Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chính sách đối ngoại của hàn quốc đối với các nước đông bắc á (1989 2010)...

Tài liệu Chính sách đối ngoại của hàn quốc đối với các nước đông bắc á (1989 2010)

.PDF
54
392
70

Mô tả:

ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ----------------- PHAN THỊ ANH THƯ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á (1989 – 2010) Chuyên ngành: Lịch sử thế giới Mã số: 62 22 03 11 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HUẾ - NĂM 2016 Công trình được hoàn thành tại: Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Hoàng Văn Hiển 2. PGS. TS. Hoàng Thị Minh Hoa Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế họp tại: …………………………………………………………… Vào hồi ………giờ……. ngày…….tháng……..năm........... Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế Thư viện Quốc Gia Việt Nam 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Yalta bị phá vỡ, hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN) thế giới sụp đổ, bàn cờ chính trị quốc tế được tái sắp xếp với những thay đổi hết sức căn bản. Một trật tự thế giới mới từng bước hình thành theo xu hướng “đa cực” cho thấy ý thức cân bằng quyền lực của các nước lớn trong sự đối trọng với Mỹ siêu cường duy nhất của thế giới sau khi Liên Xô tan rã (1991). Trong bối cảnh mới, các nước đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại, cùng tồn tại hòa bình, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh và phát triển. Những đặc điểm nói trên đòi hỏi mỗi nước phải nhanh chóng điều chỉnh chính sách đối ngoại một cách phù hợp để chủ động hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, phát triển quốc gia - dân tộc. Ở Đông Bắc Á, Hàn Quốc đang từng bước vươn lên trở thành một đối tác chiến lược, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác của cả khu vực. Sau Chiến tranh lạnh, quốc gia này đã tích cực điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng ưu tiên hợp tác với Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên. Nỗ lực và những kết quả bước đầu của Hàn Quốc đã cho thấy vị trí và vai trò của quốc gia này trong tiến trình hợp tác khu vực. Tuy nhiên, đến tận thế kỷ XXI, Đông Bắc Á vẫn là “vùng trũng an ninh” số một của Hàn Quốc. Để sinh tồn, phát triển và trở thành lực lượng lãnh đạo khu vực, Hàn Quốc buộc phải duy trì lợi ích quốc gia với Nhật Bản, Trung Quốc và đảm bảo lợi ích dân tộc với CHDCND Triều Tiên. Trong quá trình này, việc vượt qua hàng loạt rào cản (ý thức hệ, bất đồng lịch sử, ký ức chiến tranh) sẽ là bước khởi đầu trên con đường tạo dựng quan hệ song phương và đa phương ở khu vực. Tuy nhiên, trong thực tế, bước đi đầu tiên này của ngoại giao Hàn Quốc lại chưa thể vượt qua cánh cửa của “chủ nghĩa dân tộc”. Sự chi phối của ký ức thời chiến và vai trò liên minh quân sự với Mỹ vẫn còn khá đậm nét trong chính sách đối ngoại của Hàn Quốc. Thực tế này đặt ra thách thức không nhỏ đối với nhiệm vụ thống nhất đất nước và thống nhất khu vực của quốc gia này ở Đông Bắc Á. Nghiên cứu về chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á, vì lẽ đó, sẽ là điều cần thiết cho việc nhận diện các mối quan hệ quốc tế trong bối cảnh hội nhập. 2 Đối với Việt Nam, Hàn Quốc từ chỗ là đối tác toàn diện (2001) đã trở thành đối tác chiến lược (2009), do đó, việc nghiên cứu về Hàn Quốc lại càng cấp thiết không chỉ ở góc độ khoa học mà còn ở ý nghĩa thực tiễn to lớn. Từ những lý do nói trên, chúng tôi quyết định lựa chọn vấn đề “Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1989 - 2010)” làm đề tài luận án tiến sĩ thuộc chuyên ngành: Lịch sử thế giới nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu quan hệ quốc tế ở Đông Bắc Á nói chung và chính sách của Hàn Quốc đối với khu vực này nói riêng. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam Các công trình nghiên cứu có thể chia thành ba nhóm sau đây: Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu về vai trò, vị trí của Hàn Quốc trong tiến trình hợp tác khu vực Đông Bắc Á. Các bài viết tiêu biểu của Tôn Khánh Linh:“Một số khía cạnh chính trị và an ninh của cộng đồng Đông Á” (Nghiên cứu Quốc tế, 2001); Trần Bá Khoa: “Hiện trạng và triển vọng hợp tác kinh tế Đông Á” (Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, 2003) v..v. Đi sâu phân tích và luận giải về vai trò, vị trí của Hàn Quốc thông qua tiến trình hợp tác khu vực là hai ấn phẩm: “Những xu hướng phát triển kinh tế chủ yếu ở khu vực Đông Bắc Á” do Ngô Xuân Bình chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, 2007 và “Một số vấn đề cơ bản về hợp tác ASEAN+3” do Nguyễn Thu Mỹ chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, 2008. Nhóm thứ hai: Nghiên cứu chung và riêng về chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á từ sau Chiến tranh lạnh. Tiêu biểu nhất trong mảng nghiên cứu chung về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc trong mối liên hệ với các quốc gia đồng minh và các chủ thể chính trị ở Đông Bắc Á là cuốn: “Hàn Quốc với khu vực Đông Á sau Chiến tranh lạnh và quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc” do Nguyễn Hoàng Giáp chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành vào năm 2009. Một công trình khác do Ngô Xuân Bình chủ biên, Nxb Từ điển Bách khoa ấn hành (2012): “Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc trong bối cảnh quốc tế mới” cũng dành 35 trang để phân tích và nêu bật những chuyển biến trong chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á, lấy bối cảnh quốc tế làm trung tâm. Ngoài ra, còn có các tin bài của Thông 3 tấn xã Việt Nam (TTXVN):“Chính sách ngoại giao cân bằng của Hàn Quốc” (Tin tham khảo thế giới, 25-6-2005); “Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc – thực dụng và có trọng điểm” (Tin thế giới, 21-01-2008)… và“Toàn cầu hóa và chính sách ngoại giao kinh tế của Hàn Quốc trong thập niên cuối thế kỷ XX” của Trần Thị Duyên (Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5, 2008). Đây đều là những công trình viết riêng về chính sách của Hàn Quốc đối với các nước trong khu vực nhằm làm rõ hai đặc điểm trọng yếu: “ngoại giao vì sự ổn định kinh tế” và “ngoại giao tranh thủ sự ủng hộ của thế giới”. Nhóm thứ ba: Các công trình nghiên cứu về tác động, ảnh hưởng và nhận định, đánh giá về chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á sau Chiến tranh lạnh. Nội dung này được nhiều nhà bình luận chính trị - xã hội phản ánh qua tin bài của TTXVN và được học giả trong nước thừa nhận: “Chiến dịch ngoại giao của Hàn Quốc – Thách thức với cả Bình Nhưỡng và Washington” (Tin tham khảo thế giới, 17-012002); “Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc dưới thời Lee Myung Bak” (Tin tham khảo thế giới, 19-01-2008); Trần Thị Nhung: “Sóng gió trong quan hệ liên Triều kể từ khi Lee Myung Bak lên cầm quyền” (Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 12, 2008)… Đáng chú ý, tài liệu tham khảo số 12-2007 của TTXVN đã dành riêng một chuyên khảo về: “Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc” nhằm phân tích chính sách đối ngoại của quốc gia này trong tương quan địa – chính trị ở Đông Bắc Á. 2.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề ở nước ngoài Các công trình được chia thành ba nhóm nội dung lớn: Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu tổng quan về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc. Trước hết, các công trình nghiên cứu tổng hợp dưới dạng thông sử:“Korea’s Place in the Sun: A Modern History” của Cumings, Bruces (New York: Norton, 2005); “Everlasting Flower: A History of Korea” của Keith Pratt (Reaktion Book, 2007)… Trong đó, tiêu biểu nhất là: “Understanding Korean Politics – An Introduction” (2001) của đồng tác giả Soong Hoom Kil và Chung In Moon (New York University, Albany) với việc tái hiện tương đối đầy đủ cơ sở lịch sử, chính trị, chính sách đối ngoại và chính sách thống nhất dân tộc của Hàn Quốc từ sau Chiến tranh lạnh. Nhóm thứ hai: Nghiên cứu chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á. Các công trình của Choong Nam Kim: 4 “The Roh Moon Hyun Government’s Policy toward North Korea” (East-West Center Working Papers, 2005); Gilbert Rozman, In Taek Hyun, Shin Wha Lee: “South Korean Strategic Thought toward Asia” (2008) v..v bàn về nhân tố tác động, hoàn cảnh ra đời của chính sách Hàn Quốc trên cơ sở vấn đề hạt nhân và kết quả thiết lập trật tự khu vực. Công trình của Kim Hosup: “Evaluation of President Roh Moo Hyun’s Policy toward Japan” (Korea Focus, 2005); Sukhee Han: “From Engagement to Hedging: South Korea’s New China Policy” (The Korean Journal of Defense Analysis, 2008)… làm rõ thành công, hạn chế của chính sách và giải mã lợi ích chiến lược của các nước lớn khi cùng Hàn Quốc tham gia tiến trình hợp tác khu vực. Ngoài ra, còn có loạt nghiên cứu của các học giả phương Tây: Dlynn Faith Armstrong: “South Korea’s Foreign Policy in the Post - Cold War Era: A Middle Power Perspective” (1997); Scott Snyder: “Lee Myung Bak and the Future of Sino-South Korean Relations” (2008) v..v. Đây đều là những công trình viết riêng về Hàn Quốc hoặc viết chung về quá trình hợp tác khu vực, trong đó đề cập đến khả năng và triển vọng liên kết giữa Hàn Quốc với các quốc gia ở Đông Bắc Á. Nhóm thứ ba, nghiên cứu về hệ quả chung và riêng của chính sách Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á. Phân tích hệ quả chung của chính sách (nâng cao vai trò, vị thế của Hàn Quốc và gia tăng liên kết khu vực) là Kim Choong Nam: “The Sunshine Policy and Its Impact on South Korea’s Relations with Major Powers” (Korean Observer, 2004); Lytton L. Guimaras: “South Korea’s Foreign and Security Policies and the Process of East Asia Integration” (2010)… Trong khi đó, nhóm tác giả Seongho Sheen: “Japan-South Korea Relations: Slowly Lifting the Burden of History” (Asia-Pacific Center for Security Studies, 2003) và Francoise Nicolas với “The Changing Economic Relations between China and Korea: Patterns, Trends and Policy Implications” (The Journal of the Korean Economy, 2009) v..v lại tập trung nghiên cứu hệ quả riêng của chính sách đối ngoại Hàn Quốc (tăng cường hợp tác, phát triển quan hệ với Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên). Thông qua việc trình bày tình hình nghiên cứu về chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á, chúng tôi rút ra ba nhận xét: Thứ nhất, hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu về chính sách đối ngoại Hàn Quốc một cách toàn diện và hệ thống, đặc biệt là dưới góc độ 5 sử học. Thứ hai, các công trình chỉ lựa chọn một số giai đoạn ngắn hoặc những khía cạnh đơn lẻ để nghiên cứu. Thứ ba, còn khá nhiều nội dung liên quan đến đề tài chưa được làm rõ một cách thấu đáo, cần tiếp tục tìm hiểu như: Cơ sở hình thành chính sách; nguyên nhân dẫn đến những thành công, hạn chế của chính sách v..v. Mặc dù vậy, các công trình nói trên đã giúp tác giả luận án bước đầu định hình ý tưởng, xác lập nội dung và lựa chọn phương pháp triển khai đề tài một cách hiệu quả. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài khôi phục và phân tích một cách hệ thống, toàn diện chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1989 - 2010). 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, người nghiên cứu sẽ thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau: - Thứ nhất, trình bày cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1989 – 2010); trong đó, phân tích khái quát về chính sách của Hàn Quốc (1948 - 1989) (kể từ khi Hàn Quốc lập quốc cho đến khi Chiến tranh lạnh đi vào hồi kết). Đồng thời, nêu bật những chuyển biến mới của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước từ sau Chiến tranh lạnh. - Thứ hai, nhận diện và phân tích những nội dung chủ yếu trong chính sách của Hàn Quốc đối với khu vực Đông Bắc Á từ năm 1989 đến năm 2010; qua đó, nêu lên những điều chỉnh chiến lược trong chính sách của nước này trên các lĩnh vực hợp tác song phương. - Thứ ba, xác định những điểm chung và riêng trong chính sách của Hàn Quốc đối với Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên. Rút ra nhận xét, đánh giá về chính sách của Hàn Quốc trên cả hai mặt thành công và hạn chế. Trên cơ sở đó, đúc kết những bài học kinh nghiệm trong việc điều chỉnh chính sách đối ngoại cho Hàn Quốc và Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á trên 3 lĩnh vực quan hệ cơ bản: An ninh – chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội (1989 – 2010). 6 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về mặt không gian, đề tài tập trung nghiên cứu chính sách của Hàn Quốc đối với ba quốc gia ở khu vực Đông Bắc Á: Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên. Ngoài ra, một số chủ thể khác liên quan, đề tài cũng sẽ đề cập đến trong chừng mực nhất định (đối chiếu, so sánh) nhằm đảm bảo tính toàn diện của đề tài. Về mặt thời gian, đề tài dành trọng tâm nghiên cứu chính sách của Hàn Quốc đối với khu vực Đông Bắc Á trong những năm 1989 - 2010. Dù Chiến tranh lạnh được tuyên bố chấm dứt vào 1989 và chỉ thực sự kết thúc sau khi Liên Xô tan rã (1991) nhưng chúng tôi vẫn chú ý phân tích kỹ các sự kiện có liên quan từ trước đó cũng như cả hai mốc 1989 và 1991 nhằm đảm bảo tính logic của vấn đề. 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tư liệu Tác giả luận án đã tập hợp và khai thác bốn nhóm tư liệu sau đây: [1] Các tài liệu của Chính phủ, Cơ quan ở Hàn Quốc và nhóm Nghiên cứu Đông Á. [2] Các giáo trình, sách chuyên khảo - tham khảo của học giả Việt Nam và quốc tế. [3] Các nghiên cứu của tác giả Hàn Quốc và nước ngoài; các trang báo uy tín của Mỹ; cơ quan truyền thông của Hàn Quốc, cơ quan báo chí của Nhật Bản và CHDCND Triều Tiên. [4] Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ ở trong nước. Tài liệu từ một số địa chỉ website trên mạng Internet. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Về phương pháp luận: Luận án quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề quan hệ quốc tế để xem xét, đánh giá chính sách của Hàn Quốc đối với khu vực Đông Bắc Á. - Về phương pháp nghiên cứu: Phương pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp giữa chúng được sử dụng như dòng mạch chủ yếu. Bên cạnh đó, đề tài còn vận dụng linh hoạt một số phương pháp khoa học liên ngành của các ngành Quan hệ quốc tế, Quan hệ kinh tế quốc tế, Địa - Chính trị... như các phương pháp: Phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê, dự báo khoa học khi đi sâu nghiên cứu từng nội dung cụ thể nhằm nhìn nhận và đánh giá vấn đề một cách xác thực. 7 6. Đóng góp của đề tài 6.1. Về mặt khoa học Thứ nhất, luận án là công trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách chi tiết, toàn diện và hệ thống về chính sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1989 – 2010), góp phần khỏa lấp khoảng trống trong các nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc thời hiện đại. Thứ hai, luận án rút ra một số nhận xét về chính sách đối ngoại của H à n Q u ố c trong giai đoạn này (đặc biệt là những thành công đạt được và hạn chế cơ bản của các chính sách) . Thứ ba, nhận biết sự chuyển hướng đường lối đối ngoại của Hàn Quốc từ cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Trên cơ sở đó, xác định một số vấn đề đặt ra cho Hàn Quốc và liên hệ đối với Việt Nam trong lĩnh vực quan hệ quốc tế. 6.2. Về mặt thực tiễn Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu và giảng dạy cho sinh viên và học viên cao học các chuyên ngành: Lịch sử thế giới, Quan hệ quốc tế, Quốc tế học, Đông phương học và những ai quan tâm đến vấn đề này. Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án (ở một mức độ nhất định) có thể cung cấp thêm những thông tin hữu ích cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam trong lĩnh vực đối ngoại. Từ đó, tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. 7. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, bố cục của luận án gồm ba chương: Chương 1. Cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1989 – 2010) Chương 2. Những nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1989 - 2010) Chương 3. Một số nhận xét về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1989 - 2010).  8 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á (1989 – 2010) 1.1. Yếu tố lịch sử: Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á (1948 – 1989) 1.1.1. Đối với Nhật Bản Những năm đầu sau CTTG thứ hai, phong trào chống Nhật tiếp tục dâng cao trong các tầng lớp nhân dân Hàn Quốc do ký ức về thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng bán đảo Triều Tiên (1910 – 1945). Sau khi Hiệp ước phòng thủ chung ra đời (1953), Mỹ “định hướng” Hàn Quốc cải thiện quan hệ với Nhật Bản. Bị buộc vào “thế chân vạc” của mối quan hệ Mỹ - Nhật - Hàn, Hàn Quốc đã lựa chọn chính sách ngoại giao “nước đôi” – vừa quan hệ, vừa đề phòng nước láng giềng vào những năm 1950. Khi Park Chung Hee lên nắm quyền (1961), ông đã chuyển dịch trọng tâm đối ngoại của Hàn Quốc từ CHDCND Triều Tiên sang Nhật Bản. Theo đó, từ tháng 10-1961, các cuộc đàm phán song phương đã được nối lại, tạo cơ sở ký kết “Hiệp ước quan hệ cơ bản” (22-6-1965) nhằm chính thức thiết lập ngoại giao giữa hai nước. Park Chung Hee trở thành “cha đẻ” của chính sách “thân Nhật” ngay từ đầu thập niên 60. Bước vào thập niên 80 của thế kỷ XX, nhà cầm quyền Chun Doo Hwan thực hiện đa nguyên hóa chính sách đối ngoại, tăng cường giao lưu với các đối tác phi truyền thống nhưng vẫn coi quan hệ với Nhật Bản là trụ cột. Thái độ hợp tác của Seoul đã được Thủ tướng Nhật Bản Yasuhiro Nakasone ghi nhận bằng chuyến viếng thăm đầu tiên đến Hàn Quốc (1983). Tuy nhiên, bầu không khí “hòa dịu” này chẳng thể duy trì đến đầu thập niên 90 do Chính phủ Nhật Bản tuyên bố chủ quyền với quần đảo Liancourt (Dokdo/Takeshima). Không tìm được tiếng nói chung để hóa giải xung đột, Hàn Quốc và Nhật Bản tiếp tục duy trì tình trạng “gần mặt, cách lòng” cho đến sát thời điểm kết thúc Chiến tranh lạnh. 1.2.2. Đối với Trung Quốc Sự ra đời của hai mô hình Nhà nước: TBCN ở Hàn Quốc (1948) và XHCN ở Trung Quốc (1949) đã đẩy hai nước rơi vào cuộc đối đầu gay gắt về ý thức hệ. Trung Quốc ủng hộ CHDCND Triều Tiên, không 9 công nhận chính phủ Hàn Quốc và sử dụng cách mạng XHCN để “cộng sản hóa” miền Nam. Đến thập niên 70 của thế kỷ XX, Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với Nhật Bản (1972) và Mỹ (1979) nhưng không thực hiện chính sách “hai Triều Tiên”. Tương tự, Hàn Quốc cũng không đề xuất một chính sách nào nhằm tháo gỡ vướng mắc với nước láng giềng do không thể lôi kéo Trung Quốc từ bỏ liên minh “môi hở răng lạnh” với Bình Nhưỡng. Đến đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, Hàn Quốc buộc phải điều chỉnh tư duy Chiến tranh lạnh thông qua chính sách cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, giới chức hai bên chỉ thực sự có liên hệ chính thức từ năm 1983. Kết quả này đạt được sau sự kiện Hàn Quốc hỗ trợ một máy bay dân sự của Trung Quốc bị bắt cóc, phải hạ cánh xuống phi trường Seoul. Từ đó, Đặng Tiểu Bình đã ủng hộ các hoạt động giao lưu văn hóa giữa hai nước. Tháng 41984, đoàn vận động viên Bắc Kinh đã đến Seoul tham dự giải vô địch bóng rổ châu Á lần thứ VIII. Kể từ đây, quan chức hai bên bắt đầu gặp gỡ, tiếp xúc trong các hội nghị và diễn đàn quốc tế với tinh thần thân thiện và cởi mở hơn. 1.2.3. Đối với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Ngay từ khi mới ra đời, nhờ hậu thuẫn của Mỹ, Hàn Quốc được Liên Hợp Quốc công nhận là Nhà nước duy nhất trên bán đảo Triều Tiên. Chính điều này đã định hình tâm lý chống đối và đường lối ngoại giao cứng rắn, cực đoan của miền Nam do tâm lý nôn nóng muốn giành lại “phần lãnh thổ đã mất”. Quyết tâm chính trị này được phản ánh trong chính sách “Bắc tiến” do Ngoại trưởng Hàn Quốc - Chang Taek Sang công bố vào ngày 08-10-1948. Mục tiêu trọng tâm của chính sách là “xóa bỏ sự đe dọa trực tiếp của lực lượng cộng sản miền Bắc”. Tình cảnh xã hội rối ren và đất nước đứng bên miệng hố “suy vong” buộc Hàn Quốc phải điều chỉnh chính sách “Bắc tiến” (1948 - 1953) thành chính sách “Bắc tiến và thống nhất” với đường lối chính trị cứng rắn và cực đoan gấp bội. Chính sách mới được Thủ tướng Hàn Quốc công bố trước Quốc hội vào ngày 14-7-1954 với quyết tâm: “Càng sớm càng tốt xây dựng một quốc gia thống nhất, tự do, dân chủ và độc lập bằng việc đánh đuổi Trung Quốc ra khỏi đất nước và đập tan bè lũ miền Bắc”. Chịu sự khống chế của “Hiệp ước an ninh chung” (1953) với cam kết không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, kế hoạch thống nhất Triều Tiên của chính quyền Syng Man Rhee trở nên 10 vô vọng. Thấy rõ sự bế tắc trong nỗ lực “đoàn tụ” hai miền, Tổng thống Park Chung Hee đã quán triệt chủ trương “xây dựng trước, thống nhất sau” mà đặt trọng tâm là chính sách “Đệ nhất kinh tế”. Thời điểm quân đội Bắc Triều Tiên bắt giữ tàu hải quân Mỹ - Pueblo và lập kế hoạch ám sát Park Chung Hee nhưng bất thành, Hàn Quốc đã điều chỉnh chính sách “Đệ nhất kinh tế” thành “Xây dựng kinh tế cùng quốc phòng” với tinh thần “vừa xây dựng, vừa chiến đấu”. Sau khi Mỹ đối thoại với Liên Xô và ra Tuyên bố chung Thượng Hải (1972), khai thông quan hệ với Trung Quốc, Hàn Quốc đã“tích cực can dự vào CHDCND Triều Tiên và bước đầu thừa nhận hai thực thể chính trị độc lập, cùng song song tồn tại trên bán đảo Triều Tiên” theo “Tuyên bố ngoại giao đặc biệt về chính sách đối ngoại hòa bình và thống nhất đất nước” của Park Chung Hee (23-6-1973). Kế thừa lối tư duy ngoại giao nhạy bén, thực dụng của người tiền nhiệm, tổng thống đắc cử năm 1980 – Chun Doo Hwan vẫn một mực trung thành với chủ trương thống nhất đất nước phải thông qua đối thoại. Với việc công bố “Công thức thống nhất hòa bình”, hay còn gọi là “Công thức hòa giải dân tộc và thống nhất dân chủ” (1982), Chun Doo Hwan kêu gọi chấm dứt “quan hệ không bình thường” giữa hai bên trên cơ sở tăng cường các cuộc tiếp xúc bình thường và mở rộng phạm vi trao đổi, hợp tác Bắc - Nam. Tuy nhiên, khó khăn chủ yếu của Hàn Quốc lúc bấy giờ lại là việc miền Bắc yêu cầu miền Nam phải chấm dứt một số hành động liên minh quân sự với Mỹ, hủy bỏ luật an ninh quốc gia. Cũng vì lẽ đó, việc lựa chọn giải pháp đối đầu hay đối thoại giữa hai miền kéo dài mãi cho đến cuối thập kỷ 80. Như vậy, do những diễn biến đa chiều và phức tạp của tình hình an ninh khu vực, việc phát triển quan hệ với Nhật Bản, Trung Quốc và tái thống nhất với CHDCND Triều Tiên vẫn là mục tiêu mà Hàn Quốc phải tiếp tục theo đuổi trong các chính sách ngoại giao đầu thế kỷ XXI. 1.2. Bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước từ sau Chiến tranh lạnh 1.2.1. Bối cảnh quốc tế, khu vực và sự thay đổi chiến lược của các nước lớn 1.2.1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực Tình hình quốc tế từ sau Chiến tranh lạnh chứng kiến sự thay đổi đáng kể về nội dung và tính chất của quá trình giao lưu toàn cầu, trong đó 11 xu thế phụ thuộc, hợp tác và thẩm thấu lẫn nhau về kinh tế trở thành nội dung chủ đạo. Với trường hợp Đông Bắc Á, đây là khu vực có nội tình phức tạp, nổi bật nhất vẫn là đặc điểm cùng tồn tại, vận hành, cùng cải cách, đấu tranh, cùng kiềm chế, phát triển giữa các thể chế chính trị - xã hội TBCN và XHCN. Tuy vậy, vào thời kỳ “tan băng” của đối đầu Đông – Tây trong quan hệ quốc tế, các nước ở trong và ngoài khu vực đã từng bước điều tiết sự xung đột về ý thức hệ, tích cực điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. 1.2.1.2. Sự thay đổi chiến lược của các nước lớn Chịu tác động của xu thế đối thoại và hội nhập từ sau Chiến tranh lạnh, Mỹ bắt đầu tăng cường tiếp xúc, cải thiện quan hệ với CHDCND Triều Tiên; đồng thời đứng ra dàn xếp những thỏa thuận có lợi cho tiến trình hòa giải của Hàn Quốc. Nhật Bản cũng tăng cường đối thoại với Bình Nhưỡng nhằm đảm bảo “lợi ích kép”: An ninh quốc gia và hòa bình khu vực. Trung Quốc tích cực vun đắp quan hệ với Mỹ, Nhật Bản nhằm giải quyết vấn đề toàn vẹn lãnh thổ với Đài Loan; đồng thời chủ động tiếp cận Hàn Quốc do nhu cầu bức bách về vốn và công nghệ trong phát triển kinh tế. 1.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội và nhu cầu cố kết quan hệ khu vực của Hàn Quốc 1.2.2.1. Tình hình kinh tế - xã hội của Hàn Quốc Sau khi hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, Hàn Quốc đã sánh bước cùng các nước công nghiệp mới (NICs) với tư cách là một trong bốn “con rồng châu Á”. Nước này cũng gia nhập Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) của các nước phát triển (1996). Sức mạnh kinh tế của một quốc gia công nghiệp trẻ đã lôi cuốn, thuyết phục Nga và Trung Quốc “kết giao” với đối thủ của họ từ thời Chiến tranh Triều Tiên. Hàn Quốc còn tiếp cận với các nước thuộc “Thế giới thứ ba” thông qua viện trợ vốn và hỗ trợ kỹ thuật. Hình ảnh về một “Hàn Quốc mới” – dân chủ, cởi mở và thân thiện đã được Chính phủ nước này tạo dựng nhằm nâng cao tình hữu nghị song phương với các quốc gia vốn tồn tại sự khác biệt về thể chế chính trị. 2.1.2.2. Nhu cầu cố kết quan hệ khu vực của Hàn Quốc Khi xu hướng hòa hoãn của thế giới lên đến đỉnh cao, Hàn Quốc coi việc cải thiện quan hệ với CHDCND Triều Tiên là ưu tiên số một trong chính sách khu vực để “mở đường” cho tiến trình hòa giải dân tộc. 12 Trong khi đó, Hàn Quốc vẫn phải dựa vào Nhật Bản để bổ khuyết thiếu hụt về kỹ thuật, phương thức sản xuất vàtranh thủ sự ủng hộ của đồng minh để dàn xếp bất hòa trong quan hệ liên Triều. Ngoài ra, nước này cũng cần xây dựng mối quan hệ chiến lược với Trung Quốc để duy trì lợi ích quốc gia (nâng cao vị thế đất nước) và lợi ích dân tộc (thống nhất bán đảo Triều Tiên). 1.2.3. Định hướng điều chỉnh chính sách của Hàn Quốc Sự đa dạng và phức tạp trên chính trường Đông Bắc Á buộc Hàn Quốc phải lựa chọn khu vực này là hướng ưu tiên trong chiến lược đối ngoại của mình. Về cơ bản, chiến lược ngoại giao của Hàn Quốc sẽ tập trung vào ba nhóm vấn đề lớn: Một là, tích cực giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, thúc đẩy hòa giải dân tộc, chấm dứt tình trạng chia cắt hai miền; hai là, tăng cường hợp tác kinh tế, văn hóa – xã hội nhưng vẫn cảnh giác vấn đề an ninh – chính trị với Nhật Bản; ba là, củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị chiến lược với Trung Quốc. Đặc biệt, từ sau khi quan hệ quốc tế bước vào thời kỳ hòa dịu, Hàn Quốc luôn nỗ lực tạo dựng một môi trường hòa bình, thịnh vượng ở Đông Bắc Á, khởi đầu bằng việc điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm cải thiện và tăng cường quan hệ với Nhật Bản, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên trên các lĩnh vực hợp tác cơ bản của đời sống xã hội.  CHƯƠNG 2 NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á (1989 – 2010) 2.1. Trên lĩnh vực an ninh - chính trị 2.1.1. Đối với Nhật Bản Đến cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, làn sóng chống Nhật ở Hàn Quốc vẫn chưa hề lắng dịu. Do vậy, chính sách “Ngoại giao phương Bắc” của chính quyền Roh Tae Woo vẫn chú trọng cải thiện quan hệ liên Triều hơn là đẩy mạnh liên kết với Nhật Bản. Đến năm 1994, Kim Young Sam đề ra chính sách “ngoại giao bốn bên” (hay chính sách “ngoại giao tứ cường”) nhằm duy trì quan hệ đồng minh với Mỹ, Nhật Bản và phát triển quan hệ hữu nghị với Nga, Trung Quốc. Thế nhưng, khi Trung Quốc bước 13 vào giai đoạn phát triển đỉnh cao và quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản bắt đầu rạn nứt từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX, Kim Young Sam lại tuyên bố chính sách “kháng Nhật”. Mong muốn chấm dứt cuộc khủng hoảng chính sách với Nhật Bản suốt 33 năm (1965 - 1998), người kế nhiệm Kim Dae Jung đã tổ chức cuộc họp Thượng đỉnh với Thủ tướng Keizo Obuchi và đưa ra “Tuyên bố chung về quan hệ đối tác mới Hàn Quốc - Nhật Bản trong thế kỷ XXI”. Quyết tâm xây dựng “kỷ nguyên Đông Bắc Á trong thế kỷ XXI” với vai trò kiến tạo của Hàn Quốc và Nhật Bản, tháng 6-2003, Roh Moo Hyun cũng bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống bằng việc tham gia Hội nghị Thượng đỉnh tại Tokyo. Tuy nhiên, sau khi quận Shimane (Nhật Bản) thông qua sắc lệnh coi ngày 22-02 là ngày “Takeshima”, Hàn Quốc đã phát động “chiến tranh ngoại giao” và công bố “chủ nghĩa Roh Moo Hyun” nhằm“phản ứng cứng rắn trước hành động tranh chấp nhóm đảo Dokdo và âm mưu biện bạch cho cuộc xâm lược thuộc địa trong quá khứ”. Việc thực hiện một chính sách lưỡng cực: Vừa tôn trọng tinh thần đồng minh chiến lược, vừa duy trì quan điểm gây bất đồng lịch sử với Nhật Bản của Roh Moo Hyun đã hoàn toàn chấm dứt khi Tổng thống Lee Myung Bak tuyên bố:“sẽ thực hiện chính sách ngoại giao thực dụng, tăng cường quan hệ đồng minh với Mỹ và phát triển quan hệ với Nhật Bản” (Diễn văn nhậm chức, 25-02-2008). Nhờ trung thành với giải pháp nhân nhượng và hợp tác, Lee Myung Bak đã giúp hai nước tự tin bước qua thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI với vai trò đồng minh an ninh và đối tác trao đổi kinh tế, văn hóa – xã hội trong khu vực. 2.1.2. Đối với Trung Quốc Cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, Tổng thống Roh Tae Woo xác lập chính sách “Ngoại giao phương Bắc” với nội dung trọng tâm là cải thiện quan hệ với các nước XHCN. Nhờ vậy, Hàn Quốc đã đẩy nhanh tiến độ bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (24-8-1992). Kế đó, bước tiến lớn nhất mà Hàn Quốc đạt được là thành tựu nâng cấp “quan hệ đối tác hợp tác” với Trung Quốc sau sáu năm duy trì tình cảm láng giềng hữu nghị (1992 - 1998). Ngay trong Tuyên bố chung (1998), Kim Dae Jung đã ủng hộ chính sách “một nước Trung Hoa” và coi Đài Loan là bộ phận lãnh thổ không tách rời của Trung Quốc. Chính sách này tiếp tục được người kế nhiệm Roh Moo Hyun kế thừa bằng nỗ lực nâng cấp quan hệ song phương với Trung Quốc thành “đối tác hợp tác toàn diện” từ năm 2003. Sau khi nhậm chức, Tổng thống Lee Myung Bak ra sức 14 thúc đẩy mối liên kết Hàn – Trung. Trong Tuyên bố chung (2008), Lee Myung Bak đã nâng tầm quan hệ hai bên thành “đối tác hợp tác chiến lược” và khẳng định Hàn Quốc kiên trì chính sách “một Trung Quốc”. Nhờ những thành tựu trong chính sách đối ngoại, Hàn Quốc không chỉ phát triển quan hệ song phương mà còn chủ động hợp tác với Trung Quốc để phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên và duy trì an ninh, ổn định ở Đông Bắc Á. 2.1.3. Đối với CHDCND Triều Tiên Dấu hiệu ấm dần lên của các mối quan hệ quốc tế là “thời điểm vàng” để Hàn Quốc đẩy mạnh hơn nữa chính sách hòa giải dân tộc. Ngay trong diễn văn nhậm chức (1988), Tổng thống Roh Tae Woo tuyên bố:“sẽ thúc đẩy mạnh mẽ chính sách ngoại giao hướng về phương Bắc”. Tinh thần hợp tác này mở đường cho việc ký kết “Hiệp định cơ bản Bắc – Nam” (13-12-1991). Trên nền tảng của “Ngoại giao phương Bắc”, Tổng thống Kim Young Sam tiếp tục đối thoại hòa bình với CHDCND Triều Tiên bằng chính sách “Ngoại giao mới” với năm đặc thù cơ bản của hoạt động đối ngoại: Toàn cầu hóa; đa dạng hóa; đa nguyên hóa; hợp tác khu vực và định hướng tương lai. Tuy nhiên, khi CHDCND Triều Tiên công khai ý định phản bội Tuyên bố chung về phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên (1992) và đơn phương rút khỏi Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân – NPT (1993), Kim Young Sam đã vội vàng chính trị hóa đường lối đối ngoại (củng cố chính sách can dự; cảnh báo nguy cơ chiến tranh và tuyệt giao quan hệ), đẩy tiến trình hòa giải dân tộc vào bế tắc. Để khắc phục hạn chế của chính sách trước đó, Tổng thống Kim Dae Jung đưa ra chính sách ngoại giao “Ánh dương” (1998), tập trung vào các hoạt động trao đổi kinh tế, viện trợ xã hội nhằm thực hiện trước hết mục tiêu hòa giải dân tộc. Qua đó, Hàn Quốc đã tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh liên Triều lần đầu tiên trong lịch sử và ký kết “Tuyên bố chung Bắc – Nam” (6-2000). Năm 2003, chính sách “Hòa bình và thịnh vượng” của Roh Moo Hyun được công bố trong diễn văn nhậm chức, khẳng định duy trì chính sách “Ánh dương” với mong muốn“biến bán đảo Triều Tiên trở thành nơi phát ra thông điệp hòa bình kết nối vùng đất Á - Âu rộng lớn với Thái Bình Dương”. Tháng 10-2007, Roh Moo Hyun tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ hai và ký kết “Tuyên bố về phát triển quan hệ liên Triều, hòa bình và thịnh vượng”, khẳng định“hòa bình, ổn định trên bán đảo 15 Triều Tiên là mục tiêu hành động trong chính sách đối với CHDCND Triều Tiên”. Tuy nhiên, sau khi nắm quyền (2008), Lee Myung Bak lại thay thế các chiến lược ngoại giao “đơn phương xoa dịu” bằng chính sách “ngoại giao thực dụng”, thúc đẩy hợp tác có điều kiện với CHDCND Triều Tiên. Chính sách mới “Tầm nhìn 3000, phi hạt nhân hóa và mở cửa” thực hiện lồng ghép các nhiệm vụ: “Phi hạt nhân hóa” (giải quyết vấn đề hạt nhân), “mở cửa” (giúp miền Bắc xây dựng quan hệ với Mỹ, Nhật Bản). Quan trọng nhất, Hàn Quốc cam kết nâng cao thu nhập bình quân đầu người cho CHDCND Triều Tiên từ 500 USD lên 3000 USD trong vòng 10 năm với điều kiện tiên quyết là nước này phải từ bỏ vũ khí hạt nhân và mở cửa nền kinh tế. Đáp lại, CHDCND Triều Tiên đã đơn phương hủy bỏ các thỏa thuận về quân sự, chính trị với Hàn Quốc (2009) và gây ra vụ đắm tàu hải quân Cheonan, tấn công pháo binh trên biên giới Yeonpyeong (2010). Việc duy trì một cơ chế hòa bình giữa hai miền Triều Tiên (1989 2010) đã trải qua nhiều biến động. Dù có những bước tiến (thời kỳ Roh Tae Woo, Kim Dae Jung, Roh Moo Hyun) hay những bước lùi (thời kỳ Kim Young Sam, Lee Myung Bak) thì chính sách của Hàn Quốc vẫn kích thích và tạo động lực để hai bên tăng cường đối thoại vì hòa bình, hòa giải và hợp tác trong thập niên đầu thế kỷ XXI. 2.2. Trên lĩnh vực kinh tế 2.2.1. Đối với Nhật Bản  Về thương mại Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Tổng thống Roh Tae Woo đưa ra chính sách “Phát triển kinh tế mới” để mở rộng quan hệ với những đối tác phi truyền thống. Giải pháp này tạo ra “bộ ba” thương mại Hàn Quốc – Trung Quốc – Nga cân bằng với tam giác kinh tế Hàn Quốc - Mỹ Nhật Bản. Chính quyền Kim Young Sam (1993) cũng thực hiện một giải pháp đồng bộ khác nhằm khắc phục tình trạng thâm hụt thương mại với Nhật Bản: Chính sách “hạn chế nhập khẩu hàng hóa”. Sau khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á (1997), Tổng thống Kim Dae Jung đưa ra “Kế hoạch hành động cho mối quan hệ đối tác mới Nhật Bản – Hàn Quốc trong thế kỷ XXI”. Theo đó, Hàn Quốc: [1] nghiên cứu tính khả thi của Hiệp định mậu dịch tự do song phương với Nhật Bản; [2] bãi bỏ chính sách “đa phương hóa nhập khẩu” (công cụ cắt giảm thâm hụt thương mại dưới thời Kim Young Sam); [3] thúc đẩy sự ra đời của Diễn đàn mậu 16 dịch tự do Nhật Bản – Hàn Quốc. Từ năm 2003, chính sách của Hàn Quốc trên lĩnh vực kinh tế được phản ánh thông qua cam kết thúc đẩy trao đổi thương mại, thắt chặt quan hệ theo “Hiệp định đối tác kinh tế Nhật Bản - Hàn Quốc” (EPA) và “Tuyên bố chung Nhật - Hàn”. So với chính quyền tiền nhiệm, Lee Myung Bak từ đầu đã công khai mục tiêu chính sách “ngoại giao toàn cầu” và “quan hệ thực dụng” nhằm cộng hưởng tốt hơn với Nhật Bản trên cơ sở lợi ích kinh tế. Qua đó, lấy kết quả hợp tác thương mại làm “hạt nhân” cho việc nâng tầm quan hệ đối tác giữa hai nước trong thế kỷ XXI.  Về đầu tư Từ năm 1998, Hàn Quốc đạt được bước tiến thực sự trong việc thu hút FDI của Nhật Bản và phát triển FDI của chính mình. Trong đó, Tổng thống Kim Dae Jung là người chủ trương cân bằng kim ngạch thương mại thông qua chính sách phát triển đầu tư. Sau khi ra đời Tuyên bố chung: “Xây dựng nền tảng hợp tác Nhật Bản - Hàn Quốc hướng tới một kỷ nguyên hòa bình và thịnh vượng ở Đông Bắc Á”, Hàn Quốc đã cam kết mở rộng hoạt động đầu tư với Nhật Bản bằng việc tìm kiếm cơ hội hợp tác thông qua ký kết Hiệp định Đầu tư song phương; đồng thời đẩy nhanh sự ra đời của Hiệp định này. Giai đoạn 2008 - 2010, với việc đưa “chủ nghĩa thực dụng” vào trong chính sách kinh tế, cụ thể là xúc tiến đầu tư với Nhật Bản để điều tiết cán cân thương mại, các công ty Hàn Quốc đã mạnh dạn đưa vốn ra bên ngoài để mở rộng sản xuất. 2.2.2. Đối với Trung Quốc  Về thương mại Với chủ trương lấy lợi ích kinh tế “mở đường” cho ngoại giao, Tổng thống Roh Tae Woo đã thuyết phục Đặng Tiểu Bình thiết lập quan hệ buôn bán với Hàn Quốc thông qua chính sách “Ngoại giao phương Bắc”. Sau khi thiết lập quan hệ (1992), kim ngạch thương mại song phương đã tăng hơn 20% mỗi năm và vượt quá 40 tỷ USD vào năm 2002. Trung Quốc thậm chí còn làm lu mờ vai trò của Mỹ, trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Hàn Quốc (2003). Trong nhiệm kỳ của mình, Lee Myung Park đã coi việc cải thiện quan hệ với Trung Quốc và nâng cấp kết quả hợp tác kinh tế giữa hai nước là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại. Nhờ thực hiện nhất quán ba nội dung cơ bản trong chính sách kinh tế (thúc đẩy kim ngạch thương mại; cân đối cán cân xuất – nhập khẩu và xúc tiến ký kết 17 AFTA) trong hơn hai thập niên, Hàn Quốc đã tìm được đối tác thương mại lớn nhất, thị trường xuất khẩu lớn nhất, nước nhập khẩu nhiều nhất với nguồn thặng dư thương mại cao nhất cho mình. Đây là tiền đề quan trọng để Hàn Quốc tiếp tục củng cố mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược với Trung Quốc trong thế kỷ XXI.  Về đầu tư Sau khi hai nước ký kết Hiệp định bảo hộ đầu tư (30-9-1992), các công ty Hàn Quốc coi Trung Quốc là điểm đến về đầu tư nước ngoài. Giai đoạn 1998 - 2003, Hàn Quốc đã thực hiện chính sách khuyến khích các ngành công nghiệp thâm dụng lao động đầu tư ra bên ngoài để kích thích sự phát triển của các ngành công nghiệp mới và đẩy nhanh quá trình nâng cấp cơ cấu lao động. Nhờ đó, Trung Quốc đã thay thế Mỹ trở thành điểm đầu tư số một của Hàn Quốc trong những năm 2000. Với số vốn 28,8 tỷ USD FDI của Hàn Quốc ở Trung Quốc (2003 - 2010), mạng lưới thương mại và sản xuất của hai nền kinh tế được mở rộng, quan hệ song phương cũng trở nên sâu sắc hơn. 2.2.3. Đối với CHDCND Triều Tiên  Về thương mại Khi Tổng thống Hàn Quốc Roh Tae Woo đơn phương đưa ra “Tuyên bố đặc biệt về quốc gia tự chủ, thống nhất và thịnh vượng” (07-71988) với chính sách “mở cửa buôn bán liên Triều, coi đây là buôn bán trong nước, trong phạm vi cộng đồng dân tộc” thì thương mại gián tiếp (thông qua nước thứ ba) giữa hai bên mới bắt đầu hình thành. Hợp tác buôn bán liên Triều bắt đầu gia tăng liên tục và ổn định kể từ khi Tổng thống Kim Dae Jung thực hiện chính sách “Ánh dương” với phương châm hòa giải, hợp tác với CHDCND Triều Tiên. Logic của chính sách này là thông qua quá trình hợp tác thương mại, hai miền có thể tạo dựng lòng tin, giảm đối đầu quân sự trên chiến tuyến cuối cùng của Chiến tranh lạnh. Từ năm 2003, Hàn Quốc đưa ra Thông cáo 9 điểm về xúc tiến hợp tác liên Triều với nội dung“nhanh chóng chuyển đổi hình thức giao dịch và gia công hàng hóa giữa hai miền từ gián tiếp sang trực tiếp”. Tuy nhiên, do sự điều chỉnh chính sách của Hàn Quốcđầu năm 2008 với việc lồng ghép chính trị vào với kinh tế và “chính trị đi trước, kinh tế theo sau” nên kim ngạch thương mại liên Triều bắt đầu dịch chuyển theo chiều hướng đi xuống. Dù vậy, đến cuối năm 2010, tổng kim ngạch thương mại hai chiều vẫn đạt 1.912 triệu USD. 18  Về đầu tư Trong hợp tác đầu tư giữa hai bên, Tổ hợp công nghiệp Kaesong, dự án khu du lịch núi Kumkang và dự án khôi phục các tuyến đường giao thông liên Triều được coi là tiêu biểu nhất. Các dự án này được ví như con “át chủ bài” trong chính sách “Ánh dương” nhằm duy trì hòa bình trên bán đảo Triều Tiên bằng giải pháp nhân nhượng, tập trung giúp đỡ kinh tế nhưng vẫn tác động mạnh mẽ đến tư duy mở cửa và đổi mới kinh tế của miền Bắc. 2.3. Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội 2.3.1. Đối với Nhật Bản Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, do nhu cầu thúc đẩy quan hệ với khu vực, Hàn Quốc bắt đầu tiếp cận hạn chế với truyền hình, âm nhạc và phim ảnh của Nhật Bản. Tuy nhiên, sự “dè dặt” này chỉ thực sự giảm bớt khi Tổng thống Kim Dae Jung chống đối quan điểm văn hóa “bài ngoại” của các thế hệ lãnh đạo tiền nhiệm và tuyên bố chính sách “mở cửa” đối với văn hóa Nhật Bản. Năm 2003, Hàn Quốc tái khẳng định: “Tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa đối với văn hóa Nhật Bản bằng việc duy trì các hoạt động giao lưu thể dục - thể thao, trao đổi thanh niên, gặp gỡ lãnh đạo các cấp”. Dựa trên chính sách “ngoại giao thực dụng”, từ năm 2008, Lee Myung Bak không đối đầu trực diện với Nhật Bản về vấn đề sách giáo khoa lịch sử và tranh chấp chủ quyền mà tăng cường giao lưu văn hóa và tiếp xúc xã hội nhằm hạn chế sự lấn át của chủ nghĩa dân tộcvới mục tiêu phát triển quan hệ song phương. 2.3.2. Đối với Trung Quốc Trong chuyến thăm Trung Quốc của Kim Young Sam, Hàn Quốc đã ký kết “Hiệp định hợp tác văn hóa Hàn - Trung” (1994). Đây là văn kiện ngoại giao đầu tiên giữa hai bên từ sau Chiến tranh lạnh có nội dung định hướng chính sách và khuyến khích giao lưu, hợp tác trên các lĩnh vực phi chính trị. Năm 2003, Hàn Quốc đồng ý thúc đẩy quan hệ hữu nghị láng giềng trên cơ sở coi Trung Quốc là đối tác quan trọng trong hợp tác chính trị, kinh tế, văn hóa; đồng thời là “điểm khởi đầu” của “làn sóng Hàn Quốc” (Hallyu) tại Đông Á. Đây là nội dung cơ bản trong chính sách văn hóa – xã hội của Hàn Quốc. Với mục tiêu đưa nước nhà đứng vào top 5 trong ngành công nghiệp văn hóa thế giới, Lee Myung Bak đã nỗ lực xây dựng Hàn Quốc trở thành “Hollywood của phương Đông” và bước đầu phát triển thương hiệu “Hallyu-wood”
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan