Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000...

Tài liệu Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000

.PDF
105
321
65

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KHUẤT THỊ THU HẠNH CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KHUẤT THỊ THU HẠNH CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cừ HÀ NỘI - 2009 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: lý luận chung về chế định kết hôn 5 1.1. Một số khái niệm chung 5 1.1.1. Khái niệm chế định pháp luật 5 1.1.2. Khái niệm chế định kết hôn 7 1.2. Khái quát sự phát triển của chế định kết hôn trong pháp luật về Hôn 9 nhân và gia đình ở Việt Nam 1.2.1. Chế định kết hôn trong cổ luật Việt Nam 9 1.2.2. Chế định kết hôn trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 12 trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 1.2.3. Chế định kết hôn trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam giai 15 đoạn 1945 - 1954 1.2.4. Chế định kết hôn trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam giai 16 đoạn 1954 - 1975 1.2.5. Chế định kết hôn trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam giai 20 đoạn từ năm 1975 đến nay Chương 2: Chế định kết hôn Theo luật Hôn nhân và gia đình Việt 25 Nam năm 2000 2.1. Kết hôn và các điều kiện kết hôn 25 2.1.1. Khái niệm kết hôn 25 2.1.2. Điều kiện kết hôn 28 1 2.1.2.1. Điều kiện về nội dung 28 2.1.2.2. Đăng ký kết hôn 43 2.2. Hủy kết hôn trái pháp luật và hậu quả pháp lý 48 2.2.1. Khái niệm kết hôn trái pháp luật, hủy kết hôn trái pháp luật 48 2.2.2. Căn cứ chung để tòa án xử hủy kết hôn trái pháp luật 49 2.2.3. Người có quyền yêu cầu Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật 55 2.2.4. Đường lối giải quyết các trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn theo Luật định 57 2.2.5. Hậu quả pháp lý của hủy việc kết hôn trái pháp luật 62 2.3. Kết hôn có yếu tố nước ngoài 65 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN THEO 72 LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.1. Vài nét khái quát về thực trạng kết hôn ở Việt Nam một số năm gần 72 đây 3.2. Thực tiễn áp dụng chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 83 3.3. Kiến nghị hoàn thiện 87 KẾT LUẬN 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95 2 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Thống kờ của Sở Tư phỏp Hà Nội về kết hụn cú yếu tố nước ngoài 69 bảng 2.1 năm 2005 3.1 Số lượng trẻ đăng ký khai sinh có cha mẹ chưa hoặc không đủ điều 74 kiện đăng ký kết hôn tại Hà Nội 3.2 Tỷ lệ đăng ký kết hụn tại xó Cẩm Sơn, huyện Anh Sơn, Nghệ An 3 83 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xét về mặt cá nhân, gia đình là một đơn vị gồm có vợ chồng, con cái; rộng hơn thì bao gồm một dòng họ, gồm ông bà, cha mẹ, anh chị em… Gia đình gắn bó với nhau dựa trên mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Đối với mỗi thành viên, gia đình là "cái nôi" thân yêu nuôi dưỡng, giáo dục nâng đỡ mình suốt đời, là môi trường để hình thành và phát triển nhân cách trong cả cuộc đời, là nơi để thế hệ trẻ rèn luyện lối sống có tình nghĩa, có đạo lý để thực hành trong cuộc đời, là nơi để thế hệ già có thể di dưỡng tinh thần, đem kinh nghiệm truyền lại cho con cháu. Xét về mặt xã hội thì gia đình là tế bào, là nền tảng của xã hội. Gia đình là một trong các tổ chức cơ sở để thực hiện chủ trương chính sách và pháp luật của nhà nước về tất cả các mặt kinh tế - chính trị - gia đình - văn hóa - dân sự - môi trường. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời luôn nhấn mạnh vai trò của gia đình: "Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt; gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình, chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt" [29]. Hôn nhân được coi là phương thức để phát triển gia đình và kết hôn chính là nền tảng của hôn nhân. Khi một người đàn ông và một người đàn bà liên kết với nhau bằng việc đăng ký kết hôn trên "nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng và tự nguyện theo quy định của pháp luật nhằm chung sống với nhau suốt đời…" thì một gia đình được thiết lập. Nhà nước và nhân dân ta luôn coi trọng đời sống hôn nhân và gia đình. Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận: "Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ chế độ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng..." (Điều 64). 4 Ngày 9/6/2000, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2001. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 bao gồm nhiều chế định khác nhau, mỗi chế định đều có những vị trí và vai trò quan trọng điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Kết hôn là một chế định quan trọng của Luật Hôn nhân và gia đình. Kết hôn tạo cơ sở hình thành gia đình, tế bào của xã hội. Pháp luật đã quy định điều kiện kết hôn, thủ tục, cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn, trình tự kết hôn và đang từng bước hoàn chỉnh hơn nữa về chế định này. Thực tiễn gần mười năm qua cho thấy việc áp dụng chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đạt được nhiều thành tựu: những quy định về điều kiện kết hôn nhằm hạn chế việc kết hôn trái pháp luật hoặc chung sống như vợ, chồng khi đang có vợ, có chồng; nguyên tắc tự nguyện đã khẳng định sự bình đẳng giữa nam và nữ, đảm bảo sự xây dựng gia đình bền vững và hạnh phúc … Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là cơ sở pháp lý điều chỉnh vấn đề kết hôn ở Việt Nam và là cơ sở xây dựng gia đình tế bào của xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng Luật cũng cho thấy một số quy định về chế định kết hôn còn chưa đáp ứng được với thực tiễn các quan hệ hôn nhân và gia đình trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa. Các điều kiện kết hôn vẫn còn chưa thống nhất với các văn bản luật trong hệ thống pháp luật của nhà nước ta. Hiện tượng tảo hôn vẫn còn tồn tại. Tình trạng chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình như hiếu nghĩa, thủy chung, kính trên nhường dưới đang có biểu hiện xuống cấp, gia tăng đã để lại những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt đối với gia đình và xã hội. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ hôn nhân với người nước ngoài đang ảnh hưởng tới mục đích của quan hệ hôn nhân xã hội chủ nghĩa. Đường lối hủy kết hôn trái pháp luật còn chưa được thống nhất khiến Tòa án các cấp khi giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật vẫn 5 còn gặp khó khăn… Yêu cầu tất yếu đặt ra là phải hoàn thiện hơn nữa quy định của pháp luật điều chỉnh chế định kết hôn nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân. Xuất phát từ tình hình đó, tác giả chọn đề tài: "Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000" là cần thiết, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích: - Làm sáng tỏ những lý luận cơ bản về chế định kết hôn - Phân tích nội dung, ý nghĩa của chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000; đồng thời tìm ra những vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. - Tìm hiểu thực trạng kết hôn ở Việt Nam trong những năm gần đây. - Đề xuất một số kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại trong quá trình áp dụng chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 và hoàn thiện pháp luật về chế định này. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Chế định kết hôn là một vấn đề rất rộng và phức tạp. Trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp cao học, đề tài chỉ tập trung vào phân tích chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. Đề tài bao gồm các vấn đề cơ bản: - Khái niệm chế định kết hôn. - Sự phát triển chế định kết hôn trong hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam. 6 - Nội dung chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài Đề tài được nghiên cứu dựa trên các phương pháp khoa học duy vật biện chứng: phương pháp thống kê, quy nạp, so sánh đối chiếu… để phân tích các nội dung liên quan đến chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định kết hôn trong tình hình thực tế hiện nay. 5. Ý nghĩa khoa học của đề tài Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người nghiên cứu, học tập về chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, giúp người đọc có cái nhin sâu hơn về chế định kết hôn. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về chế định kết hôn. Chương 2: Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. Chương 3: Thực tiễn áp dụng chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 và một số kiến nghị. 7 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỂ CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG 1.1.1. Khái niệm chế định pháp luật Hệ thống pháp luật Việt Nam phân chia thành các ngành luật điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Mỗi ngành luật được tập hợp bởi nhiều chế định khác nhau, mỗi chế định bao gồm nhiều quy phạm pháp luật giống nhau điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội cùng loại. Chế định pháp luật "bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm chung giống nhau nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng" [66]. Từ điển giải thích thuật ngữ luật học cũng đã định nghĩa chế định pháp luật là: "Tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội giống nhau trong phạm vi một ngành luật". Theo đó, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì chế định pháp luật được coi là các yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội. Còn nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì nó là tổng thể các quy phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý. Dù hiểu như thế nào thì nói chung các khái niệm đều tương đối giống nhau, tất cả đều thống nhất một số đặc điểm chung của chế định pháp luật là: - Mang tính chất nhóm, mỗi chế định có đặc điểm riêng nhưng đều có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau. Một chế định pháp luật không bao giờ tạo nên được một ngành luật mà cần phải có nhiều chế định pháp luật khác nhau. Sự tồn tại của nhiều chế định pháp luật khác nhau đó đòi hỏi chúng phải có sự liên kết với nhau. Có vậy mới tạo nên một ngành luật hoàn chỉnh. Vì thế, việc xác định tính chất chung của nhóm quan hệ xã hội là yếu tố quan trọng để xây dựng một chế định pháp luật, làm cơ sở để tạo nên một ngành luật. 8 - Là hệ thống các quy phạm pháp luật bao gồm những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội nhất định. Chế định pháp luật là hệ thống các quy phạm pháp luật vì vậy nó phải mang đặc điểm của quy phạm pháp luật. Trước hết nó phải là những quy tắc xử sự chung. Nói đến xử sự chung là có thể hiểu ngay nó không phải dành cho một cá nhân, một tổ chức đơn lẻ nào mà nó phải dành cho mọi tổ chức, cá nhân tham gia trong quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật đó điều chỉnh. Những "khuôn mẫu" xử sự chung đó tuy có những điểm riêng nhưng chúng thống nhất với nhau và đều do Nhà nước ban hành. Nhà nước áp đặt ý chí của mình bằng các quy phạm pháp luật đó. Theo đó, các đối tượng chịu sự điều chỉnh của nhóm quan hệ xã hội nào sẽ có những quyền, nghĩa vụ pháp lý tương ứng với nhóm quan hệ xã hội đó. Nhà nước đảm bảo cho những quyền và nghĩa vụ đó được thực hiện bằng quyền lực của Nhà nước. Đây chính là bản chất của pháp luật. - Điều chỉnh nhóm các quan hệ xã hội tương đối giống nhau. Nói đến nhóm quan hệ xã hội tức là nói đến nhiều quan hệ xã hội. Không phải quan hệ nào cũng giống nhau. Ví dụ như quan hệ hôn nhân và gia đình bao gồm nhiều quan hệ khác nhau như quan hệ giữa hai vợ - chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em ruột thịt... Mỗi quan hệ đều có những điểm riêng nhưng chúng lại có điểm chung nhất đều là quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Mỗi quan hệ riêng có những quy phạm pháp luật riêng tương ứng điều chỉnh nhưng đều phải tuân theo những nguyên tắc chung của Luật Hôn nhân và gia đình… Như vậy, hiểu một cách khái quát chế định pháp luật là một thuật ngữ luật học dùng để chỉ một số các quy phạm pháp luật có những đặc điểm chung giống nhau nhằm điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội tương ứng. Mỗi chế định pháp luật luôn có những đặc điểm riêng nhưng chúng vẫn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy chế định pháp luật bao giờ 9 cũng tuân theo quy luật vận động khách quan, chịu ảnh hưởng và tác động của các chế định khác trong hệ thống pháp luật. 1.1.2. Khái niệm chế định kết hôn Luật Hôn nhân và gia đình là ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, được tạo thành bởi nhiều chế định pháp luật khác nhau như chế định kết hôn, chế định ly hôn... Các chế định đều điều chỉnh chung cho nhóm quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, là sự tổng hợp của nhiều quy phạm pháp Luật Hôn nhân và gia đình điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực đó. Những quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình là các quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên trong gia đình với nhau… Khi những quan hệ xã hội này chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp Luật Hôn nhân và gia đình thì các quan hệ đó được coi là quan hệ pháp Luật Hôn nhân và gia đình. Ví dụ: Khi hai bên nam - nữ kết hôn với nhau, theo nguyên tắc chung tại Điều 11 và Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nam - nữ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc kết hôn. Kể từ thời điểm đó phát sinh quan hệ vợ chồng hợp pháp giữa nam - nữ mà nội dung của quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng; những quan hệ phát sinh từ quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng như quan hệ giữa cha mẹ và con, giữa vợ chồng … Tất cả những quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình được Luật Hôn nhân và gia đình điều chỉnh là quan hệ pháp Luật Hôn nhân và gia đình. Tuy rằng không phải lúc nào cũng chỉ giới hạn sự điều chỉnh bởi quan hệ giữa các thành viên của một gia đình mà còn điều chỉnh cả những quan hệ đã từng có quan hệ với gia đình đó. Ví dụ như không phải hai vợ chồng sau khi ly hôn thì mọi quan hệ giữa hai vợ chồng chấm dứt mà họ vẫn có trách nhiệm, nghĩa vụ với con chung… Mục đích của hôn nhân là nhằm 10 xây dựng gia đình, quan hệ vợ chồng lâu dài và bền vững dựa trên sự yêu thương giữa vợ chồng. Để đạt được điều đó đòi hỏi vợ chồng phải yêu thương, chung thủy, quý trọng và chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, có những lúc, quan hệ vợ chồng có mâu thuẫn không thể giải quyết được và dẫn họ đến ly hôn. Dù là kết hôn hay ly hôn thì yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể phần lớn quyết định việc xác lập, tồn tại hay chấm dứt quan hệ hôn nhân và gia đình. Chính những sự kiện như kết hôn, ly hôn, các quan hệ huyết thống hay nuôi dưỡng được gắn bởi yếu tố tình cảm đã khiến các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình trở nên đặc biệt so với các quan hệ khác. Xét về mặt lý thuyết, quan hệ hôn nhân và gia đình không có yếu tố hàng hóa và ngang giá mà mang tính chất bền vững lâu dài. Đây là lý do không áp dụng thời hiệu kiện trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Quan hệ hôn nhân và gia đình cũng bao gồm hai nhóm là quan hệ nhân thân và tài sản nhưng chúng khác so với quan hệ pháp luật dân sự thông thường. Nếu quan hệ pháp luật dân sự thông thường có nội dung chính là quan hệ tài sản thì quan hệ hôn nhân và gia đình có nội dung chính là quan hệ nhân thân. Hai nhóm quan hệ trong Luật Hôn nhân và gia đình tồn tại độc lập với nhau. Chẳng hạn, khi hai vợ chồng ly hôn với nhau, quan hệ nhân thân giữa vợ chồng chấm dứt nhưng quan hệ tài sản không hẳn đã chấm dứt. Giữa họ lúc đó tồn tại quan hệ cha - con hoặc quan hệ mẹ - con, là quan hệ cấp dưỡng giữa các bên nếu có. Quan hệ nhân thân không xuất phát từ quan hệ tài sản. Sự tồn tại độc lập này, điểm khác biệt về tình cảm khiến quan hệ nhân thân đã chiếm một vị trí ưu thế hàng đầu trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Tất cả nhằm "xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững" [44]. Chế định kết hôn được coi là một chế định rất quan trọng, thiết yếu của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Chế định kết hôn được hiểu là hệ thống các quy phạm pháp Luật Hôn nhân và gia đình những điểm chung giống nhau cùng điều chỉnh một nhóm quan hệ pháp luật về vấn đề kết hôn. 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định chế định kết hôn từ Điều 9 đến Điều 17. Việc quy định này chứng tỏ tầm quan trọng của chế định kết hôn. Đây là chế định mở đầu cho những quy định điều chỉnh những quan hệ phát sinh sau này liên quan đến hôn nhân và gia đình. 1.2. KHÁI QUÁT SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN TRONG PHÁP LUẬT VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM 1.2.1. Chế định kết hôn trong cổ luật Việt Nam Ngay từ thời cổ luật, vấn đề hôn nhân và gia đình đã được chú ý quan tâm khi các triều đại vua chúa ngày xưa xây dựng luật. Dưới thời phong kiến có hai bộ luật được coi là tiêu biểu đó là Quốc triều hình luật (Quốc triều hình luật) của Triều Lê và Hoàng Việt luật lệ của Triều Nguyễn. - Quốc triều hình luật (còn gọi là bộ Luật Hồng Đức) được ban hành dưới Triều Lê niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) Theo các nhà nghiên cứu thì không xác định chính xác được thời điểm công bố bộ luật mà chỉ có thể xác định được trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1497). Bộ luật này cũng được bổ sung, hiệu đính qua nhiều đời vua Triều Lê. Bộ Quốc triều hình luật có 13 chương, ghi chép trong 06 quyển (trong đó, 05 quyển có 02 chương/quyển và 01 quyển có 3 chương) gồm 722 điều. Bộ luật quy định khá đầy đủ những vấn đề của thời đại đó như: Danh lệ, cấm vệ, quân lính, điền sản, tăng bổ hương hỏa, gian thông, đạo tặc… Trong đó quy định 60 điều về Hộ hôn (hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân và gia đình và những tội phạm trong lĩnh vực này). - Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là Bộ luật Gia Long. Lúc bấy giờ Gia Long lên ngôi ra lệnh soạn bộ luật mới để có cơ sở về pháp luật. Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành đã theo lệnh vua chủ biên bao gồm 22 quyển và 398 điều và sau đó được vua Gia Long cho ban hành chính thức vào năm 1815. 12 Bộ luật gần như lấy nguyên mẫu là luật nhà Thanh và được sử dụng trong suốt thời kỳ nhà Nguyễn. Cả hai bộ luật đều đã chú ý đến vấn đề hôn nhân và gia đình. Đây là sự quan tâm của giai cấp thống trị trong xã hội nhằm duy trì sự thống trị của vương triều, củng cố trật tự xã hội và chế độ gia đình gia trưởng trong xã hội phong kiến thời xưa. Vấn đề kết hôn đã được hai bộ luật này đề cập tới gồm những quy định về điều kiện kết hôn và hình thức kết hôn. * Về điều kiện kết hôn Kết hôn phải có sự đồng ý của hai bên cha mẹ. Cả hai bộ luật đều quy định việc kết hôn chỉ được thực hiện khi có cha mẹ hoặc một người tôn thuộc đứng đầu làm chủ hôn (Điều 413 Quốc triều hình luật và Điều 94 Hoàng Việt luật lệ). Có thể coi đây là điều cơ bản nhất, loại trừ hẳn quyền tự do kết hôn của hai bên nam nữ. Điều này xuất phát từ quan điểm phong kiến cho rằng hôn nhân là quan hệ xuất phát từ quyền lợi gia đình, dòng họ nhằm giao hiếu giữa hai dòng họ và kế truyền dòng họ tông tộc. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định trường hợp: việc kết hôn có thể do hai bên nam nữ quyết định vì họ chỉ còn bà con xa hoặc trong trường hợp họ ở xa nhà. Kết hôn không vi phạm những điều mà pháp luật cấm. Pháp luật thời kỳ này quy định cấm kết hôn rất khắt khe nhằm mục đích bảo vệ vương quyền, trật tự đẳng cấp xã hội, đạo đức chính yếu: + Cấm kết hôn khi có tang, cha mẹ bị giam cầm, tù tội (Điều 318 Quốc triều hình luật và Điều 99 Hoàng Việt luật lệ) + Cấm kết hôn giữa những người thân thích (Điều 319 Quốc triều hình luật và Điều 100, 101, 102 Hoàng Việt luật lệ) Ngoài ra trong mỗi bộ luật còn có thêm những quy định cấm khác như: Cấm quan lại và con cháu không được lấy con gái hát xướng làm vợ (Điều 323 Quốc triều hình luật)… 13 Về độ tuổi kết hôn thì cả hai bộ luật này không quy định rõ về độ tuổi cho phép hai bên nam nữ kết hôn. Nhưng trong văn bản "Hồng Đức hôn giá lễ nghi" có quy định rõ "con trai từ 18 tuổi, con gái từ 16 tuổi trở lên mới có thể thành hôn". Đây là một quy định vừa thỏa mãn được nhu cầu sớm có người chăm sóc cha mẹ, thờ phụng tổ tiên vừa tránh tệ nạn tảo hôn thường thấy ở xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Trong trường hợp hôn nhân vi phạm một trong các điều kiện trên đây thì hai bên kết hôn buộc phải ly dị và phải chịu những hình phạt nhất định tùy từng trường hợp cụ thể. Ví dụ theo Hoàng Việt luật lệ tại Điều 98, kết hôn khi có tang cha mẹ hoặc tang chồng thì bị tội đồ, phạt 100 trượng; Điều 99 quy định: kết hôn khi ông bà, cha mẹ bị giam tù thì bị xử biếm ba tư và vợ chồng phải phân dị, phạt 80 trượng… * Về thủ tục kết hôn Thủ tục kết hôn của cả hai bộ luật đều quy định bao gồm: hình thức đính hôn và nghi lễ kết hôn. Hình thức đính hôn: Hình thức đính hôn là cách thức để Quốc triều hình luật công nhận một cuộc hôn nhân có giá trị pháp lý. Theo đó, Quốc triều hình luật chỉ coi là đính hôn sau khi nhà trai đã nộp đủ sính lễ (gồm vàng, bạc, tiền, lụa, heo, rượu) cho nhà gái, tức là phải có sự hứa hôn của hai họ. Việc nạp sính lễ mang tính chất long trọng cùng với sự cáo tổ trước từ đường hai họ là bằng chứng công khai và chắc chắn cho việc hứa hôn. Quốc triều hình luật cũng quy định "gả con gái đã nhận đồ sính lễ mà lại thôi không gả nữa thì phải phạt 80 trượng... Còn người con gái phải gả cho người hỏi trước" (Điều 315 Quốc triều hình luật). Khác với Quốc triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ quy định hình thức của sự đính hôn là các "hôn thư" hoặc tư ước. Đó là lời cam kết của hai người chủ hôn (Điều 94 Hoàng Việt luật lệ). Hoàng Việt luật lệ cũng quy định nếu 14 đã hứa hôn, có hôn thư mà đổi ý, chủ hôn nhà gái bị phạt 50 roi, người con gái vẫn phải về nhà chồng đã hứa gả. Nhà Nguyễn cũng quy định dù không "hôn thư", nhưng nhà gái đã nhận sính lễ cũng có giá trị hứa hôn. Theo Điều 108 Hoàng Việt luật lệ quy định: 5 năm sau khi nộp sính lễ, đàng gái không phạm lỗi mà đàng trai không cử hành lễ thân nghinh (lễ rước dâu) thì nhà gái được phép xin quan cấp chấp chiếu cho phép kết hôn với người khác. Về nghi lễ kết hôn, luật nhà Nguyễn không quy định cụ thể song luật nhà Lê thì lại rất chú trọng quy định về hình thức giá thú. Hôn nhân theo luật nhà Lê gồm 4 lễ: lễ nghị hôn (nhờ mối lái đi lại bàn định), lễ định thân (mang lễ vật vấn danh đến nhà gái), lễ nạp trưng (mang sính lễ dẫn cưới đến nhà gái), lễ thân nghinh (rước dâu). Nghi lễ kết hôn thời kỳ này đã phản ánh rất rõ phong tục tập quán của người Việt Nam ta và cho đến ngày nay, nhiều nghi lễ vẫn còn được gìn giữ thực hiện. Có thể thấy, hai bộ luật đã có nhiều điểm tiến bộ, tuy Hoàng Việt luật lệ không đề cao địa vị của người phụ nữ bằng Quốc triều hình luật, song so với lúc bấy giờ, vai trò của người con gái - người phụ nữ đã được xã hội ghi nhận tốt hơn. Ngoài hai bộ luật chính là Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ, thời kỳ phong kiến còn xây dựng nhiều văn bản pháp luật khác nhau quy định về vấn đề kết hôn mà chưa được tập hợp, thống nhất thành một chế định hoàn chỉnh. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy rõ thời kỳ này, một khung pháp lý quy định về việc kết hôn đã được xây dựng và dần dần bổ sung, thay đổi cho hoàn chỉnh trong các thời kỳ sau. 1.2.2. Chế định kết hôn trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 Ngày 25/8/1883 triều đình nhà Nguyễn ký kết với Pháp bản "Hiệp ước hòa bình". Theo bản Hiệp ước đó, đất nước ta bị chia cắt làm ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Đất nước Việt Nam chịu sự đô hộ của thực dân 15 Pháp. Nhằm đảm bảo sự thống trị của chúng trên đất nước Việt Nam, thực dân Pháp tiếp tục duy trì quan hệ sản xuất và chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến từ nhiều thế kỷ trước ở nước ta. Phỏng theo Bộ luật Dân sự của Công hòa Pháp ban hành năm 1804, điều chỉnh những quan hệ hôn nhân và gia đình ở nước ta dựa trên ba bộ luật: - Bắc Kỳ áp dụng: Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931. - Trung Kỳ áp dụng: Bộ dân luật Trung Kỳ năm 1936. - Nam Kỳ áp dụng: Tập Dân luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883 . Thực dân Pháp coi Nam Kỳ là thuộc địa của chúng, còn Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ bảo hộ, do vậy ở mỗi miền áp dụng một bộ luật khác nhau với những quy định khác nhau. Về độ tuổi cho phép kết hôn: Dân luật giản yếu quy định "con trai 16 tuổi, con gái 14 tuổi" được phép kết hôn. dân luật Bắc Kỳ và dân luật Trung Kỳ quy định độ tuổi kết hôn cao hơn Dân luật giản yếu: "nam tròn 18 tuổi, nữ tròn 15 tuổi". Tuy nhiên, trong trường hợp có lý do chính đáng thì quan tỉnh có thể đặc cách cho phép nam tròn 15 tuổi, nữ tròn 12 tuổi kết hôn (Điều 75 dân luật Bắc Kỳ và dân luật Trung Kỳ). Ngoài ra, sự tự nguyện của các bên nam nữ trong việc xác lập hôn nhân cũng đã được các bộ luật thời kỳ này ghi nhận. Điều 76 dân luật Bắc Kỳ quy định "kết hôn tất phải có hai bên nam nữ bằng lòng nhau mới được". Quy định này thể hiện sự tiến bộ hơn hẳn so với pháp luật thời Lê, thời Nguyễn. Nhưng bên cạnh sự ưng thuận của đôi nam nữ khi kết hôn, pháp luật thời kỳ này vẫn ghi nhận sự ưng thuận của cha mẹ, của người thân thích hay người đỡ đầu và cũng coi đó là yếu tố cần thiết bảo đảm cho hôn nhân được coi là hợp pháp, không kể người kết hôn đã thành niên hay chưa thành niên. Điều 77 dân luật Bắc Kỳ quy định "phàm con cái đã thành niên hay chưa thành niên, không khi nào không có cha mẹ bằng lòng mà kết hôn được". Cùng với các quy định về các điều kiện kết hôn, cả ba bộ luật trên còn quy định một số 16 trường hợp cấm kết hôn: Cấm lấy người thân thuộc về trực hệ và một số người thuộc bàng hệ (anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha, chị dâu, em dâu, anh chồng, em chồng… (Điều 74 dân luật Bắc Kỳ); cấm kết hôn trong thời kỳ cư tang - khi có tang cha mẹ hoặc tang chồng là hai mươi bảy tháng, tang vợ là mười hai tháng (Điều 84 dân luật Bắc Kỳ). Về nghi lễ kết hôn có nhiều điểm giống quy định của pháp luật thời kỳ phong kiến, nhưng pháp luật thời kỳ này có điểm mới là "việc kết hôn phải được khai với chính quyền (hộ lại) thì mới có giá trị" (Điều 69 dân luật Bắc Kỳ). Theo dân luật Trung Kỳ, nghi lễ kết hôn gồm: ước hôn (lễ hỏi) và kết hôn (hôn lễ). Hôn lễ được cử hành theo phong tục tập quán. Trước hôn lễ phải thi hành thủ tục công bố trong thời hạn tám ngày tại cư sở của cả nam lẫn nữ và sau đó đăng ký vào nhân thế bộ địa phương. Nếu không đăng ký thì coi như việc kết hôn của hai vợ chồng đó không có giá trị pháp lý. Như vậy, quy định của pháp luật về vấn đề kết hôn tuy đã được cả ba bộ luật sửa đổi theo hướng tiến bộ hơn như ghi nhận sự "tự nguyện": việc kết hôn phải do hai bên nam nữ bằng lòng (Điều 76 dân luật Bắc Kỳ và dân luật Trung Kỳ), công bố việc kết hôn…. Nhưng do ảnh hưởng của chế độ phong kiến nên nhiều quy định về vấn đề kết hôn của pháp luật thời kỳ này giống với pháp luật thời kỳ phong kiến, nhất là các quy định cấm kết hôn, nghi lễ kết hôn... Ba bộ luật trên được người Pháp xây dựng nhằm cai trị Việt Nam. Nguồn gốc hình thành đều dựa vào luật của Pháp mà cụ thể là ảnh hưởng của Bộ luật dân sự Napoleon năm 1804, vì thế khi áp dụng tại Việt Nam còn rất nhiều điều không phù hợp. Hơn nữa những văn bản về hôn nhân và gia đình do nhà nước thực dân phong kiến ban hành, áp dụng chịu ảnh hưởng của tư tưởng chính trị phong kiến. Do vậy mà vẫn không có nhiều quy định mới, tiến bộ hơn về vấn đề kết hôn. Những quy định về việc kết hôn cũng vẫn còn nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau, chưa được xây dựng thành chế định riêng. 17 1.2.3. Chế định kết hôn trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam giai đoạn 1945-1954 Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đọc tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử Nhà nước ta chưa thể ban hành ngay một đạo luật để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 90-SL cho phép vận dụng những quy định trong pháp luật cũ một cách có chọn lọc theo nguyên tắc không đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, của Nhà nước. Năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ, giải phóng phụ nữ khỏi ách áp bức bóc lột hàng ngàn năm, cơ sở để xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu, tạo điều kiện xây dựng một chế độ hôn nhân và gia đình mới phù hợp với quốc gia độc lập, dân chủ, tiến bộ. Những quy định của pháp luật về vấn đề kết hôn đã được ghi nhận trong Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật. Sắc lệnh đã có nhiều quy định xóa bỏ những quy phạm pháp luật của Nhà nước phong kiến thực dân, sửa đổi theo hướng tiến bộ phù hợp với chế độ mới (Điều 2 - "Người con đã thành niên không bắt buộc phải có cha mẹ bằng lòng mới kết hôn được", "trong thời kỳ tang chế vẫn có thể lấy vợ lấy chồng được…" (Điều 3), "Người đàn bà ly dị có thể lấy chồng khác ngay sau khi có án tuyên ly dị, nếu dẫn chứng rằng mình không có thai hoặc đương có thai" (Điều 4), "cha mẹ không có quyền xin giam cầm con cái" (Điều 8). Nguyên tắc tự do kết hôn, tự do lựa chọn hôn nhân được đề cao. Bên cạnh đó Sắc lệnh còn tồn tại một số hạn chế nhất định như: quá đơn giản, thiếu những quy định hết sức quan trọng như điều kiện về độ tuổi kết hôn… quy định về việc kết hôn còn có điểm hạn chế: " … người vợ góa chỉ có thể lấy chồng sau 10 tháng kể từ ngày chồng chết…" (Điều 3). Mặt khác, Sắc lệnh mới chỉ đưa ra một vài quy định về xóa bỏ cấm kết hôn trong thời kỳ tang chế, kết hôn không cần phải có sự ưng thuận của các bậc tôn thuộc. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan