Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật việt nam - thực tiễn áp dụng và hướng...

Tài liệu Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật việt nam - thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện

.PDF
126
800
66

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẠNH CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM - THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẠNH CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM - THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Vân Hµ néi - 2012 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU Chương 1: 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG 8 CỦA VỢ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.1. Một số vấn đề lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam 8 1.1.1. Tài sản chung của vợ chồng 10 1.1.1.1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng 10 1.1.1.2. Nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng 11 Chia tài sản chung của vợ chồng 16 1.1.2.1. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng 16 1.1.2.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng 17 1.1.2.3. Đặc điểm của chia tài sản chung của vợ chồng 20 1.1.2. Lịch sử phát triển chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam 22 1.1.3.1. Chia tài sản chung của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến 22 Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật thời kỳ Pháp thuộc 24 1.1.3.3. Chia tài sản chung của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam từ 1945 đến nay 25 Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp 29 1.1.3. 1.1.3.2 1.2. luật Việt Nam hiện hành 1.2.1. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 29 1.2.1.1. Điều kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 29 1.2.1.2. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 32 1.2.1.3. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 34 Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 36 1.2.2.1. Điều kiện chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 36 1.2.2.2. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 36 1.2.2.3. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 38 1.2.2. 1.2.3. Chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết 38 1.2.3.1. Điều kiện chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết 39 1.2.3.2. Nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết 40 1.2.3.3. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết 41 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT 43 HIỆN HÀNH VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG 2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 43 2.1.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về điều kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 44 2.1.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 52 2.1.3. Thực tiễn áp dụng các quy định về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 53 2.2 Thực tiễn áp dụng các quy định chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 61 2.2.1. Thực tiễn áp dụng quy định về xác định tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 64 2.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 80 2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết 86 2.3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về xác định tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết 87 2.3.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết 88 2.3.3. Thực tiễn áp dụng các quy định về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết 90 Chương 3: 93 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG 3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng 93 3.1.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 93 3.1.1.1. Giới hạn quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng 93 3.1.1.2. Quy định cụ thể về lý do chính đáng 95 3.1.1.3. Quy định quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng cho người thứ ba (người có quyền) 97 3.1.1.4. Quy định cụ thể trường hợp vợ chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung và nguyên tắc chia tài sản chung tại Tòa án 98 3.1.1.5. Quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung phải công chứng hoặc được Tòa án công nhận 100 3.1.1.6. Bổ sung thêm quy định về hậu quả pháp lý của chế định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 101 3.1.1.7. Quy định cụ thể về thuế, lệ phí liên quan đến tài sản được 103 chia khi vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân Hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 103 3.1.2.1. Hướng dẫn cụ thể về hình thức nhập tài sản riêng vào tài sản chung theo quy định tại Khoản 2 Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 103 3.1.2.2. Hướng dẫn cụ thể hơn về nguyên tắc chia tài sản chung khi vợ chồng sống cùng với gia đình 104 Hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết 105 3.1.3.1. Quy định nguyên tắc chia tài sản chung khi vợ hoặc chồng chết 105 3.1.3.2. Quy định rõ hậu quả của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố vợ hoặc chồng đã chết 106 3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng 107 3.2.1. Giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ việc liên quan tới chia tài sản chung của vợ chồng 107 3.2.2. Có cơ chế, chính sách phù hợp để phát triển các tổ chức hành nghề công chứng 108 3.2.3. Triển khai đồng bộ, nghiêm túc quy định pháp luật về đăng ký tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng 109 3.2.4. Tuyên truyền, phổ biến sâu, rộng pháp luật Hôn nhân và gia đình đặc biệt là các quy định về tài sản chung của vợ chồng 110 KẾT LUẬN 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114 PHỤ LỤC 119 3.1.2. 3.1.3. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự DLBK : Bộ Dân luật Bắc Kỳ DLGYNK : Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ DLTK : Hoàng việt Trung Kỳ hộ luật HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Số lượng văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được công chứng tại Phòng công chứng số 4 thành phố Hà Nội 70 2.2 Số lượng văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được công chứng tại Văn phòng công chứng Hà Nội 70 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử phát triển xã hội loài người cho thấy, đối với mỗi hình thái kinh tế xã hội có những hình thái gia đình tương ứng phù hợp với nó. Các hình thái gia đình này rất đa dạng, khác nhau không chỉ về tính chất mà còn cả về kết cấu của nó. Tuy nhiên, dù ở hình thái nào, các chức năng cơ bản của gia đình vẫn không thay đổi đó là chức năng sinh đẻ, chức năng giáo dục và chức năng kinh tế. Chức năng kinh tế sẽ là nền tảng, là một trong những cơ sở đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt chức năng sinh đẻ và giáo dục. Trong xã hội hiện đại, chức năng kinh tế của gia đình ngày càng được chú trọng và phát huy vai trò to lớn đối với sự phát triển của mỗi gia đình nói riêng và toàn xã hội nói chung. Bởi vậy, bên cạnh việc điều chỉnh quan hệ nhân thân, pháp luật đã dành nhiều quy định điều chỉnh các quan hệ tài sản giữa gia đình và các chủ thể khác trong xã hội, giữa các thành viên trong gia đình và đặc biệt là giữa vợ chồng - những thành viên "hạt nhân" của gia đình. Những quy định pháp luật về tài sản của vợ chồng cũng thường xuyên được rà soát, sửa đổi, bổ sung để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh. Tuy nhiên thực tiễn phát triển nhanh, đa dạng của đời sống kinh tế - xã hội đã và đang làm bộc lộ nhiều điểm chưa hợp lý của pháp luật hiện hành. Trong đó, chia tài sản chung của vợ chồng nổi lên như là vấn đề bức thiết bởi những năm gần đây, các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng, đặc biệt là chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn gia tăng nhanh chóng. Hơn nữa, những tranh chấp này thường là những tranh chấp phức tạp và kéo dài, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình cảm giữa các thành viên trong gia đình và sự ổn định của xã hội. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên một phần do tính chất đa dạng, phức tạp của các quan hệ tài sản của vợ chồng. Mặt khác, tình trạng gia tăng các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng cũng cho thấy những bất cập, điểm khuyết của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng. Các quy định này đã bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc gây khó khăn thậm chí lúng túng trong quá trình áp dụng pháp luật của các đương sự cũng như của tòa án khi giải quyết các vấn đề liên quan đến chia tài sản chung của vợ chồng. Thực trạng trên cho thấy, có một công trình nghiên cứu sâu về chế định chia tài sản chung của vợ chồng nhằm nhận dạng những khuyết thiếu của pháp luật dưới góc độ thực tiễn áp dụng là hết sức cần thiết. Đây chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài "Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" để làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Chế định pháp luật liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nói chung và chia tài sản chung của vợ chồng nói riêng luôn là vấn đề dành được nhiều sự quan tâm của xã hội cũng như giới nghiên cứu. Bởi vậy, trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến chế định chia tài sản chung của vợ chồng. Có thể tạm phân loại các công trình nghiên cứu này thành ba nhóm lớn như sau: Nhóm các luận văn, luận án: Các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong nhóm này có: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, luận án tiến sĩ Luật học, 2005); "Xác định chế độ tài sản của vợ chồng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" (Nguyễn Hồng Hải, luận văn thạc sĩ, 2002); Một số vấn đề về tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, (Trần Đức Hoài, 2006, luận văn thạc sĩ)… Tuy nhiên, các công trình này hoặc có phạm vi nghiên cứu rộng, đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau trong vấn đề tài sản vợ chồng, hoặc chỉ giải quyết một khía cạnh nhỏ trong chế định chia tài sản chung của vợ chồng mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể chế định chia tài sản chung vợ chồng. Vì vậy, các công trình nói trên chưa có điều kiện phân tích một cách sâu sắc và toàn diện tất cả các khía cạnh của chế định chia tài sản chung của vợ chồng. Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo: Trong nhóm này có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường, 2002, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội); Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Nguyễn Ngọc Điện, 2002, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh); Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Đinh Thị Mai Phương chủ biên, 2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội). Ngoài ra, còn có các sách giáo trình và sách bình luận Luật Hôn nhân và gia đình của nhiều tác giả khác. Tuyệt đại đa số các cuốn sách trên đều là những công trình thiên về việc bình luận, giải thích các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, trong bối cảnh đó, chế định chia tài sản chung của vợ chồng thường chỉ được phân tích một cách chung chung, có tính chất tổng quát, chứ không phân tích một cách chuyên sâu và cụ thể. Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: Chia tài sản chung của vợ chồng là chủ đề của nhiều bài viết nghiên cứu của nhiều tác giả trên các báo, tạp chí chuyên ngành luật, có thể kể đến một số bài như Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hôn nhân gia đình hiện hành (Nguyễn Hồng Hải, 2003, Tạp chí Luật học, số 5); Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (Nguyễn Phương Lan 2002,Tạp chí Luật học, số 6), Về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi phá sản doanh nghiệp tư nhân (Phạm Văn Thiệu, 2003, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), số 11) v.v… Các bài viết này thường phân tích rất sâu một vấn đề trong chế định chia tài sản chung vợ chồng, nhưng do tính chất của một bài viết nghiên cứu, các tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh hoặc một trường hợp cụ thể liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng mà không thể phân tích toàn diện các khía cạnh của chế định này. Một điểm chung của cả ba nhóm công trình nghiên cứu kể trên, đó là phần lớn các tác giả thường thiên về việc phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng mà chưa soi chiếu sự phản ánh của toàn bộ các quy định pháp luật đó vào thực tiễn cuộc sống. Một số tác giả, trong các công trình nghiên cứu kể trên, cũng đã có dẫn chiếu, liên hệ thực tiễn áp dụng một số quy định pháp luật, tuy nhiên, sự liên hệ, phân tích đó chỉ có tính chất minh họa cho một số trường hợp cụ thể mà chưa có sự soi chiếu một cách tổng thể, toàn diện tất cả các khía cạnh của chế định chia tài sản chung vợ chồng vào thực tiễn. Như vậy, mặc dù đã có không ít công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng nhưng những công trình này chủ yếu nghiên cứu, phân tích chế độ tài sản của vợ chồng dưới góc độ lý luận mà chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về chia tài sản chung của vợ chồng dưới góc độ thực tiễn áp dụng pháp luật. Do vậy, các công trình nghiên cứu trên so với đề tài của luận văn này là hoàn toàn không có sự trùng lắp về mặt nội dung. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Trên cơ sở tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam về chia tài sản chung của vợ chồng, luận văn phân tích, đánh giá việc áp dụng pháp luật, nhận dạng những thuận lợi cũng như những bất cập, hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng, trên cơ sở đó chỉ ra những điểm còn thiếu sót, chưa phù hợp của luật thực định và của quá trình áp dụng luật vào thực tiễn. Từ đó, luận văn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp có tính chất khả thi nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đời sống đang ngày càng phát triển đa dạng, phong phú. Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn xác định những nhiệm vụ cơ bản sau đây: Thứ nhất, khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng; Thứ hai, rà soát, tổng hợp một cách sơ lược lịch sử phát triển chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong suốt chiều dài lịch sử tiến triển của chế định này trong hệ thống pháp luật Việt Nam; Thứ ba, phân tích, đánh giá quy định của pháp luật hiện hành về chia tài sản chung của vợ chồng; Thứ tư, phân tích, nhận dạng những bất cập, hạn chế khi áp dụng quy định pháp luật thực định về chia tài sản chung của vợ chồng vào thực tiễn Việt Nam; Và thứ năm, trên cơ sở các phân tích kể trên, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng cả dưới góc độ pháp luật lẫn áp dụng pháp luật. 4. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung vào một số vấn đề sau: - Quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tài sản chung của vợ chồng. Trong đó tập trung chủ yếu vào chia tài sản chung của vợ chồng được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2000, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan. - Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về chia tài sản chung của vợ chồng. Trong đó, tập trung vào một số vấn đề khó khăn, vướng mắc, điển hình; các trường hợp áp dụng sai luật…; tìm hiểu và nghiên cứu những ví dụ cụ thể, những bản án thực tế từ đó bình luận và phân tích những nguyên nhân chính làm giảm hiệu quả áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thực tế. - Một số quy định của pháp luật các nước trên thế giới về chia tài sản chung của vợ chồng như BLDS Pháp, Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan… có sự so sánh và đối chiếu với pháp luật Việt Nam, qua đó tiếp thu những điểm tiến bộ và phù hợp với thực tiễn và pháp luật Việt Nam về chia tài sản chung của vợ chồng. Luận văn không đề cập đến góc độ thủ tục tố tụng khi giải quyết vấn đề chia tài sản chung vợ chồng. Luận văn cũng không xem xét, nghiên cứu vấn đề chia tài sản chung vợ chồng dưới góc độ tư pháp quốc tế. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phối hợp nhiều phương pháp khác nhau như phương pháp phân tích luật học, phương pháp phân tích so sánh, phương pháp tổng hợp (trên cơ sở phân tích, so sánh và tham khảo pháp luật nước ngoài), phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn... Trong quá trình khảo sát thực tiễn, luận văn đã áp dụng phương pháp phỏng vấn sâu một số người có liên quan để thu thập những tài liệu mà các tài liệu lưu trữ chính thống còn khuyết thiếu, đồng thời nhằm có thêm tư liệu sinh động từ thực tiễn của người trực tiếp áp dụng pháp luật. Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện trên nền tảng của phương pháp duy vật biện chứng và lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật; trên cơ sở quan điểm, đường lối chính trị, kinh tế, xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam. 6. Điểm mới của luận văn - Luận văn đã hệ thống hóa và phân tích khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng, những điểm đặc trưng của chia tài sản chung của vợ chồng thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất so với chia tài sản chung ở các hình thức sở hữu khác. - Luận văn khái quát và phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng. - Từ những ví dụ cụ thể về thực tiễn áp dụng pháp luật, luận văn nhận dạng những quy định chưa phù hợp, những điểm còn khiếm khuyết của pháp luật hiện hành về chia tài sản chung của vợ chồng cả dưới góc độ pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Đồng thời, luận văn đưa ra và phân tích một số yếu tố khác tác động vào và làm giảm hiệu quả áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng. Trên cơ sở đó, luận văn kiến nghị một số giải pháp có tính chất khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và tiến tới hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng. 7. Ý nghĩa của luận văn Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện chế định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng, từ đó nâng cao vai trò và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với đời sống xã hội. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập các môn học như Luật dân sự, Luật HN&GĐ... tại các cơ sở đào tạo pháp luật. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu gồm ba chương như sau: Chương 1: Khái quát chung về chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam. Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về chia tài sản chung của vợ chồng. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Hôn nhân là cơ sở hình thành gia đình - tế bào của xã hội. Kể từ thời điểm quan hệ hôn nhân được xác lập giữa một người đàn ông và một người đàn bà bằng sự kiện kết hôn, họ chính thức trở thành vợ chồng, có các quyền, nghĩa vụ với nhau, với cha mẹ, con cái… Để đảm bảo các điều kiện vật chất phục vụ đời sống gia đình và thực hiện các quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con cái… vợ chồng cần có tài sản. Tài sản của vợ chồng là nguồn quan trọng phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của gia đình. Trên bình diện xã hội, gia đình chính là một đơn vị kinh tế. Các thành viên trong gia đình, đặc biệt là vợ chồng tham gia tích cực vào các hoạt động tạo ra của cải vật chất cho xã hội qua đó tạo dựng khối tài sản cho mình. Vì vậy, tài sản của vợ chồng không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với vợ chồng và gia đình mà còn đóng góp cho sự phát triển chung của toàn xã hội. Tài sản của vợ chồng cũng là một loại tài sản theo pháp luật dân sự, vì vậy, nghiên cứu vấn đề tài sản của vợ chồng phải đặt trong bối cảnh của chế định tài sản nói chung. Tài sản là đối tượng của quyền sở hữu, là khách thể của phần lớn các quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên, tài sản là một khái niệm rộng, dưới góc độ pháp lý, rất khó có thể định nghĩa cụ thể về tài sản. Pháp luật các nước thường không đưa ra định nghĩa cụ thể về tài sản mà nó thường được hiểu thông qua các học thuyết pháp lý hoặc hiểu gián tiếp thông qua các quy định khác. Ví dụ, BLDS Pháp không trực tiếp đưa ra khái niệm tài sản mà chỉ ghi nhận "tài sản được chia thành động sản và bất động sản" [27, Điều 156], BLDS Nhật Bản cũng chỉ nêu ra những vật được coi là động sản, bất động sản, vật chính, vật phụ (Điều 85 đến Điều 88)… mà không định nghĩa tài sản. Khác với cách quy định của các bộ luật trên, pháp luật dân sự nước ta chọn cách định nghĩa tài sản bằng cách liệt kê những đối tượng được coi là tài sản "tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [38, Điều 163]. Theo cách liệt kê trên, các đối tượng là tài sản được xác định như sau: - Vật được coi là tài sản phải là một bộ phận của thế giới vật chất và nằm trong sự kiểm soát của con người. Đồng thời, vật phải mang lại lợi ích cho con người, tức là phục vụ cho các nhu cầu về sinh hoạt, sản xuất, tiêu dùng… của con người. - Tiền là thước đo giá trị của hàng hóa, là phương tiện thanh toán… Ngoài ra, tiền còn có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, nó thể hiện chủ quyền của quốc gia. Vì thế, việc phát hành, đưa tiền vào hay rút tiền khỏi lưu thông đều được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ. - Giấy tờ có giá là "bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác" [43, Điểm 8 Điều 6]. Ví dụ như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, trái phiếu Chính phủ…. - Quyền tài sản theo quy định tại Điều 181 BLDS năm 2005 "là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ". Như vậy, để một quyền được coi là quyền tài sản nó phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản đó là trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Có thể kể ra các quyền tài sản như quyền nhận lợi tức cổ phiếu, quyền hưởng nhuận bút của tác giả tác phẩm văn học, nghệ thuật,quyền nhận thù lao của chủ sở hữu văn bằng sáng chế… Như vậy, theo quy định của BLDS năm 2005 các đối tượng là tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Khái niệm và các quy định về tài sản, quyền sở hữu trong Luật dân sự là khái niệm gốc, là cơ sở để các luật chuyên ngành xây dựng các khái niệm tài sản cụ thể theo tính chất riêng của ngành luật mình, ví dụ như khái niệm tài sản góp vốn trong Luật Doanh nghiệp, tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ… 1.1.1. Tài sản chung của vợ chồng 1.1.1.1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang phát triển sôi động trên tất cả các ngành, các lĩnh vực như hiện nay, gia đình là chủ thể tham gia vào rất nhiều các hoạt động kinh tế, xã hội khác nhau. Việc hộ gia đình được BLDS công nhận là một chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự và Luật Đất đai công nhận hộ là chủ thể được Nhà nước giao đất, cho thuê đất…đã tạo những tiền đề cơ bản để kinh tế hộ gia đình nói chung và tài sản của vợ chồng nói riêng phát triển ngày càng nhanh chóng. Theo nội hàm của khái niệm tài sản quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005 thì tài sản của vợ chồng bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản khác. Như vậy, tài sản của vợ chồng cũng bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng. Tài sản của vợ chồng gồm có tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng của vợ, chồng. Tuy nhiên, vì phạm vi luận văn chỉ đề cập đến vấn đề tài sản chung của vợ chồng nên xin phép không phân tích vấn đề tài sản riêng ở đây. Về tài sản chung, Điều 214 BLDS năm 2005 quy định "tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung" [38]. Như vậy, tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung của cả vợ và chồng - vợ, chồng cùng là chủ sở hữu đối với khối tài sản đó. Đặc điểm của tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất, tức là "phần quyền của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung" [38, Khoản 1 Điều 217]. Theo đó, khi hôn nhân còn tồn tại, không thể xác định được phần tài sản cụ thể của vợ, chồng trong khối tài sản chung. Khối tài sản chung của vợ chồng thường hình thành từ khi hai bên nam nữ bắt đầu bước vào cuộc sống vợ chồng thông qua sự kiện kết hôn và sẽ liên tục được bổ sung trong suốt thời kỳ hôn nhân bằng nhiều nguồn khác nhau. 1.1.1.2 Nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng Pháp luật của nhiều nước trên thế giới thừa nhận quyền tự do thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản hay còn được gọi là khế ước hôn nhân hoặc hôn ước. "Hôn ước là chứng thư thể hiện sự thỏa thuận của người kết hôn hay của vợ chồng về chế độ tài sản của họ trong hôn nhân" [19]. Bởi vậy, thành phần, nguồn gốc của khối tài sản chung của vợ chồng thường phụ thuộc vào sự thỏa thuận của vợ chồng được thể hiện trong hôn ước. Điển hình cho cách quy định này là BLDS Pháp, BLDS Nhật Bản… Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản pháp định. Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu từ trước về căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với từng loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay nợ riêng của vợ, chồng [7, tr. 35]. Theo chế độ tài sản này, vợ chồng phải tuân theo quy định pháp luật về các vấn đề liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng như nguồn gốc tài sản, nguyên tắc sử dụng, định đoạt tài sản… Quan điểm lập pháp này được duy trì và thể hiện thống nhất trong Luật HN&GĐ của Nhà nước ta qua các thời kỳ. Luật HN&GĐ năm 1959 là Luật HN&GĐ đầu tiên của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù được xây dựng trong hoàn cảnh đất nước còn chiến tranh, điều kiện kinh tế nhiều khó khăn và chỉ có vẻn vẹn 35 điều luật nhưng Luật HN&GĐ năm 1959 đã có những quy định đầu tiên về tài sản chung của vợ chồng "vợ và chồng có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới" [30, Điều 15]. Với quy định trên, có thể suy luận mọi tài sản của vợ, chồng đều là tài sản chung của vợ chồng không phân biệt tài sản do ai tạo ra, có trước hay trong thời kỳ hôn nhân… Do đó, khái niệm tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng không tồn tại trong các quy định của Luật HN&GĐ năm 1959. Đến Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000, các vấn đề liên quan đến tài sản chung của vợ chồng trong đó có nguồn gốc tài sản chung đã được luật quy định cụ thể hơn. Theo quy định tại Điều 14, Điều 16 Luật HN&GĐ năm 1986 và Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng bao gồm: Tài sản chung do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động và thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân Tài sản do vợ, chồng tạo ra có thể là kết quả lao động trực tiếp của vợ chồng như giường, tủ do vợ chồng tự đóng, nhà do vợ chồng tự xây... Hoặc tài sản nhận được từ hợp đồng mua bán, trao đổi tài sản… mà một bên vợ, chồng hoặc hai vợ chồng tham gia. Trong trường hợp thứ hai này, mặc dù vợ chồng không tạo ra tài sản bằng lao động trực tiếp nhưng đã dùng tài sản hiện có của mình như tiền, vật để mua hoặc trao đổi lấy tài sản khác. Vì vậy, những tài sản này cũng được xác định là tài sản do vợ chồng tạo ra. Bằng việc nhận được một số tiền, vật… thông qua các giao dịch kể trên, ngay lập tức số tiền, vật… đó trở thành tài sản chung của vợ chồng theo hiệu lực của chế độ tài sản. Lý thuyết này được áp dụng trong cả trường hợp vợ hoặc chồng tiến hành giao dịch bằng tài sản riêng của mình. Ví dụ, vợ hoặc chồng dùng tiền riêng của mình có trước khi kết hôn để mua tivi. Do chiếc tivi được mua sau khi kết hôn, tức là trong thời kỳ hôn nhân, nên theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000, đây là tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân nên chiếc tivi trở thành tài sản chung của vợ chồng chứ không phải tài sản riêng của bên đã dùng tiền riêng của mình ra mua. Thu nhập của vợ chồng có thể bao gồm thu nhập do lao động như thu nhập từ tiền lương, tiền công…, thu nhập do hoạt động sản xuất kinh doanh như lợi tức… và thu nhập hợp pháp khác như hoa lợi, tiền trúng thưởng xổ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan