Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chức năng của việt kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự luận văn ths. ...

Tài liệu Chức năng của việt kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự luận văn ths. luật

.PDF
94
9584
36

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Mai Văn Thùy MỤC LỤC 5 Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng 1 MỞ ĐẦU Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM 8 SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự 8 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố 11 1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự 17 1.2. Đặc điểm và hình thức thực hiện chức năng của Biện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự 23 1.2.1. Đặc điểm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự 25 1.2.2. Các hình thức thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự 28 Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH 31 SỰ VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH 2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 31 2.1.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 31 6 2.1.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 38 2.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự 48 2.2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự 50 2.2.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự 56 Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO 60 CHẤT LƢỢNG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 3.1. Thực trạng thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử các vụ án hình 60 3.1.1. Những kết quả đã đạt được trong việc thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự 60 3.1.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự 64 3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự 69 3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự 74 KẾT LUẬN 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 3.1 Một số kết quả đạt được trong hoạt động thực hành quyền cụng tố và kiểm sỏt việc tuõn theo phỏp luật trong giai đoạn xột xử vụ ỏn hỡnh sự trong 5 năm gần đõy 63 3.1 Một số tồn tại trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự trong 5 năm gần đây 64 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giải quyết vụ án một cách công khai, dân chủ, công bằng, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm đồng thời đảm bảo công lý được thực thi không những thuộc về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà còn là đòi hỏi cấp thiết của xã hội, nhất là chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Muốn làm được điều này chúng ta phải tổ chức và phân định rạch ròi nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng một cách khoa học, hợp lý dựa trên những tiêu chí về chức năng của tố tụng hình sự trong Nhà nước pháp quyền, đó là chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử. Ở nước ta trong những năm gần đây, hệ thống các cơ quan tư pháp được củng cố và chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp bước đầu đã được cải thiện, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra trong tình hình mới. Theo tinh thần của Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: "Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tổ chức tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý" [10] và đề ra chiến lược cải cách là: "xác định rõ chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp" [10]. Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án hình sự, do vậy hoạt động của Viện kiểm sát là một quy trình xuyên suốt từ hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Khác với hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa đối với những vụ án do tòa án thu 9 thập chứng cứ mà có khiếu nại của đương sự, các việc dân sự, các vụ việc mà Viện kiểm sát có kháng nghị. Vì vậy trong tố tụng hình sự Viện kiểm sát có chức năng đặc biệt quan trọng bởi lẽ quyết định truy tố của Viện kiểm sát (bản cáo trạng) là cơ sở pháp lý để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa sơ thẩm. Nếu không có sự kiểm sát các thủ tục tố tụng tại tòa thì sẽ không có phiên tòa hình sự một cách khách quan và đúng thủ tục tố tụng. Hoạt động của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự là cơ sở thực tiễn giúp các nhà nghiên cứu, đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về mô hình tố tụng, tổ chức bộ máy của cơ quan Viện kiểm sát nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng xét xử, bảo đảm tự do, dân chủ cho công dân góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm, chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Nghiên cứu chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi lẽ đây là giai đoạn mà vụ án hình sự được xem xét, giải quyết công khai, nó thể hiện tập trung các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự và cũng là giai đoạn thể hiện tập trung quyền và nghĩa vụ pháp lý của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về hoạt động của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự còn nhiều điểm bất cập, một số nguyên tắc của tố tụng hình sự chưa được thể hiện đầy đủ, làm cho hiệu quả xét xử của Tòa án chưa cao. Trong bối cảnh cải cách tư pháp và theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW đã chỉ rõ: Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với tổ chức của Tòa án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của Công tố trong hoạt động điều tra [10]. 10 Do đòi hỏi việc nghiên cứu một cách có hệ thống và đề xuất phương hướng hoàn thiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay là việc làm cần thiết có ý nghĩa cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nhằm hiện thực hóa chủ trương về cải cách tư pháp, trong đó Viện kiểm sát nhân dân sẽ hướng chuyển thành Viện công tố, những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến vấn đề này. Qua tìm hiểu các tài liệu hiện hành cho thấy các công trình khoa học tập trung nghiên cứu theo những khía cạnh sau: - Nhóm nghiên cứu thứ nhất gồm các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ các đề tài nghiên cứu khoa học và sách về đổi mới tổ chức hoạt động, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân. Những công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, điển hình như sách của tác giả Lê Minh Thông (Chủ biên): Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Hữu Khoa: Chức năng của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2009; Luận án tiến sĩ luật học của Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, Hà Nội, 2002; Đề tài khoa học cấp bộ của ThS. Nguyễn Xuân Hà - Phạm Hoàng Diệu Linh: Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 để đảm bảo phù hợp với việc tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp theo tinh thần nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Tác giả Ngô Văn Đọn (Chủ biên): Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong các công tác kiểm sát hình sự, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2004; tác giả Hoàng Thế Anh: Cơ sở 11 lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2006. - Nhóm nghiên cứu thứ hai về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Các bài viết liên quan đến chức năng của Viện kiểm sát bao gồm: Khuất Văn Nga: Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời kỳ đổi mới (Tạp chí kiểm sát), Hà Nội, 2005; Lê Cảm: Bàn về tổ chức quyền tư pháp nội dung cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, (Tạp chí kiểm sát), Hà Nội, 2005; Phạm Hồng Hải: Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp (Tạp chí luật học), Hà Nội, 2006; Đỗ Văn Đương: Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay (Tạp chí kiểm sát), Hà Nội, 2006; Lê Cảm: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố (Tạp chí kiểm sát), Hà Nội, 2000... Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu thứ nhất gồm các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, các đề tài nghiên cứu khoa học và sách về đổi mới tổ chức hoạt động, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu làm rõ địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nói chung hoặc ở một góc độ nhất định như đi sâu phân tích thế nào là quyền công tố chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể, toàn diện về chức năng của Viện kiểm sát trong xét xử vụ án hình sự, chưa đánh giá một cách có hệ thống những điểm còn hạn chế trọng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, chưa phân tích nguyên nhân và các giải pháp khắc phục. Nhóm nghiên cứu thứ hai về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được đăng trên các tạp chí chuyên ngành cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích, làm rõ một vài khía cạnh của vấn đề. Vì vậy đây là vấn đề tồn tại cần được tiếp tục nghiên cứu nhất là 12 trong bối cảnh chúng ta đang nghiên cứu, thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, làm sáng tỏ vấn đền này cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn tạo cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử của Tòa án đồng thời đảm bảo chất lượng tranh tụng tại tòa, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, chống làm oan người vô tội và chống bỏ lọt tội phạm cũng như bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xét thấy đây là thời điểm thích hợp cho việc nghiên cứu một cách khoa học để tìm hiểu chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự đồng thời tìm ra những nguyên nhân tồn tại và các giải pháp khắc phục. Đây cũng là lý do mà học viên chọn đề tài "Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự" để làm luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật hình sự. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích Những nghiên cứu của luận văn nhằm góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án. - Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Phân tích làm rõ khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng các quy định đó. 13 Làm rõ nguyên nhân của những bất cập trong việc thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. 4. Phạm vi nghiên cứu - Đề tài tập trung nghiên cứu chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. - Các giai đoạn xét xử được nghiên cứu trong đề tài bao gồm chức năng của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, chức năng của Viện kiểm sát trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, trong giai đoạn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. - Đề tài chỉ đưa ra quan điểm, kiến nghị mang tính nguyên tắc, phương hướng hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan đến chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. - Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích chức năng của Viện kiểm sát theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và thực tiễn hoạt động của ngành Kiểm sát trong 5 năm trở lại đây (từ 2005 đến năm 2010). 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở của phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa Duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể của luận văn được sử dụng trong Luận văn là phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, khảo sát thực tiễn, đối thoại với chuyên gia và các nhà hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực luật học. 6. Ý nghĩa của luận văn Luận văn làm sáng tỏ các quy định về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Trên cơ sở đó góp phần hoàn thiện các 14 quy định của pháp luật liên quan đến chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình. Chương 3: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao chất lượng thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. 15 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Khi nói đến chức năng có nhiều quan điểm khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa: "Chức năng là phương diện hoạt động có tính chất cơ bản, xuất phát từ bản chất của sự vật, hiện tượng, từ mục đích, ý nghĩa xã hội của việc giải quyết các nhiệm vụ đó đặt ra" [52, tr. 267]. Theo tiếng Latinh chức năng "functio" có nhiều nghĩa khác nhau, có thể hiểu là nghĩa vụ, phạm vi hoạt động, chức năng, vai trò hay hiểu là loại hoạt động của sinh vật và của các cơ quan, tế bào của nó… Tùy ngữ cảnh cụ thể để áp dụng, nhưng nghĩa chủ đạo của chức năng là phương diện hoạt động để thực hiện nhiệm vụ của mình. Chức năng của cơ quan nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu có tính chất cơ bản và lâu dài của riêng cơ quan đó nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn luật định để phục vụ việc thực hiện chức năng chung của bộ máy nhà nước. Cũng như nhiều cơ quan nhà nước khác ở từng thời kỳ phát triển kinh tế xã hội khác nhau thì Nhà nước cũng giao cho chức năng khác nhau. Hệ thống cơ quan Công tố được tách dần khỏi hệ thống cơ quan Tòa án và sự ra đời của Hiến pháp năm 1959 quy định sự thành lập của Viện kiểm sát trong hệ thống cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước. Thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III năm 1960 và Hiến pháp 1959, ngày 27 tháng 7 năm 1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân khai sinh ra hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân 16 ở Việt Nam. Đây là hệ thống cơ quan nhà nước chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Độc lập với hệ thống cơ quan xét xử và các cơ quan hành chính khác. Viện kiểm sát có nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự như cơ quan Công tố trước đây, đồng thời kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ, cơ quan nhà nước ở địa phương, các nhân viên Nhà nước và công dân. Tiếp đó tại các bản Hiến pháp 1980, 1992 và các văn bản pháp luật có liên quan từng bước có quy định rõ ràng hơn về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát. Đó là Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên Nhà nước, công dân; thực hành quyền công tố và bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Điều kiện kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi chức năng của các cơ quan nhà nước cũng phải thay đổi cho phù hợp với hoạt động trong tình hình mới. Trong đó hệ thống cơ quan Viện kiểm sát cũng không phải là ngoại lệ, sự thay đổi lớn nhất về chức năng từ trước tới nay. Điều đó được thể hiện qua Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, theo đó tại Điều 2 Hiến pháp 1992 ghi nhận: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp" [31]. Trong đó chức năng của Viện kiểm sát được điều chỉnh theo hướng đề cao chức năng công tố so với giai đoạn trước đây và thu hẹp chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên Nhà nước, công dân bằng chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Theo đó Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: Viện kiểm sát có chức năng "thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp" [32]. Trên cơ sở của Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 17 năm 2002 quy định "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật" [33]. Theo tiến trình cải cách tư pháp của Bộ Chính trị trong đó cải cách hệ thống Viện kiểm sát nhân dân là một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách các cơ quan tư pháp nói riêng nhằm mục đích xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với việc ra đời của Nghị quyết số 08/2002 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Đặc biệt Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó nêu rõ: "Trước mắt, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp" [10]. Như vậy sự ra đời của Viện kiểm sát với tư cách là một cơ quan nhà nước là một đòi hỏi tất yếu, khách quan của quá trình bảo vệ và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ở từng giai đoạn cụ thể mà Viện kiểm sát có các chức năng khác nhau. Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định cụ thể hơn về chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự: Viện kiểm sát "thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự" [34]. Đây là chức năng hiến định, đặc trưng cơ bản của Viện kiểm sát. Nó quy định chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự từ khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự. Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự thì chức năng của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố đồng thời kiểm sát các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra hoặc một số cơ quan được giao hoạt động điều tra, các chủ thể khác tham gia vào công việc điều tra cũng như hỗ trợ cho công tác điều tra nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động điều tra được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, kịp thời. Trong công tác kiểm sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, 18 Viện kiểm sát có chức năng phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và các chủ thể khác để kiến nghị, sửa chữa, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ pháp luật của Cơ quan điều tra qua đó tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội để áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và các vi phạm pháp luật của các cá nhân, cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. Từ sự phân tích trên cho thấy: Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong xét xử vụ án hình sự. Để hiểu rõ chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đặc biệt là chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử trước hết cần phải nghiên cứu khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử trong tổng thể của cả quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hay nói cách khác là nghiên cứu chức năng của Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước nói chung, chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự nói riêng. Như vậy, có thể khẳng định rằng trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát đồng thời thực hiện hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố Khi nghiên cứu chức năng của Viện kiểm sát chúng ta hay đề cập đến khái niệm thực hành quyền công tố, bên cạnh đó lại xuất hiện khái niệm quyền công tố hay Công tố quyền. Có quan điểm cho rằng: "Thực hành quyền công tố là việc thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó" [11]. Đây là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cần làm sáng tỏ, nó liên quan trực tiếp đến chức năng của Viện kiểm sát. Tuy vậy trên thực tiễn lại có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến chưa có sự nhận thức một cách thống nhất, chính thống về các khái niệm, nội dung, chủ thể của hai thuật ngữ trên. Xét về 19 phương diện lý luận cũng như thực tiễn, làm rõ hai thuật ngữ trên sẽ góp phần hiểu một cách đầy đủ vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong mối quan hệ tổng thể với các cơ quan tiến hành tố tụng. Nhất là trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang nghiên cứu chức năng, vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quá trình phát triển và hoàn thiện chế định quyền công tố gắn liền với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Tùy từng kiểu Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định và với những điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội, con người, yếu tố văn hóa, truyền thống chính trị của mỗi quốc gia để thiết kế một bộ máy nhà nước khác nhau. Do vậy, quyền công tố cũng có những khác biệt nhất định, đi đôi với việc hoàn thiện thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia thì việc hoàn thiện chế định quyền công tố cũng ngày càng rõ nét. Ở nước ta Hiến pháp năm 1980 đề cập đến quyền công tố, thực hành quyền công tố khi quy định chức năng của Viện kiểm sát tại Điều 138. Cũng tại Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) đã khẳng định lại sự tồn tại của thuật ngữ quyền công tố, thực hành quyền công tố trong chức năng của Viện kiểm sát. Vậy quyền công tố và thực hành quyền công tố là gì? Mặc dù các học giả và các nhà hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật đã tập trung nghiên cứu, tuy nhiên vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về hai khái niệm trên: Quan điểm thứ nhất thì đánh đồng "Quyền công tố với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát" [35, tr. 5]. Quan điểm thứ hai coi "Quyền công tố chỉ là quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự" [35, tr. 5]. Quan điểm thứ ba coi "Quyền công tố là quyền của Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm" [35, tr. 5]. 20 Quan điểm thứ tư cho rằng quyền công tố là quyền buộc tội (quyền truy cứu trách nhiệm hình sự) nhân danh Nhà nước (nhân danh quyền lực công) đối với kẻ phạm tội. Quyền này là quyền của Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan Viện kiểm sát). Để làm được điều này, cơ quan công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa. Và do quyền công tố là truy cứu trách nhiệm hình sự nhân danh công quyền đối với người phạm tội nên đối tượng của quyền công tố chỉ là phạm và người phạm tội [35, tr. 5-6]. Quan điểm thứ năm cho rằng: "Công tố là buộc tội, đưa một người ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa" [11, tr. 32]. Quan điểm cuối cùng lại cho rằng: "Quyền công tố là quyền do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án hình sự từ giai đoạn khởi vụ án đến giai đoạn thi hành án" [16, tr, 14]. Như vậy các quan điểm trên hoặc là đã mở rộng phạm vi quyền công tố sang cả các lĩnh vực khác; hoặc là đã thu phạm vi quyền công tố trong một giai đoạn cụ thể là giai đoạn Viện kiểm sát truy tố người phạm tội và thực hiện chức năng buộc tội tại phiên tòa; hoặc coi quyền công tố là một quyền năng cụ thể của Viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Nhìn chung các quan điểm trên phần nào vẫn có những hạt nhân hợp lý, tuy nhiên các quan điểm trên vẫn chưa phân định rõ khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi của quyền công tố, để làm rõ được khái niệm này trước hết cần phải xuất phát từ các cơ sở lý luận và thực tiễn sau: - Quyền công tố là quyền lực công, xuất hiện và gắn liền với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật: "Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu Nhà 21 nước từ Nhà nước chủ nô đến Nhà nước hiện đại" [16, tr, 118-119]. Nhà nước ra đời và tồn tại trong một xã hội có giai cấp đối kháng không thể điều hòa được. Đồng thời bất cứ kiểu Nhà nước nào cho dù sơ khai nhất cũng ban hành ra pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội ở các mức độ khác nhau và để bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, trừng phạt những người có ý chí chống lại giai cấp cầm quyền thông qua việc buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi được coi là tội phạm. Do vậy bản chất của quyền công tố chính là quyền nhân danh Nhà nước để bảo vệ lợi ích công đó chính là sự buộc tội. - Thiết chế Nhà nước càng phát triển ở mức độ cao thì sự phân công, phân nhiệm các chức năng để thực hiện quyền lực công đó càng được phân công, phân nhiệm một cách rõ ràng và cụ thể. Ở Nhà nước phong kiến trước đây quyền công tố cũng như quá trình tố tụng của một vụ án hình sự có thể được giao cho một người vừa có chức năng quản lý hành chính vừa có chức năng điều tra, truy tố xét xử, thi hành án hình sự. Tuy nhiên xã hội ngày càng phát triển, sự chuyên môn hóa ngày càng cao thì quyền công tố cũng được giao cho một cơ quan có chức năng, nhiệm vụ riêng biệt để nhân danh Nhà nước xử lý người đã thực hiện hành vi được coi là tội phạm. Cơ quan đó sử dụng các quyền năng pháp lý nhất định đó được gọi là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố. - Quyền công tố cũng như bất kỳ một quyền (hay nhóm quyền) nào của Viện kiểm sát luôn phải được xem xét trong mối quan hệ với tính đặc thù của một lĩnh vực pháp luật cụ thể trong hoạt động của Viện kiểm sát. Hay nói cách khác đây là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Xem xét khái niệm quyền công tố trong tổng thể lĩnh vực pháp luật hình sự để thấy quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực công để trấn áp, hoặc công khai tố cáo với xã hội về một hành vị bị coi là vi phạm pháp luật hình sự. Ở đây cần phải hiểu thuật ngữ công tố với ý nghĩa là một nguyên tắc của tố tụng hình sự. Có nghĩa là mọi hoạt động để thực hành quyền công tố trước hết phải nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, nghĩa vụ chứng minh tội 22 phạm và người phạm tội thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng, trong khi đó ở các lĩnh vực tố tụng khác nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự. - Bản chất của tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ tố tụng hình sự trong việc phát hiện, xác định và xử lý chủ thể thực hiện hành vi phạm tội được thể hiện ở ba chức năng chính là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Trong đó chức năng buộc tội là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội. Hình thức buộc tội là nhân danh Nhà nước (công quyền) giữ vai trò là động lực chính thu hút hoạt động của tất cả các chủ thể tham gia tố tụng. Như vậy, công tố là quyền lực thuộc về Nhà nước, là quyền nhân danh Nhà Nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm. Quyền này được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện trong việc phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Cơ quan được giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập chứng cứ để xác định tội phạm và đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa. Qua đó có thể xác định được đối tượng, nội dung, phạm vi của quyền công tố. Đối tượng công tố là yếu tố mà quyền lực công tố tác động vào nhằm đạt mục đích cụ thể của quyền công tố, đó có thể là mục đích buộc tội được người phạm tội để trừng phạt, khôi phục trật tự pháp luật đã bị xâm hại, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị…Do vậy quyền công tố là quyền lực nhà nước, do Nhà nước đứng ra thay mặt xã hội thực hiện việc buộc tội nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội và đối tượng của quyền công tố nhắm tới chính là tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm. Phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra thì quyền công tố cũng bắt đầu xuất hiện và kết thúc khi bản án hình sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc vụ án bị đình 23 chỉ theo các quy định của pháp luật. Nó "treo lơ lửng" đối với bất kỳ người thực hiện hành vi tội phạm nào kể cả tội phạm ẩn nếu còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ áp dụng các quyền năng pháp lý khác nhau để phát hiện tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, tìm ra các chứng cứ buộc tội, thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi cơ quan tiến hành tố tụng dùng các quyền năng pháp lý của mình được Bộ luật Tố tụng hình sự giao cho để khởi động quyền công tố thì cũng xuất hiện khái niệm thực hành quyền công tố. Đây là khái niệm có liên hệ mật thiết với nhau bởi lẽ khi có hành vi phạm tội xảy ra, mối quan hệ giữa Nhà nước với người thực hiện hành vi phạm tội phát sinh. Trách nhiệm của Nhà nước là truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Điều đó có nghĩa là phát sinh quyền công tố và có cơ quan dùng các quyết định cụ thể để thực hiện quyền công tố. Cơ quan được giao thực hiện quyền công tố chính là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố. Vậy thực hành quyền công tố là thực hiện hóa các quyền công tố trong đời sống xã hội. Việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở mỗi quốc gia khác nhau thì được giao cho các cơ quan khác nhau, từ đó vị trí, vai trò, phạm vi hoạt động của cơ quan thực hành quyền công tố ở mỗi nước khác nhau là khác nhau. Để hiểu một cách đầy đủ về thực hành quyền công tố cần phải xác định rõ phạm vi của thực hành quyền công tố. Có thể xác định được phạm vi thực hành quyền công tố trùng với phạm vi của quyền công tố có nghĩa là phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi bản án hình sự được tòa án xét xử có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên thực tế thì không phải bất kỳ vụ án nào xảy ra các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng có thể phát hiện ra để xử lý một cách kịp thời. Đây là mối quan hệ giữa khả năng và việc thực hiện hóa khả năng, giữa Nhà nước trao quyền và việc thực hiện quyền lực đó trên thực tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 24
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan