩa, mà là một
nhân cách với đầy đủ tính chất phức hợp của nó.
Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người đã đưa đến việc thay đổi hệ thống
miêu tả, phương thức thể hiện, phương thức tư duy, thể tài… tạo nên bước phát triển
đáng kể của văn xuôi sau 1975.
3. Đổi mới nghệ thuật trần thuật
3.1 Trần thuật từ nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ, hay trần thuật “nhập vai”
Nếu trước đây tác giả thường chỉ lựa chọn một điểm nhìn trần thuật thì đến giai
đoạn này người viết đã lựa chọn cách trần thuật chuyển dịch các điểm nhìn. Điểm nhìn
trần thuật được đặt vào nhiều nhân vật, để mỗi nhân vật có thể tự nói lên quan điểm, thái
độ của mình và để cho các ý thức cùng có quyền phát ngôn, cùng đối thoại. Sự thay đổi
vai kể, cách dẫn chuyện lồng trong chuyện, sự đảo ngược và xen kẽ các tình tiết, sự việc
không theo một trật tự thời gian duy nhất… tất cả những thủ pháp ấy đều nhằm tạo ra
được hiệu quả nghệ thuật.
Trần thuật từ nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ, hay trần thật “nhập vai” là để chỉ cách
trần thuật linh hoạt khi vai trò “phát ngôn” được trao cho nhiều người, nhiều đối tượng
trong tác phẩm. Không còn chỉ có một người kể chuyện mà nhiều người kể. Trước một
vấn đề, một sự việc nào đó, vì được soi rọi bằng nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ nên sẽ
hiện ra bằng diện mạo, hình thù khác nhau dẫn đến nhiều luồng dư luận, nhận xét khác
nhau, thậm chí ngược nhau, do các điểm nhìn khác nhau về tuổi tác, nghề nghiệp, giới
12
tính, học vấn, đôi khi là thói quen, sở thích… Nhà văn có xu hướng đổi mới trần thuật
sớm nhất cho nền truyện ngắn sau 1975 là Nguyễn Minh Châu. Trong truyện ngắn Bức
tranh, tiếp đó là hàng loạt truyện ngắn khác của ông như: Chiếc thuyền ngoài xa, Cơ
giông, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau... đều có cái nhìn đa chiều, trong xu hướng đối
thoại này. Chẳng hạn, trước số phận cực nhọc, cam chịu của người đàn bà trong truyện
ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu để cho nhiều “cái nhìn” soi rọi vào: Cái
nhìn trẻ thơ trong sáng của đứa con trai khi nó kết án ông bố tàn bạo và thề sẽ giết chết
ông ta. Nhưng đứa chị thì hiểu biết hơn, vừa khóc lóc vừa ngăn nó lại. Nhà nhiếp ảnh thì
sẵn sàng ra tay hiệp nghĩa giúp người đàn bà thoát khỏi trận đòn của chồng. Viên thẩm
phán thì khăng khăng giải pháp ly hôn là đúng đắn nhất để cứu người đàn bà. Nhưng
người đàn bà, kẻ hứng chịu tất cả những trận đòn tàn nhẫn và phi lý của chồng thì nhìn
nhận khác hẳn: “Lòng các chú tốt nhưng các chú không hiểu hết cuộc sống sông nước”.
Cuộc sống ấy không thể thiếu bàn tay chèo chống của một người đàn ông và ý nghĩa của
người đàn bà là phải vì con cái mình. Từ Nguyễn Minh Châu đến Nguyễn Khải và đặc
biệt đến Nguyễn Huy Thiệp, cách trần thuật từ nhiều điểm nhìn đã đạt đến đặc sắc. Để
tạo ra sự bình đẳng cho các điểm nhìn, tác giả - người kể chuyện không làm thay nhân vật
mà chỉ đóng vai trò “dàn dựng” lại sự việc. Thậm chí sự “dàn dựng” này như được làm
một cách ngẫu nhiên. Chẳng hạn, đoạn kể về cha con tướng Thuấn bàn bạc việc gia đình:
“…Cha tôi bảo: “Nghỉ rồi, cha làm gì?” Tôi bảo: “Viết hồi ký”. Cha tôi bảo: “Không!”
Vợ tôi bảo: “Cha nuôi vẹt xem”. Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim hoạ mi, chim
vẹt. Cha tôi bảo: “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời. Cha tôi bảo: “Để xem đã!”. Hoặc
một cảnh khác: “Tôi cũng không hiểu tại sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi
cho chúng học ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận. Cha tôi bảo: “các cháu có
sách gì mang cho ông đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo: “Ông thích đọc gì?” Cha tôi
bảo: “Cái gì dễ đọc”. Hai đứa bảo: “Thế thì không có”. Đọc Nguyễn Huy Thiệp có cảm
giác, người kể chuyện không mấy khi thực hiện vai trò “kể” mà phần lớn chỉ thực hiện
vai trò sắp xếp, tổ chức, nói đúng hơn, người “cắt dán” các cảnh lại với nhau với ý đồ
trung thực nhất, ít chủ quan nhất bằng cách hạn chế thấp nhất sự tham gia của trữ tình
ngoại đề. Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, nhiều lúc không tránh khỏi cảm giác thấy
truyện rời rạc, lỏng lẻo, lan man. Tuy nhiên, người đọc được trải nghiệm nhiều cảm giác,
13
suy nghĩ, được tranh luận và tự mình thấu nhận, rút ra những điều bổ ích. Và quan trọng
nhất là tránh được cảm giác nhàm chán, đơn điệu trong cách tiếp cận tác phẩm.
3.2. Trần thuật bằng dòng ký ức nội tâm
Ngược với kiểu trần thuật “nhập vai”, trao vài trò kể chuyện cho nhiều người là
kiểu trần thuật bằng “dòng ký ức nội tâm”. Với cách trần thuật này, mọi chuyện diễn ra
trong dòng chảy ký ức hoặc dòng chảy nội tâm. Đây cũng là cách để tác giả “khách quan
hoá” nội dung hiện thực trong tác phẩm hoặc tha hồ khám phá miền ẩn ức bên trong của
tâm hồn con người. Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư và
hàng loạt cây bút trẻ mới xuất hiện gần đây như Nguyễn Thế Hoàng Linh, Miêng, Trang
Thanh, Trần Đức Tiến, Đỗ Hoàng Diệu… đi theo xu hướng này. Truyện ngắn Cánh đồng
bất tận của Nguyễn Ngọc Tư là dòng chảy miên man trong suy nghĩ của nhân vật Nương
- cô gái tội nghiệp, nạn nhân của thái độ vô trách nhiệm của người lớn, của sự tan vỡ
hạnh phúc gia đình. Trong truyện ngắn này ai cũng nói rất ít, phần lớn những câu đối
thoại hay độc thoại đều được “dịch” thông qua những phán đoán suy nghĩ chứ không phải
là những lời thoại trực tiếp. Qua ký ức của cô bé, tuổi thơ hiện về, ba, má, cuộc sống
nghèo mà yên bình trong xóm nhỏ. Rồi những bất ngờ dữ dội xảy đến, má bỏ đi, ba hận
má, hận cuộc đời, kế đó là những năm tháng trôi nổi, phiêu dạt như những kẻ cô đơn, lạc
loài trong xã hội loài người cho đến khi tai hoạ thực sự rơi xuống đầu… Kết thúc truyện
vẫn là những dòng ký ức đau nhói, hoà trộn xót xa vói ân hận, thức ngộ và đau đớn tột
cùng: “…Rồi ký ức ùa về kinh hãi, vẻ mặt má tôi hôm bị người đàn ông bán vải đo lên
người hình như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau ràn rụa,
nhói tận chân tóc. Trời ơi sao tôi lại không nhận ra điều đó, ngay lúc ấy (để giấu kín nỗi
ám ảnh trong lòng, giả đò tươi cười với má, xem như không có chuyện gì, để chiều chiều
cùng má ra sông, hỏi nhau, không biết chừng nào thì cha về). Miêng trong truyện Hải nữ,
Trần Đức Tiến trong truyện Miền cực lạc v.v… còn sáng tạo ra kiểu “phân thân” giữa
linh hồn và thể xác để đi du ngoạn trong thế giới thầm kín, riêng tư nhất của nhân vật.
Trong thế giới ấy, người ta như là một con người khác, nhiều khi khác biệt hoàn toàn với
con người thường ngày. Con người hàng ngày của ông P là một con người bình thường
hết sức, bình thường đến mức không gây một chút chú ý nào cho ai, ông lại có tính hay
đỏ mặt. Nhưng khi ông tự tách linh hồn ra khỏi thân xác và linh hồn ông tự do phiêu diêu
14
thì linh hồn ấy có thể làm những chuyện không thể tưởng tượng nổi. Ông P luôn luôn đi
thực hiện những chuyến gặp gỡ, hẹn hò bí mật với những người đàn bà mà ông thích
hoặc muốn: một á hậu xinh đẹp, một cô thợ may mà ông thấy gần gũi, có lúc còn lạc vào
nhà thổ…Hình như với cách thể hiện này, tác giả muốn chứng minh, trong con người ta
ai cũng có hai con người. Một con người với thân xác hiện hữu cùng với muôn mối ràng
buộc của nghĩa vụ và trách nhiệm và một con người bên trong thầm kín với những suy
nghĩ, việc làm chỉ mình mình biết. Con người bên trong ấy có đời sống riêng và luôn tìm
cách chống lại con người cụ thể với thân xác hiện hữu. Phải chăng, đó cũng là nhận thức
và khám phá về sự phức tạp của con người. Kiểu trần thuật dòng ký ức thường được
những cây bút trẻ khai thác, có lẽ vì nhu cầu khám phá, nhất là khám phá bản thân luôn là
nhu cầu của lứa tuổi này.
3.3. Gián cách thời gian trần thuật
Gián cách thời gian trần thuật là cách mà Nguyễn Thị Minh Thư đã sử dụng trong
truyện ngắn Có một đêm như thế. Cùng một lúc tác giả cho xuất hiện ba lớp thời gian
nhưng không phải kiểu thời gian đồng hiện hoặc liên tưởng của ký ức. Tuy nhiên, cách
trần thuật này dường như không mấy thông dụng, bởi không có nhiều người lựa chọn lối
viết gián cách này. Có lẽ cách viết này có cái khó riêng không dễ áp dụng hoặc sáng tạo.
4. Sự vận động đổi mới ở phương diện ngôn ngữ
Tư duy tiểu thuyết đã thay thế tư duy sử thi thì ngôn ngữ văn xuôi cũng biến đổi
theo. Từ thứ ngôn ngữ trang trọng chuẩn mực mang tính sử thi ngôn ngữ văn xuôi chuyển
dần sang thứ ngôn ngữ đời thường, đậm tính khẩu ngữ, suồng sã, thậm chí dung tục.
Với tư cách là công cụ của tư duy, là “cái vỏ của tư duy”, sự biến đổi của ngôn ngữ
văn học liên quan chặt chẽ đến sự biến đổi của tư duy văn học. Vì vậy, sự xác định tiêu
chí cho vấn đề này không dễ. Chẳng hạn, nhiều người đánh giá cao bước phát triển của
ngôn ngữ văn xuôi hiện nay (thí dụ nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong lần nói chuyện với
cán bộ, sinh viên khoa Ngữ văn- ĐHSP Hà Nội ngày 16-4-1994 cho rằng; “Lớp trẻ đã có
ngôn ngữ mới. Nguyễn Huy Thiệp là người thực sự cách tân ngôn ngữ truyện ngắn. Phạm
Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh cũng thế”. Nhưng cũng nhiều người phản ứng, hoảng sợ,
họ thấy văn Nguyễn Huy Thiệp “dung tục”, “kinh tởm”, văn Phạm Thị Hoài là văn của
người “nhìn đời Việt Nam bằng con mắt Do Thái và văn viết bằng tiếng của F.Kapka (ý
15
kiến của tác giả Triệu Minh về Phạm Thị Hoài trên văn ghệ số 2- 1996). Tiếng Việt trong
sáng nhờ được mỹ lệ hoá hay chính xác hoá, nhờ sự khu biệt hay khả năng hội nhập?
Những vấn đề này cho đến nay vẫn còn bỏ ngỏ. Ở đây, chỉ nêu một số đặc điểm ngôn
ngữ văn xuôi nghệ thuật đổi khác so với giai đoạn trước 1975.
4.1. Ngôn ngữ đời thường - gia tăng tính khẩu ngữ
Trong văn xuôi, bước đổi thay của ngôn ngữ lúc đầu gắn với nhu cầu “được nói
thật”. Sự cổ vũ của Đảng “nhìn thẳng và nói thật” cho phép nhiều tác phẩm chống tiêu
cực ra đời. Ngôn ngữ văn xuôi bắt đầu bớt đi vẻ trang trọng, ít du dương, ít rào đón mà
gần gũi với đời thường, chân thật trong giọng điệu, thô nhám trong từ ngữ. Sự xuất hiện
của Nguyễn Huy Thiệp như một hiện tượng “lạ”. Ngoài khả năng biến ảo của một bút
pháp đa dạng, đa tầng, tác giả này còn gây cú sốc thực sự cho ngôn ngữ văn học. lối nói
“cộc lốc”, sắc bén và hàm súc, câu văn ngắn gọn, dồn dập, hạn chế tối đa các liên từ, nén
năng lượng làm rung chuyển lối văn mực thước, trang trọng hoặc rào đón, đưa đẩy. Ngòi
bút tác giả này như không hề biết đến những gửi thưa kiểu cách, những nghi thức nhiều
khi rất nhiều khách sáo, mặc nhiên khẳng định tư thế bình đẳng, dân chủ giữa con người
với con người. lối văn đó phù hợp với cái hiện thực đời thường mà anh mô tả. Chẳng hạn,
tác giả tả đám cưới của anh chàng lái xe bò kết hôn với cô mẫu giáo con ông vụ phó:
“đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc
hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể
mặc com lê đen, cravát đỏ. Tôi phải cho mượn cái cravát đẹp nhất trong tủ áo. Nói là
mượn nhưng chắc gì đòi được. Đầu tiệc là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh
cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp…”
Cùng với Nguyễn Huy Thiệp và trong không khí dân chủ cởi mở của xã hội, xuất
hiện hàng loạt cây bút trẻ. Họ ít bị ràng buộc bởi những tín điều đạo đức, luân lý, vừa tự
tin vào mình, vừa nhiều hoài nghi đối với cuộc đời. Họ sử dụng văn chương để bộc lộ
“cái tôi” cá tính là chính, nên họ quan tâm hơn đến vấn đề “viết như thế nào”. Phạm Thị
Hoài quan niệm “viết như một phép ứng xử”. Và trong quan niệm ấy, nhà văn nữ này
chọn phép ứng xử: không tiếp tục thứ văn chương “đặc sản dành riêng cho những người
sành ăn” như văn chương Nguyễn Tuân mà chọn hướng văn chương “gia tăng tính khoa
học, tốc độ và khả năng biểu đạt tư duy hình tượng của nó”. Có thể nói, chưa bao giờ văn
16
chương gần với ngôn ngữ sinh hoạt – thế sự đến thế. Chưa bao giờ những câu chửi thề,
chửi tục, lối nói trần trụi xuất hiện nhiều đến thế. Để chống lại lối văn chương nhiều tính
hành chính khô khan hoặc du dương thi vị nhưng ít cá tính, ngôn ngữ truyện ngắn dung
nạp rất nhiều khẩu ngữ, cố tính coi thường cú pháp, “nhại” lại mọi ngôn ngữ kiểu cách.
Chẳng hạn: “Man Nương, tôi gọi em như vậy những buổi chiều bốn mét nhân bốn mét
rưỡi nhân hai mét tám màu xanh lơ trong căn phòng trống rỗng tầng ba có hai nhành xanh
một thứ cây nào đó tôi không bao giờ biết tên” (Man Nương- Phạm Thị Hoài). Hoặc:
“Chức cách đây mấy hôm thấy chạy xe vèo vèo ngoài ngã ba chở một đứa con gái bé như
cái kẹo, không ôm iếc gì cả nhưng nhìn thì biết ngay là bồ bịch” (Hoa muộn - Phan Thị
Vàng Anh); “Cái lão Khúng này thiết đếch gì! Sao với chả trăng! Cho cái mặt trời ông
cũng đếch thiết nữa là!...” (Phiên chợ Giát - Nguyễn Minh Châu); “…thế đấy. Chó của tôi
thì kém đếch gì một con beo? Này, anh còn nhớ thượng tướng Th không? Cái ông già gàn
dở nổi tiếng toàn quân về phong thái “hiên ngang” ấy mà, đã gạ đổi con Tuýt lấy một cặp
bẹc giê Sibêri đấy. Ồ xin lỗi! Ngài hãy đổi cho tôi một cặp rồng thực sự, tôi cũng xin kiếu
ngài thôi”(Con thú bị ruồng bỏ- Nguyễn Dậu)…
4.2. Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và triết luận
Nhu cầu gia tăng tính tốc độ và thông tin đặt ra như một đòi hỏi chính đáng và tất
yếu ở thời đại “bùng nổ thông tin”, thời đại của công nghệ kỹ thuật cao, liên quan đến
nhịp sống hiện đại, nhất là nhịp điệu của cơ chế thị trường.
Tính tốc độ thể hiện ở cách vào truyện nhanh, diễn đạt ngắn gọn, nén thông tin. Ở
phương diện ngôn ngữ, có thể nhận thấy việc sử dụng các “điển cố” hiện đại như các
thuật ngữ khoa học chuyên ngành, thậm chí cả tiếng nước ngoài vào trong diễn đạt, chẳng
hạn “chuỗi xoắn kép, đột biến, bức xạ nhiệt, đồ thị hyperbol, the end of something…những cụm từ này thay thế cho rất nhiều lời diễn giải. Nhiều khi, một thứ ngôn từ
ước lệ, “hàm súc” và nhiều ngụ ý bắt nguồn từ sinh hoạt giao tiếp hiện đại, nếu được sử
dụng đắc địa, nó vừa như một hình thức phổ biến của khẩu ngữ Việt Nam, mang đậm dấu
ấn lịch sử, tâm lý, vừa chuyển tải được thông tin lớn. Thí dụ: “Bản nhạc đánh theo kiểu
nội địa” (Chuyện thầy AK. Kẻ sĩ Hà Thành). “Nào hết cấm vận đến nơi, nào kinh tế thị
trường quốc tế, nào liên doanh thương mại thế mạnh” (Đất xóm chùa- Đoàn Lê);
17
“Đảm bảo không có chuyện Nguyễn Văn Mười Hai” (Vũ điệu của cái bô - Nguyễn
Quang Thân).
Lượng thông tin đạt đến mức tối đa nằm ở một thứ ngôn ngữ đa nghĩa, nhiều ngụ
ý. Ngôn ngữ này là kết quả tất yếu của tính phức điệu, đa thanh trong tư duy tiểu thuyết.
Mặt khác, ngôn ngữ đa nghĩa cũng là sản phẩm của hứng thú triết luận càng ngày càng
nổi rõ trong văn xuôi. Văn Nguyễn Huy Thiệp đa nghĩa từ chi tiết đến tổng thể, nhiều sức
gợi liên tưởng ra bên ngoài tác phẩm. Cái “phức tạp”, “nhiều tầng lớp” có được, một
phần là nhờ ngôn ngữ đầy tính ẩn dụ, nhiều nghĩa, cho phép người đọc phát huy cao độ
sức liên tưởng và kinh nghiệm cá nhân vào việc lĩnh hội nghệ thuật. Xin nêu một số ví
dụ: lời Đặng Phú Lân nói với Nguyễn Ánh về thanh bảo kiếm “Trước chúa công chỉ thấy
đầu rơi dưới kiếm, bây giờ mới nhìn rõ kiếm, thế là sắp thanh bình thịnh trị rồi đó” (Kiếm
sắc); “Trời rất xanh. Giữa trời có đám mây trắng trông hệt dáng điệu một nhà hiền triết.
Thoắt cái, gió xua mây đi, nhà hiền triết biến thành con chó xồm lớn”(Nguyễn Thị Lộ Nguyễn Huy Thiệp). Các tác giả có thiên hướng kiếm tìm ý nghĩa triết học nhân sinh qua
diễn tả đời sống cụ thể. Điều đó đem lại cho các tác phẩm ý vị triết lý và giá trị phổ quát.
Đáp ứng yêu cầu này, ngôn ngữ văn xuôi tất yếu sẽ bớt đi phần “kể”, phần “tả” và tăng
phần triết luận, khái quát, nhà văn khi ấy sẽ hiện diện qua ngôn ngữ “trữ tình ngoại đề”.
Ở Nguyễn Minh Châu, thường thấy như vậy: “Rồi thì cũng như mọi người khác, tôi vẫn
không thể đi trốn được số phận, tôi không thể đi trốn được khỏi cuộc đời mình một khi
mà tôi còn sống”, “chiến tranh làm người ta hư đi hơn là làm người ta tốt lên”, “Nỗi đau
mất mát trong lòng người đàn bà lắm khi chả khác nắm cỏ trong dạ dày loài nhai lại..”(Cỏ
lau). “Tôi đưa cháu Quỳnh về trước đây. Ông cứ yên tâm. Thân thể cháu Quỳnh vẫn
nguyên vẹn. Nhưng băng đạn mà ông bắn vào lòng nhân ái, vào tình yêu thiên nhiên của
cháu Quỳnh thì không thể nào cứu chữa nổi” (Con thù bị ruồng bỏ - Nguyễn Dậu).
4.3. Ngôn ngữ chuyển từ tính đơn thanh, độc thoại sang tính đa thanh, phức điệu,
đối thoại.
Đổi mới văn học theo hướng dân chủ hóa cũng có nghĩa là sự thừa nhận những
kinh nghiệm riêng của mỗi nhà văn cũng như của chính độc giả. Vì thế tất yếu dẫn đến
thứ ngôn ngữ đa thanh, phức điệu để cho nhiều ý thức quan điểm cùng tồn tại, bình đẳng
và đối thoại với nhau trong tác phẩm. Điều đó không có nghĩa là thủ tiêu quan điểm chính
18
kiến của tác giả mà chỉ là từ bỏ sự áp đặt lộ liễu một quan điểm duy nhất được coi là
đúng, một tiếng nói được coi là chuẩn mực.
Cùng với hình thức đã có nhiều thay đổi, ngôn ngữ của truyện ngắn ngày nay, linh
hoạt, sinh động và giàu chất đời thường. Nhìn lại ngôn ngữ của truyện ngắn nói riêng,
văn xuôi nói chung ta thấy có những thành tựu, cũng có những hạn chế. Tuy nhiên, cùng
với thời gian và độ chín của các tài năng, ngôn ngữ của văn xuôi đã và đang đạt đến độ
ngưng kết mới.
19
PHẦN KẾT LUẬN
Nhìn tổng thể, sự vận động của văn xuôi sau 1975 đã diễn ra giống như một cuộc
nhận đường toàn diện và sâu sắc: từ ý thức nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con
người đến hành vi sáng tạo, từ tư tưởng đến thi pháp. Sự vận động ấy hướng mạnh mẽ
đến những nỗ lực cách tân nhằm đổi mới thể loại. Về mặt hình thức, truyện ngắn Việt
Nam sau 1975 đổi mới rõ rệt nhất ở ba phương diện: dạng thức cấu trúc cốt truyện, trần
thuật và ngôn ngữ truyện. Những cách tân ở các phương diện ấy đã góp phần tạo nên diện
mạo mới cho văn xuôi Việt Nam.
Những biến đổi về nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam sau 1975 diễn ra đa dạng và
phức tạp. Trên đây chỉ là những nhận thức ban đầu về sự biến đổi ấy. Qua những biến đổi
về nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam sau 1975 có thể khẳng định văn xuôi Việt Nam nói
riêng và văn học Việt Nam nói chung đã đạt được những thành tựu nhất định trên con
đường hiện đại hóa. Dù trải qua nhiều thăng trầm với những thành tựu và hạn chế nhất
định nhưng văn xuôi Việt Nam sau 1975 đã khẳng định được sức sống, giá trị của văn
chương trong đời sống tinh thần của dân tộc.
20
- Xem thêm -