BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TRẦN HỮU HIẾU
CHIA DI SẢN LÀ QUYỀN TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
CHIA DI SẢN LÀ QUYỀN TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số 8380103
Người hướng dẫn khoa học: Pgs.Ts. Lê Minh Hùng
Học viên
: Trần Hữu Hiếu
Lớp
: Cao học Luật Khóa 2 - Cần Thơ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung của luận văn “Chia di sản là quyền tài
sản theo pháp luật dân sự Việt Nam” là kết quả của quá trình tổng hợp và nghiên
cứu của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của Phó giáo sư, tiến sĩ, thầy Lê
Minh Hùng. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận văn đã được nêu rõ
trong phần trích dẫn tài liệu tham khảo. Các bản án, thông tin nêu trong luận văn là
trung thực, hoàn toàn chính xác, đúng sự thật.
Tác giả
Trần Hữu Hiếu
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Viết đầy đủ
BLDS 2005
Bộ luật dân sự năm 2005
BLDS 2015
Bộ luật dân sự năm 2015
HĐTP
Hội đồng thẩm phán
LCC 2014
Luật Công chứng năm 2014
LĐĐ 2003
Luật Đất đai năm 2003
LĐĐ 2013
Luật Đất đai năm 2013
LNƠ 2014
Luật Nhà ở năm 2014
TAND
Tòa án nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CHIA DI SẢN THỪA KẾ LÀ QUYỀN MUA NHÀ Ở THUỘC
SỞ HỮU NHÀ NƯỚC THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM ....................6
1.1. Xác định di sản là quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước....................6
1.1.1. Quy định của pháp luật về quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước .....6
1.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước
............................................................................................................................9
1.2. Phân chia di sản là quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước ................14
1.2.1. Quy định của pháp luật về phân chia di sản là quyền mua nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước ...............................................................................................14
1.2.2. Bất cập của pháp luật về phân chia di sản là quyền mua nhà ở thuộc sở
hữu nhà nước ....................................................................................................15
1.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về phân chia di sản là quyền mua nhà ở
thuộc sở hữu nhà nước .....................................................................................17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................19
CHƯƠNG 2. CHIA DI SẢN THỪA KẾ LÀ QUYỀN ĐƯỢC HƯỞNG TIỀN
BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ QUYỀN ĐƯỢC HƯỞNG SUẤT TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ........................................................................20
2.1. Chia di sản là quyền được hưởng tiền bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước
thu hồi đất ............................................................................................................20
2.1.1. Xác định di sản là quyền được hưởng tiền bồi thường, hỗ trợ khi nhà
nước thu hồi đất ................................................................................................20
2.1.2. Phân chia di sản là quyền được hưởng tiền bồi thường, hỗ trợ khi nhà
nước thu hồi đất ................................................................................................28
2.2. Chia di sản là quyền được hưởng suất tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất .........................................................................................................................30
2.2.1. Xác định di sản là quyền được hưởng suất tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất ...............................................................................................................30
2.2.2. Phân chia di sản là quyền được hưởng suất tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất ...............................................................................................................35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................39
KẾT LUẬN ..............................................................................................................40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thừa kế là quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và quy
định trong Bộ luật dân sự Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng nền
kinh tế thị trường làm cho xã hội luôn thay đổi từng ngày, từng giờ nên pháp luật
hiện hành vẫn chưa thể dự liệu hết những tình huống xảy ra trên thực tế.
Hiện nay, các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng gia tăng và trở nên
phức tạp hơn. Sự nhận thức không đầy đủ về pháp luật của các cá nhân, việc áp dụng
pháp luật không thống nhất giữa các cấp Tòa án là những yếu tố làm cho các vụ kiện
gặp nhiều khó khăn, thời gian giải quyết kéo dài, ảnh hưởng không tốt đến truyền
thống đạo đức tốt đẹp vốn có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, một trong
những khó khăn vướng mắc lớn khi áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết
tranh chấp thừa kế chính là vấn đề phân chia di sản thừa kế là quyền tài sản.
Hiện nay, có nhiều vướng mắc, bất cập xung quanh vấn đề phân chia di sản
thừa kế là quyền tài sản, trong đó nổi bật là:
Thứ nhất, pháp luật nhà ở chưa cụ thể hóa các quy định pháp luật liên quan
đến quyền thừa kế quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; quyền thừa kế quyền
mua nhà ở trong trường hợp bên mua nhà đã làm thủ tục hóa giá nhưng chưa thực
hiện xong nghĩa vụ thanh toán hoặc chưa làm thủ tục hóa giá.
Thứ hai, pháp luật đất đai chưa quy định rõ căn cứ vào nguồn gốc đất tại thời
điểm tạo lập hợp pháp hay tại thời điểm được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất để xác định chủ thể có quyền thừa kế quyền được hưởng tiền bồi thường, hỗ trợ
khi nhà nước thu hồi đất.
Thứ ba, hiện nay pháp luật chưa quy định cụ thể trong việc xác định quyền
hưởng suất tái định cư có là di sản hay không? Đối với vấn đề này, trong thực tiễn
xét xử, quyền hưởng suất tái định cư được xác định là di sản. Tuy nhiên, để đảm
bảo áp dụng thống nhất trong quá trình cấp đất tái định cư tại cơ quan quản lý đất
đai và trong thực tiễn xét xử liên quan đến xác định di sản là suất tái định cư, pháp
luật cần hoàn thiện các quy định hướng dẫn chi tiết vấn đề này.
Thứ tư, pháp luật chưa quy định đối với trường hợp phân chia di sản là quyền
được hưởng tiền bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất, giá trị đất bị thu hồi lại
2
được xác định theo bảng giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành, áp dụng tại thời điểm
có quyết định thu hồi đất1. Trong thực tiễn, việc UBND ban hành quyết định thu hồi
quyền sử dụng đất trong một thời gian dài, người sử dụng đất mới được nhận tiền
bồi thường, hoặc được chi trả tiền bồi thường sau thời điểm người sử dụng đất chết.
Trong khoảng thời gian đó, giá trị quyền sử dụng đất đã có sự thay đổi.
Thứ năm, xuất phát từ việc chưa có hướng dẫn cụ thể dẫn đến các cấp Tòa
án áp dụng chưa thống nhất về cách xác định chủ thể có quyền thừa kế suất tái
định cư, không xem xét đến điều kiện, nhu cầu được hưởng tái định cư của những
người thừa kế. Việc vận dụng pháp luật để phân chia di sản thừa kế có liên quan
đến suất tái định cư giữa các cấp Tòa án xét xử khác nhau dẫn đến kéo dài thời
gian giải quyết tranh chấp, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những
người thừa kế.
Chính vì vậy, việc chọn vấn đề “Chia di sản là quyền tài sản theo pháp
luật dân sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học là hết sức cần thiết, đặc
biệt là trong bối cảnh hiện nay khi ngành Tòa án đang thụ lý giải quyết các vụ án
liên quan đến phân chia di sản là quyền tài sản ngày càng tăng về số lượng và phức
tạp về nội dung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát, thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học có
liên quan đến đề tài này như sau:
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (năm 2019), Giáo trình Pháp
luật về tài sản, quyền sở hữu và quyền thừa kế, Lê Minh Hùng (chủ biên), NXB.
Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Giáo trình là công trình nghiên cứu tổng quát
các quy định của pháp luật về tài sản, quyền tài sản và thừa kế. Trên cơ sở phân
tích, bình luận các vấn đề pháp lý cơ bản về tài sản, quyền tài sản và thừa kế, so
sánh với những quy định của pháp luật nước ngoài, giúp cho người đọc có cái nhìn
đa chiều về vấn đề này. Đặc biệt, giáo trình còn đưa ra định nghĩa khoa học về
“quyền tài sản”, làm rõ nội hàm của khái niệm về quyền tài sản cũng như bàn về các
loại di sản, chia thừa kế theo di chúc, hoặc theo pháp luật. Đây là những nội dung
cơ bản của khoa học pháp lý của Việt Nam và cũng là nền tảng lý luận quan trọng
để tác giả vận dụng trong nghiên cứu đề tài.
1
Khoản 2 Điều 74 LĐĐ 2013.
3
- Đỗ Văn Đại (năm 2015), “Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật
dân sự”, NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Công trình có đề cập đến những
điểm mới của BLDS 2015 về phân chia di sản thừa kế. Tuy nhiên, công trình không
đi sâu phân tích về vấn đề phân chia di sản thừa kế là quyền tài sản.
- Đỗ Văn Đại (năm 2015), “Luật thừa kế Việt Nam, Bản án và bình luận Bản
án”, NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Công trình có đề cập đến vấn đề
phân chia di sản thừa kế, có phân tích chuyên sâu về những bản án cụ thể liên quan
đến đề tài phân chia di sản thừa kế. Tuy nhiên, công trình chưa đi sâu phân tích và
hệ thống vấn đề phân chia di sản thừa kế là quyền đối với tài sản.
- Nguyễn Văn Tín (năm 2019), Phân chia di sản thừa kế là bất động sản theo
pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh. Công trình này có đề cập vấn đề phân chia di sản thừa kế là bất động sản
theo pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, công trình chưa đi sâu phân tích về vấn đề
phân chia di sản thừa kế là quyền tài sản.
Nếu như các công trình nghiên cứu về thừa kế khá nhiều, thì hầu như chưa có
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về phân chia di sản thừa kế là quyền tài sản.
Trước thực trạng tình hình nghiên cứu trên, tác giả nhận thấy sự cần thiết của việc
nghiên cứu một cách toàn diện từ lý luận đến thực tiễn để kiến nghị hoàn thiện các
quy định pháp luật về phân chia di sản thừa kế là quyền tài sản. Trên cơ sở kế thừa
những thành quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được công bố, tác giả
nghiên cứu đề tài một cách riêng biệt, có chiều sâu và toàn diện về phân chia di sản
thừa kế là quyền tài sản.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là tác giả muốn làm sáng tỏ những
quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về phân
chia di sản thừa kế là quyền tài sản, trên cơ sở đó kiến nghị các giải pháp đồng bộ
nhằm hoàn thiện các quy định về phân chia di sản thừa kế là quyền tài sản.
Để đạt được mục đích trên đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ các quy định pháp luật dân sự Việt Nam và pháp luật đất đai
Việt Nam quy định về phân chia di sản thừa kế là quyền tài sản.
- Phân tích, đánh giá về thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật hiện
hành về phân chia di sản thừa kế là quyền tài sản.
4
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về
phân chia di sản thừa kế là quyền tài sản.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật Việt Nam tại
BLDS 2015, LĐĐ 2013, LNƠ 2014 và các văn bản có liên quan về phân chia di sản
thừa kế là quyền tài sản; việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn và phương
hướng hoàn thiện những quy định về phân chia di sản thừa kế là quyền tài sản.
Phạm vi nghiên cứu: Tên đề tài là “Chia di sản là quyền tài sản theo pháp luật
dân sự Việt Nam”. Như vậy, những quy định về phân chia di sản thừa kế rất
rộng,... nhưng trong phạm vi nghiên cứu, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu 03 vấn đề
về phân chia di sản thừa kế là quyền tài sản: thứ nhất là quyền mua nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước; thứ hai là quyền được hưởng tiền bồi thường, hỗ trợ khi nhà
nước thu hồi đất; thứ ba là quyền được hưởng tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất. Căn cứ quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành như BLDS 2015, LĐĐ
2013, LNƠ 2014, Án lệ, Bản án,... Trên cơ sở phân tích những quy định hiện
hành về phân chia di sản thừa kế là các quyền tài sản nêu trên, tác giả liên hệ
thực tiễn xét xử tại TAND các cấp, từ đó chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong
quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng để đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tốt luận văn tác giả đã chọn các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích trong suốt
luận văn để phân tích các nội dung của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành
về phân chia di sản thừa kế là quyền tài sản. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương
pháp này trong việc phân tích những khó khăn, vướng mắc của việc áp dụng các
quy định của pháp luật hiện hành khi giải quyết các tranh chấp về vấn đề này. Từ
đó, tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Phương pháp so sánh: Trong cả chương 1 và chương 2, tác giả sử dụng
phương pháp so sánh để đối chiếu các quy định pháp luật có liên quan nhằm làm rõ
thêm về những quy định về phân chia di sản thừa kế. Trong đó, tác giả so sánh pháp
luật hiện tại và pháp luật trước đây nhằm làm rõ từng vấn đề bất cập.
5
- Phương pháp phân tích, bình luận án: Tác giả sử dụng chủ yếu để nêu lên
thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật hiện hành.
- Phương pháp tổng hợp: Tác giả sử dụng để hoàn thành luận văn trên cơ sở
tập hợp các tài liệu đã thu thập được.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả
nghiên cứu
Đề tài được trình bày dưới hình thức công trình khoa học mang tính ứng
dụng. Công trình có giá trị trong việc đưa ra các giải pháp tham khảo phục vụ công
tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật về thừa kế quyền tài sản ở
Việt Nam.
Giá trị ứng dụng của đề tài: Luận văn này có thể sử dụng để làm tài liệu tham
khảo cho các Thẩm phán, Thư ký, Luật sư, công chứng viên, cơ quan đăng ký đất
đai. Ngoài ra, luận văn còn có thể sử dụng trong học tập, nghiên cứu.
7. Bố cục và nội dung luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm có 02 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Chia di sản thừa kế là quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước
theo pháp luật dân sự Việt Nam;
Chương 2. Chia di sản thừa kế là quyền được hưởng tiền bồi thường, hỗ trợ
và quyền được hưởng suất tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
6
CHƯƠNG 1
CHIA DI SẢN THỪA KẾ LÀ QUYỀN MUA NHÀ Ở
THUỘC SỞ HỮU NHÀ NƯỚC THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Xác định di sản là quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước
1.1.1. Quy định của pháp luật về quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước
Theo quy định tại Điều 80 LNƠ 2014, nhà ở thuộc sở hữu nhà nước bao
gồm: Nhà ở công vụ, nhà ở thuộc diện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, nhà ở xã hội
và nhà ở được đầu tư xây dựng bằng vốn ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ
vốn ngân sách nhà nước hoặc được xác lập thuộc sở hữu nhà nước. Tùy thuộc vào
đối tượng sử dụng, mục đích sử dụng, pháp luật nhà ở quy định cụ thể việc xác định
quyền và nghĩa vụ cũng như điều kiện của chủ thể được thuê, thuê mua, mua nhà ở
thuộc sở hữu nhà nước. Như vậy, nhà ở thuộc sở hữu nhà nước là một trong những
công trình xây dựng có thể chuyển quyền sở hữu cho cá nhân, hộ gia đình nếu đủ
các điều kiện theo quy định của pháp luật. Trong đó, cơ chế xác lập quyền sở hữu
đối với nhà ở được đầu tư xây dựng bằng vốn ngân sách nhà nước hoặc có nguồn
gốc từ vốn ngân sách nhà nước hoặc được xác lập thuộc sở hữu nhà nước và đang
cho hộ gia đình, cá nhân thuê đã được công nhận và bảo hộ trong những ngày đầu
xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh về chế độ sở hữu nhà ở.
Theo Thông tư số 47-BXD/XDCB ngày 05/8/1989 của Bộ trưởng Bộ Xây
dựng hướng dẫn thực hiện ý kiến của Thường trực Hội đồng Bộ trưởng về việc hóa
giá nhà cấp III, cấp IV tại các đô thị có thể xem là văn bản pháp lý đầu tiên ghi nhận
quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước (hóa giá nhà). Thông tư số 47BXD/XDCB, hóa giá nhà được áp dụng trong trường hợp nhà do nhà nước quản lý
đang cho thuê bị xuống cấp nghiêm trọng được mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước
để tự sửa chữa lại, phục vụ cho nhu cầu cư trú. Tuy nhiên, để tránh tình trạng mua
nhà ở thuộc sở hữu nhà nước với giá quá rẻ, chưa đủ điều kiện bán, chưa đúng đối
tượng mua, Thông tư số 47-BXD/XDCB được ban hành và quy định khá chặt chẽ
về loại nhà được bán, chủ thể đủ điều kiện mua, giá bán,… Đối tượng được mua
nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cần thỏa mãn điều kiện như sau2:
+ Có hộ khẩu thường trú, có quyết định cấp nhà và hợp đồng thuê nhà ở hợp
pháp của nhà nước đều được xét cho mua phần diện tích đang ở thuê.
2
Khoản 3 Mục I Thông tư số 47-BXD/XDCB.
7
+ Đối với những diện tích còn trống (chưa có người ở) chỉ xét bán cho những
người hiện chưa có nhà ở hoặc ở quá chật.
+ Mỗi hộ gia đình chỉ được mua một diện tích ở.
Như vậy, trong giai đoạn này, nhà ở thuộc sở hữu nhà nước được bán theo
hình thức, thủ tục đã có quyết định cấp nhà, áp dụng cho những chủ thể đặc biệt,
được hưởng chính sách đãi ngộ của nhà nước, bao gồm cả ưu đãi về giá. Trường
hợp bên có quyền mua nhà ở chết, những người thừa kế được tiếp tục thừa kế quyền
mua nhà ở. Theo quy định tại điểm d khoản 5 Mục I Thông tư số 47-BXD/XDCB,
trường hợp người mua nhà thuộc sở hữu nhà nước chết mà chưa trả hết tiền mua
nhà, những người thừa kế theo quy định của pháp luật được quyền đứng tên mua và
tiếp tục trả tiền hoặc nhà nước thu hồi để bán cho đối tượng khác nếu không có
người thừa kế hoặc người thừa kế không tự nguyện mua. Trước hết ưu tiên bán cho
những người cùng số nhà, cùng hộ khẩu.
Trên tinh thần quy định của Thông tư số 47-BXD/XDCB, pháp luật về nhà ở
tiếp tục ghi nhận và hoàn thiện về quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước. Theo quy
định tại Nghị định số 61-CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh
doanh nhà ở, nhà ở thuộc sở hữu nhà nước được bán cho người đang thuê chính ngôi
nhà ấy. Tuy nhiên, so với Thông tư số 47/BXD/XDCB, Nghị định số 61-CP quy định
chặt chẽ hơn về điều kiện được mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước. Cụ thể, chủ thể
phải thực hiện giao kết hợp đồng thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước. Sau thời gian
thuê, nhà nước thực hiện bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê phần
diện tích đang được thuê để người mua nhà ở có điều kiện cải thiện chỗ ở. Hiện nay,
theo quy định LNƠ 2014 và Văn số 01/VBHN-BXD ngày 14/5/2021 của Bộ trưởng
Bộ Xây dựng xác thực văn bản hợp nhất Nghị định số 30/2019/NĐ-CP ngày
28/3/2019 của Chính phủ, Nghị định số 30/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở,
điều kiện mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước được quy định cụ thể như sau:
- Nhà ở không có khiếu kiện, tranh chấp về quyền sử dụng và thuộc diện
được cho thuê hoặc được bán theo quy định của pháp luật về nhà ở3. Nhà ở được
mua, thuê mua không thuộc diện nhà ở thuộc sở hữu nhà nước không được bán theo
hướng dẫn tại Văn số 01/VBHN-BXD.
3
Điểm d khoản 1 Điều 83 LNƠ 2014.
8
- Người mua nhà ở phải thuộc đối tượng được thuê nhà ở theo quy định tại
Văn số 01/VBHN-BXD là người đang thực tế sử dụng nhà ở và có nhu cầu tiếp tục
thuê nhà ở đó, bao gồm đối tượng được bố trí sử dụng nhà ở từ trước ngày
27/11/1992 (ngày ban hành Quyết định số 118/TTg của Thủ tướng Chính phủ về giá
cho thuê nhà ở và đưa tiền nhà ở vào tiền lương) và các đối tượng được bố trí nhà ở
theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Văn số 01/VBHN-BXD, trừ trường hợp chiếm
dụng nhà ở trái pháp luật. Chủ thể được mua, thuê mua nhà ở đang thực tế sử dụng
nhà ở đó và có nhu cầu thuê hoặc mua lại nhà ở này4.
- Người mua nhà ở phải có tên trên hợp đồng thuê nhà đã ký với đơn vị quản
lý vận hành nhà ở (từ đủ 18 tuổi trở lên); đã đóng đầy đủ tiền thuê nhà ở theo hợp
đồng thuê và các chi phí quản lý vận hành nhà cho đến thời điểm ký hợp đồng mua
bán nhà ở; có đơn đề nghị mua nhà ở đang thuê.
Như vậy, trong giai đoạn này (từ trước thời điểm 1994) pháp luật quy định cụ
thể đối tượng đủ điều kiện mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước phải có hộ khẩu
thường trú, có quyết định cấp nhà và hợp đồng thuê nhà ở hợp pháp của nhà nước.
Trường hợp bên có quyền mua nhà ở chết, những người thừa kế được tiếp tục thừa
kế quyền mua nhà ở hoặc bên có quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước đã hoàn
tất thủ tục mua nhà hóa giá nhưng chưa thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán đã chết
thì người thừa kế theo quy định của pháp luật được quyền đứng tên và tiếp tục
nghĩa vụ thanh toán. Do đó, quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước là quyền tài
sản, được chuyển giao và trở thành di sản thừa kế.
Giai đoạn từ năm 1994 đến nay (thời điểm Nghị định số 61-CP có hiệu lực),
quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước có sự thay đổi so với thời điểm trước đó.
Theo đó, bên có quyền mua là bên thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước. Quyền mua
nhà ở thuộc sở hữu nhà nước là có điều kiện. Xuất phát từ cơ chế bán nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước trong giai đoạn này là nhằm tạo điều kiện cho những cá nhân chưa
có nhà ở, khó khăn về nhà ở được quyền mua để ổn định cuộc sống. Do đó, bên
thuê nhà ở phải đủ các điều kiện mà pháp luật quy định mới đủ điều kiện mua nhà ở
thuộc sở hữu nhà nước. Tuy nhiên, trong trường hợp người đứng tên trên hợp đồng
thuê nhà chết, một vấn đề pháp lý còn đang vướng mắc là quyền thừa kế quyền mua
nhà ở thuộc sở hữu nhà nước có được xác lập cho những người thừa kế của bên thuê
nhà hay không? Theo quy định tại khoản 4 Điều 9 Nghị định số 61-CP, quyền thừa
4
Điểm d khoản 1, điểm d khoản 2 Điều 82 LNƠ 2014.
9
kế quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước được quy định “Trong trường hợp
người mua nhà chưa trả hết tiền mà chuyển đi nơi khác thì người đó được tiếp tục
trả tiền mua nhà để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở. Nếu người mua nhà chết thì những người trong diện thừa kế được tiếp
tục trả tiền mua nhà để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở”.
Hiện nay, pháp luật nhà ở không có quy định về điều kiện chuyển quyền
mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước khi bên có quyền mua chết, cụ thể tại khoản 1
Điều 131 LNƠ 2014 quy định trường hợp bên thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước
chết mà không có ai cùng chung sống thì chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở và sẽ thu
hồi lại nhà ở thuộc sở hữu nhà nước5. Như vậy, nếu áp dụng chế định thừa kế theo
quy định của BLDS 2015, một số vấn đề về mặt pháp lý chưa được xác định rõ
liên quan đến xác định di sản là quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước trong
những tình huống sau:
- Trường hợp thứ nhất: Bên thuê nhà đủ điều kiện mua nhà ở thuộc sở hữu
nhà nước, đã ký hợp đồng mua nhà nhưng chưa thực hiện xong nghĩa vụ thanh
toán thì chết. Trường hợp này, di sản mà những người thừa kế được hưởng có phải
chỉ là số tiền đã thanh toán cho nhà nước hay bao gồm cả quyền tiếp tục mua nhà
ở thuộc sở hữu nhà nước? và người nào sẽ được ưu tiên quyền tiếp tục mua nhà ở
thuộc sở hữu nhà nước?
- Trường hợp thứ hai: Bên thuê nhà đủ điều kiện mua nhà ở thuộc sở hữu nhà
nước nhưng chưa ký hợp đồng mua nhà thì chết mà tất cả các con không có ai cùng
sống chung. Lúc này, quyền tiếp tục mua nhà ở thuộc sở hữu của nhà nước có trở
thành di sản thừa kế hay không?
Xuất phát từ quy định pháp luật chưa cụ thể, chưa đầy đủ, vấn đề pháp lý trên
vẫn còn bất cập dẫn đến chưa thống nhất trong thực tiễn thi hành pháp luật.
1.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước
Thừa kế quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước là quyền đã được các văn
bản pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Tuy nhiên, do hiện nay LNƠ 2014 và các văn bản
hướng dẫn thi hành không đề cập quyền thừa kế đối với quyền tài sản này. Xuất
phát từ thực trạng pháp luật không quy định, việc xác định quyền mua nhà ở thuộc
5
Khoản 1 Điều 84 LNƠ 2014.
10
sở hữu nhà nước có được xem là quyền tài sản và có thể trở thành di sản hay không
còn là vấn đề pháp lý còn nhiều tranh luận. Trong thực tiễn, việc xác định di sản
thừa kế là quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước vẫn có nhiều quan điểm áp dụng
pháp luật khác nhau, đặc biệt là trường hợp bên thuê nhà đã đóng đầy đủ tiền thuê
nhà theo quy định trong hợp đồng thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước và các chi phí
vận hành nhưng chết trước khi thực hiện việc ký hợp đồng mua bán nhà ở. Vấn đề
này được thể hiện cụ thể qua vụ việc như sau:
Vụ việc thứ nhất6:
Tóm tắt vụ việc: Cụ Nguyễn Thiên Cự là người được thuê nhà ở thuộc sở
hữu nhà nước từ năm 1955. Năm 2002, công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành
viên quản lý và kinh doanh nhà Hải Phòng (gọi là Công ty) ký hợp đồng cho cụ Cự
thuê nhà (hợp đồng thuê nhà có thêm tên vợ chồng ông Nguyễn Thiện Sơn). Năm
2004, UBND thành phố Hải Phòng có quyết định phê duyệt giá bán nhà thuộc sở
hữu nhà nước theo Nghị định số 61-CP cho cụ Cự với số tiền hơn 215 triệu đồng.
Tuy nhiên, chưa kịp nộp tiền mua nhà thì năm 2007 cụ Cự mất. Gia đình ông
Nguyễn Thiện Thực là con trưởng đã về sinh sống tại căn nhà này. Năm 2011, Công
ty lại ký hợp đồng cho gia đình con của cụ Cự là ông Nguyễn Thiện Sơn thuê nhà.
Tháng 5/2014, Công ty tiếp tục ký hợp đồng bán căn nhà này cho gia đình ông Sơn
với giá hơn 215 triệu đồng, căn cứ theo quyết định phê duyệt của UBND thành phố
Hải Phòng bán cho cụ Cự từ năm 2004. Sau khi có hợp đồng mua bán nhà giữa
Công ty và hộ ông Sơn, UBND quận Hồng Bàng đã cấp giấy chứng nhận cho gia
đình ông Sơn. Tuy nhiên, ông Thực đã không thực hiện việc giao nhà cho ông Sơn
dẫn đến tranh chấp phát sinh.
Bản án sơ thẩm đã xác định căn nhà thuộc quyền sở hữu của ông Sơn. Tuy
nhiên, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng cho rằng căn nhà
tranh chấp này đã được UBND thành phố Hải Phòng phê duyệt bán cho cụ Cự.
Theo đại diện Viện kiểm sát, căn cứ Điều 634 BLDS 2005 và Án lệ số 31/2020/AL,
quyền thuê và mua hóa giá nhà là di sản thừa kế. Căn cứ khoản 4 Điều 9 Nghị định
số 61-CP, trường hợp người mua nhà chết thì những người trong diện thừa kế được
tiếp tục trả tiền mua nhà để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền
sử dụng đất ở. Đại diện Viện kiểm sát cho rằng tòa sơ thẩm đã vi phạm tố tụng khi
https://plo.vn/toa-vien-da-nhau-trong-vu-kien-tranh-chap-nha-hoa-gia-post581246.html, truy cập lúc 11h30
ngày 12/8/2022.
6
11
không đưa những người thừa kế của cụ Cự tham gia vào vụ án. Tại phiên tòa phúc
thẩm, TAND thành phố Hải Phòng vẫn xác định căn nhà trên thuộc sở hữu của ông
Sơn, tuyên ông Thực buộc phải trả lại căn nhà và đất số 53 Lý Thường Kiệt cho gia
đình ông Sơn như bản án sơ thẩm.
Như vậy, trong tranh chấp trên, TAND đã không xác định quyền mua nhà ở
được đầu tư xây dựng bằng vốn ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ vốn ngân
sách nhà nước hoặc được xác lập thuộc sở hữu nhà nước là di sản.
Nhận xét:
Căn cứ Điều 612 BLDS 2015, di sản là tài sản riêng của người chết. Trong
đó, tài sản được xác định gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; Điều 115
BLDS 2015, quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản
đối với đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản
khác. So với quy định BLDS 2005, Điều 115 BLDS 2015 không còn quy định
quyền tài sản có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự. Như vậy, quyền tài sản
hiện nay không còn bắt buộc phải thỏa mãn tiêu chí chuyển giao được trong giao
dịch dân sự. Quyền thuê nhà được xác lập trên quan hệ cho thuê giữa chủ thể sở hữu
nhà ở và bên thuê, có thỏa thuận về giá thuê, đồng nghĩa với việc thỏa mãn tiêu chí
trị giá được bằng tiền. Vì lẽ đó, quyền thuê nhà ở có thể xác định là quyền tài sản.
Tuy nhiên, quyền thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước là quyền được phép chuyển giao
khi thỏa mãn các điều kiện luật định, bao gồm chuyển giao theo nguyên tắc thừa kế.
Trường hợp người thuê nhà chết trước khi làm thủ tục mua nhà hóa giá, chủ thể
thuê nhà chưa thỏa mãn các điều kiện của một người mua nhà dẫn đến không thể
làm phát sinh quyền thừa kế quyền mua nhà hóa giá cho những người thừa kế.
Ngoài ra, khoản 1 Điều 131 LNƠ 2014 quy định trường hợp bên thuê nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước chết mà không có ai cùng chung sống thì chấm dứt hợp đồng thuê
nhà ở và sẽ thu hồi lại nhà ở thuộc sở hữu nhà nước. Trong trường hợp bên thuê nhà
có người cùng sống chung, quyền thuê nhà được thỏa thuận giao kết tiếp với người
sống chung, không phát sinh quyền thừa kế quyền thuê nhà ở cho những người thừa
kế. Do đó, bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm xác định ông Sơn có quyền thuê
nhà, từ đó có quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước là phù hợp.
Ngoài ra, trong vụ án trên, thời điểm công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành
viên quản lý và kinh doanh nhà Hải Phòng ký hợp đồng cho cụ Cự thuê nhà là năm
2002, áp dụng theo điều kiện của Nghị định số 61-CP, bên thuê phải ký hợp đồng
12
mua nhà trước khi chết mới đủ căn cứ phát sinh quyền thừa kế quyền tiếp tục mua
nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho những người thừa kế.
Tuy nhiên, khác với quan điểm tại các bản án nêu trên, có quan điểm của
Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng giống với quan điểm của Án lệ số
31/2020/AL về xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu nhà nước theo Nghị
định số 61-CP,
Vụ việc thứ hai7:
Tóm tắt nội dung Án lệ: Năm 1981, cụ Nguyễn Thanh T được Quân khu 7
cấp Giấy phép quyền sở hữu, sử dụng căn nhà số 63, đường V, phường X, Quận I
(nay là đường B, phường H, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh) để tạo điều kiện chỗ
ăn, ở cho gia đình cán bộ, ổn định lâu dài và cấp do hoàn cảnh gia đình cán bộ
không có nhà ở, tại thời điểm cấp bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn T1 (con cụ
T) sống chung với cụ T, có hộ khẩu thường trú tại căn nhà trên. Đến năm 1982, hai
chị em bà Nguyễn Thị Kim L và ông Nguyễn Thanh H1 mới chuyển hộ khẩu về
sống cùng cụ T.
“Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét
cấp nhà số 63, đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời
điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63
nêu trên. Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật dân sự năm 1995, quyền
thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được
chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế
quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T”.
Nhận xét:
Án lệ số 31/2020/AL xác định quyền mua hóa giá nhà là quyền tài sản. Do
đó, khi bên mua chết trước khi làm thủ tục mua hóa giá nhà, quyền mua hóa giá nhà
được xác định là di sản và phải được chuyển giao cho những người thừa kế.
Từ những vấn đề thực tiễn đã phân tích trên, tác giả nhận định cơ quan áp
dụng pháp luật chưa thống nhất cách xác định thời điểm phát sinh quyền mua nhà ở
thuộc sở hữu nhà nước qua từng thời kỳ. Từ đó, việc xác định di sản là quyền mua
nhà ở thuộc sở hữu nhà nước vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.
Án lệ số 31/2020/AL được HĐTP TAND tối cao thông qua ngày 05/02/2020 về xác định quyền thuê nhà,
mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước theo Nghị định số 61-CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ.
7
13
Về vấn đề này, quan điểm tác giả có nhận định như sau:
+ Tác giả cho rằng nội dung Án lệ xác định quyền thừa kế quyền mua nhà ở
thuộc sở hữu nhà nước chỉ phù hợp với trường hợp trước khi Nghị định số 61-CP có
hiệu lực, bởi vì thời điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà
đối với nhà số 63 nêu trên. Tuy nhiên, cụ T đã được cấp quyết định giao nhà trước
khi chết, quyền mua nhà ở cụ T đã phát sinh, những người thừa kế được quyền kế
thừa quyền tài sản là quyền mua nhà ở.
+ Đối với trường hợp mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước sau khi Nghị định số
61-CP có hiệu lực, bên mua phải đảm bảo đủ điều kiện theo quy định của Nghị định
số 61-CP thì mới được ký hợp đồng mua nhà ở. Nếu bên thuê nhà ở chưa đủ điều
kiện mua nhà hoặc chưa ký hợp đồng mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước mà chết thì
không phát quyền thừa kế quyền mua nhà ở cho các thừa kế.
Kiến nghị:
Để đảm bảo thống nhất cách áp dụng pháp luật trong thực tiễn giữa các cơ
quan có thẩm quyền, tác giả kiến nghị TAND tối cao cần tổ chức Hội nghị Tổng kết
kết quả xét xử tranh chấp quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước và thực tiễn áp
dụng Án lệ trong xét xử. Trên cơ sở đó, TAND tối cao ban hành Công văn hướng
dẫn TAND các cấp áp dụng nội dung Án lệ thống nhất trong thực tiễn xét xử theo
hướng căn cứ vào thời điểm xác lập quyền của bên thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà
nước để xác định cơ sở pháp lý ngay thời điểm xác lập để áp dụng trong việc xem
xét điều kiện mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, cụ thể:
- Trường hợp hợp đồng thuê nhà được xác lập trước thời điểm Nghị định số
61-CP có hiệu lực (ngày 05/7/1994), TAND các cấp cần viện dẫn Án lệ số 31/2020/AL,
xác định quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước là di sản, khi bên thuê nhà chết
trước khi làm thủ tục hóa giá, được xác định là di sản và phải được chuyển giao cho
những người thừa kế.
- Trường hợp hợp đồng thuê nhà xác lập sau thời điểm Nghị định số 61-CP có
hiệu lực, xác định quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước là di sản nếu bên thuê nhà
đã đóng đầy đủ tiền thuê nhà ở theo hợp đồng thuê và các chi phí quản lý vận hành nhà
cho đến thời điểm ký hợp đồng mua bán nhà ở; có đơn đề nghị mua nhà ở đang thuê.
- Trường hợp hợp đồng thuê nhà xác lập sau thời điểm Nghị định số 61-CP
có hiệu lực, nếu bên thuê nhà chưa đóng đầy đủ tiền thuê nhà ở theo hợp đồng
14
thuê và các chi phí quản lý vận hành nhà cho đến thời điểm ký hợp đồng mua bán
nhà ở; chưa có đơn đề nghị mua nhà ở đang thuê mà chết thì chấm dứt hợp đồng
thuê nhà ở và nhà nước sẽ thu hồi lại nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định
khoản 1 Điều 131 LNƠ 2014. Sau đó, ưu tiên bán cho đối tượng có đủ điều kiện,
ví dụ: ưu tiên bán cho những người cùng số nhà, cùng hộ khẩu mà không có nhà ở
nào khác.
1.2. Phân chia di sản là quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước
1.2.1. Quy định của pháp luật về phân chia di sản là quyền mua nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước
Theo quy định của BLDS 2015, kể từ thời điểm mở thừa kế, những người
thừa kế phát sinh các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, bao gồm:
quyền từ chối nhận di sản thừa kế, quyền phân chia di sản thừa kế, thực hiện nghĩa
vụ do người chết để lại. Trong đó, phân chia di sản là thủ tục giúp những người thừa
kế xác lập quyền sở hữu phần di sản mà mình được hưởng theo ý chí người để lại di
sản hoặc theo quy định của pháp luật. Quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước có
thể được xác định là di sản nếu bên thuê nhà đủ điều kiện phát sinh quyền mua nhà
ở trước khi chết. Do đó, quyền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước là một trong
những di sản đủ điều kiện phân chia về mặt pháp lý.
Khoản 2 Điều 685 BLDS 2005 và khoản 2 Điều 660 BLDS 2015 quy định:
“Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật, nếu
không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về
việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật, nếu không thỏa thuận
được thì hiện vật được bán để chia”. Ở đây, Bộ luật dân sự dự liệu trường hợp bán
di sản nhưng không nói rõ về hậu quả sau khi bán và trường hợp phải bán di sản là
chưa rõ ràng. Trong thực tế, di sản không phải lúc nào cũng có thể bán mà thường
xảy ra trường hợp có người thừa kế nhận bằng hiện vật, có người thừa kế nhận
bằng giá trị. Trường hợp vừa nêu trên thực chất cũng là một dạng chia di sản bằng
giá trị, người nhận bằng hiện vật sẽ thanh toán giá trị kỷ phần cho người không
nhận bằng hiện vật. Ở đây, di sản là tài sản chung của những người thừa kế trở
thành tài sản thuộc sở hữu riêng của người nhận di sản bằng hiện vật8. Tuy nhiên,
đối với một di sản là quyền tài sản nói chung và quyền mua nhà ở nói riêng, quyền
Đỗ Văn Đại (2015), “Luật Thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận Bản án”, tập 2, NXB. Hồng Đức - Hội
Luật gia Việt Nam, tr.504.
8
- Xem thêm -