Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Cách khắc phục một số lỗi ngữ pháp tiếng việt mà học sinh trung học cơ sở thường...

Tài liệu Cách khắc phục một số lỗi ngữ pháp tiếng việt mà học sinh trung học cơ sở thường mắc phải

.PDF
20
142
112

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI CÁCH KHẮC PHỤC MỘT SỐ LỖI NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT MÀ HỌC SINH THCS THƯỜNG MẮC PHẢI Người thực hiện: Nguyễn Thị Thuyên Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: trường THCS Thọ Lập SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ Văn THANH HÓA, NĂM 2016 1 MỤC LỤC Trang I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài.........................................................................................1 2. Mục đích nghiên cứu..................................................................................1 3. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................1 4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................2 II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận................................................................................................2 2. Thực trạng vấn đề.......................................................................................3 3. Giải pháp và tổ chức thực hiện..................................................................4 3.1. Giới thiệu vài nét về ngữ pháp............................................................5 3.2. Một số lỗi ngữ pháp mà học sinh THCS thường mắc phải và cách khắc phục.............................................................................................4 3.2.1. Lỗi dùng từ trong cấu tạo cụm từ và câu....................................5 3.2.2. Lỗi đặt câu.................................................................................10 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm........................................................15 III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 1. Kết luận....................................................................................................16 2. Đề xuất.....................................................................................................16 2 I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Trước xu thế phát triển và hội nhập trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu đã đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới một cách mạnh mẽ, đồng bộ cả mục tiêu, nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học cũng như phương pháp kiểm tra đánh giá học sinh để có thể đào tạo ra lớp người lao động mới mà xã hội đang cần. Ngữ văn là một trong những bộ môn quan trọng trong nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Mục đích dạy cho học sinh biết sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và mở rộng hiểu biết qua kĩ năng nghe - nói - đọc - viết từ những giờ học, chuẩn bị cho các em hành trang để bước vào đời hoặc học lên những bậc học cao hơn là vô cùng cần thiết. Đó cũng chính là chiếc chìa khóa mở cửa cho tương lai của các em. Tiếng Việt có những đặc sắc của thứ tiếng giàu và đẹp, đòi hỏi các em phải rèn luyện, nắm vững kiến thức và sử dụng tiếng Việt trong đời sống nói chung, học tập nói riêng phải là việc làm thường xuyên, giúp các em có tư duy chính xác, góp phần vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tuy vậy, sử dụng tiếng Việt theo các chuẩn mực là điều không hề đơn giản. Hiện nay, việc sử dụng tiếng Việt của học sinh gặp không ít khó khăn, tình trạng các em nói, viết sai ngữ pháp đang đến mức báo động, xẩy ra ở mọi cấp học, đặc biệt là học sinh bậc Trung học cơ sở (THCS). Đứng trước tình hình đó đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề và chỉ ra một số cách khắc phục lỗi từ những góc nhìn lí luận và thực tiễn khác nhau. Song, vấn đề nghiên cứu được thể hiện ở mặt lý thuyết chung chung hoặc trong một phạm vi nhất định nào đó. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp môn Ngữ văn bậc THCS, tôi không khỏi băn khoăn, trăn trở, làm thế nào để hạn chế lỗi ngữ pháp mà học sinh THCS thường mắc phải, giúp các em có hứng thú, có ý thức học tập tốt và sử dụng tiếng Việt tốt hơn. Vì thế, trên cơ sở kế thừa và phát huy tinh thần, tư tưởng của các công trình nghiên cứu đi trước, kết hợp với thực tiễn giảng dạy ở trường trong những năm qua, tôi đã nêu ra vấn đề: “Cách khắc phục một số lỗi ngữ pháp mà học sinh THCS thường mắc phải” góp phần giúp các thầy (cô) giáo và các em học sinh có những giờ học thiết thực và hiệu quả. 2. Mục đích nghiên cứu - Củng cố tri thức lí thuyết, chỉ dẫn một số thao tác nhận diện lỗi ngữ pháp, đưa ra cách khắc phục lỗi để vận dụng vào giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở bậc THCS; giúp học sinh sửa lỗi, rèn luyện và nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày, nhất là trong học tập và nghiên cứu. - Bồi dưỡng tình cảm yêu quý, thái độ trân trọng đối với tiếng Việt; rèn luyện cho học sinh thói quen và ý thức sử dụng tiếng Việt một cách hợp lí, đúng chuẩn mực. 3. Đối tượng nghiên cứu Tiến hành nghiên cứu và xem xét các trường hợp mắc lỗi ngữ pháp của học sinh trong quá trình học tập, sử dụng tiếng Việt từ khối 6 đến khối 9 (bậc THCS) qua các năm để tìm ra cách khắc phục lỗi cho các em. 3 4. Phương pháp nghiên cứu - Khảo sát - Điều tra - Thực nghiệm - Phân tích – tổng kết - Phân loại – hệ thống hóa - Lôgíc – lịch sử II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Tiếng Việt là ngôn ngữ của dân tộc Việt (Kinh), đồng thời cũng là tiếng phổ thông của tất cả các dân tộc anh em sống trên đất nước Việt nam. Tiếng Việt có lịch sử lâu đời và ngày nay tiếng Việt cũng đang khẳng định địa vị của mình với các ngôn ngữ phát triển khác trên thế giới. Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay và là ngôn ngữ chính thức trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu từ bậc Mẫu giáo đến Đại học, Cao học. Đồng thời, tiếng Việt là chất liệu của sáng tạo nghệ thuật, là công cụ nhận thức của người Việt, mang rõ dấu ấn của nếp cảm, nếp nghĩ của người Việt; là phương tiện để tổ chức và phát triển xã hội. Tiếng Việt có một ngữ pháp riêng biệt so với các ngôn ngữ khác. Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt đã có khá nhiều công trình xem xét và giải quyết từ những góc nhìn lí luận và thực tiễn khác nhau như: Ngữ pháp tiếng Việt, Lớp 5, lớp 6, lớp 7 của tác giả Nguyễn Lân (1956); Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam của Trương Văn Chình & Nguyễn Hiến Lê (1963); Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt (tập 2) của Nguyễn Kim Thản (1964); Xung quanh việc phân biệt câu ghép với câu đơn của Diệp Quang Ban (1972); Ngữ pháp tiếng Việt: Tiếng Từ ghép - Đoản ngữ của Nguyễn Tài Cẩn (1981); Ngữ pháp tiếng Việt: Từ loại của Đinh Văn Đức (1986); Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng (tập 1) của tác giả Cao Xuân Hạo (1991); Thành phần câu tiếng Việt của Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (1998)… và một số tiểu luận, sáng kiến kinh nghiệm qua các năm nghiên cứu ở các phương diện của ngữ pháp tiếng Việt. Với sự quan tâm đó, chứng tỏ rằng giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là quý trọng, bảo vệ và phát triển tiếng nói của cha ông. Mọi người con đất Việt nói chung, học sinh THCS nói riêng cần phải ra sức học tập và rèn luyện tiếng Việt, ứng xử với thái độ trân trọng và sử dụng theo chuẩn mực tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. 2. Thực trạng vấn đề Ngày nay xã hội phát triển, con người ngày càng không ngừng học tập để hoàn thiện mình, vì thế giáo dục trong nhà trường là vô cùng quan trọng. Nó đòi hỏi cả giáo viên và học sinh cùng không ngừng cố gắng, học tập và rèn luyện để trau dồi kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết của mình. Vậy nhưng, vấn đề đặt ra để thực hiện trên thực tế lại rất khó khăn. Đúng như GS.TS Ngô Như Bình (trường đại học Harvard - Mĩ) chia sẻ. Ông “đau đáu trước 4 một xu hướng khá bi đát, rằng tiếng Việt đang bị hủy hoại”. Và theo ông, một trong những vấn đề nghiêm trọng đang hủy hoại tiếng Việt là “lỗi ngữ pháp và lỗi về cách dùng từ ngày càng trở nên phổ biến”. Thực tế cho thấy, hiện nay học sinh nói, viết sai ngữ pháp tiếng Việt ngày càng phổ biến khiến các thầy, cô giáo vô cùng lo lắng. Từ chỗ các em viết sai chính tả đến đặt câu và tạo dựng đoạn văn trình bày vấn đề thiếu tính chính xác, kém sức thuyết phục đối với người đọc, người nghe. Không chỉ trong viết mà nói hàng ngày, các em cũng sử dụng sai ngữ pháp, thiếu từ, câu hoặc tùy tiện chêm xen ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả học tập và giao tiếp. Về phía giáo viên: Đối với bậc THCS, môn Ngữ văn không có các tiết luyện chính tả, luyện đọc - viết nên hầu hết các giáo viên không quan tâm nhiều đến việc rèn luyện, sửa lỗi ngữ pháp cho học sinh. Trong các bài kiểm tra của học sinh, giáo viên chấm bài và trả bài qua loa, không chú trọng vào việc đọc kĩ và phát hiện lỗi ngữ pháp của mỗi học sinh lớp mình giảng dạy để kịp thời sửa lỗi cho các em. Bên cạnh đó, có giáo viên còn cho rằng ngày nay học sinh viết sai, nói sai ngữ pháp nhiều không thể sửa hết được. Cứ như thế, lớp này đến lớp khác học sinh sai mà không biết mình sai hoặc sai nhưng không biết cách nào để sửa lỗi ngữ pháp mà mình gặp phải. Về phía học sinh: Đối với học sinh THCS, nhận thức về việc sử dụng ngữ pháp tiếng Việt còn hạn chế. Vì vậy, các em mắc lỗi về nói và viết trong quá trình sử dụng tiếng Việt. Hơn nữa, với quan niệm của các em việc sai ngữ pháp thường xuyên đã trở thành thói quen trong sử dụng tiếng Việt khiến các em có cách nghĩ: “sai như vậy là chuyện bình thường” và đổ tất cả cho lỗi phát âm địa phương như thế nên viết theo, chưa kể đến ngôn ngữ bị xáo trộn, lai tạp. Từ thực tế giảng dạy môn Ngữ văn ở bậc THCS, qua kiểm tra vở bài tập, đặc biệt là bài kiểm tra của học sinh từ lớp 6 đến lớp 9, tôi thấy hầu như ở khối lớp nào học sinh viết sai ngữ pháp cũng rất nhiều dẫn đến nhiều nhầm lẫn về nội dung sử dụng trong học tập cũng như giao tiếp trong đời sống ngoài xã hội. Ban đầu là lỗi chính tả dẫn đến dùng từ sai, dùng từ sai dẫn đến đặt câu sai và cuối cùng mục đích dựng đoạn và tạo lập văn bản kém hiệu quả. Khảo sát về số học sinh mắc lỗi ngữ pháp qua bài kiểm tra của các em từ lớp 6 đến lớp 9 (năm học 2014 - 2015) (thực hiện điều tra khi giáo viên chưa vận dụng Một số biện pháp khắc phục lỗi ngữ pháp kết hợp trong giảng dạy ngoài những tiết theo phân phối chương trình) TT Lớp 1 2 3 4 6B 7A 8A 9B Tổng số học sinh 35 32 39 34 Số học sinh mắc lỗi ngữ pháp 30 26 30 27 Tỉ lệ (%) 85.7 81.3 76.9 79.4 Bậc THCS là bậc học rất quan trọng trong quá trình học tập của học sinh. Nó là khâu trung gian nối giữa bậc Tiểu học và bậc THPT, là giai đoạn các em tích lũy 5 tri thức để chuyển lên những cấp học cao hơn, yêu cầu của việc các em nói đúng, viết đúng tiếng Việt trở nên hết sức bức thiết. Do vậy, dạy học sinh nắm bắt kiến thức ngữ pháp nói chung và ngữ pháp tiếng Việt nói riêng nhằm hình thành và nâng cao những kiến thức ngữ pháp tiếng Việt để các em có kĩ năng sử dụng tiếng Việt khi nói, viết, năng lực phân tích, lĩnh hội khi nghe, đọc. Đây là việc làm quan trọng, đòi hỏi người giáo viên dạy phải có niềm đam mê và tâm huyết trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ tương lai cho đất nước. 3. Giải pháp và tổ chức thực hiện Để giúp học sinh hiểu, nắm rõ được ngữ pháp tiếng Việt, người giáo viên trước hết phải nắm vững lý thuyết về ngữ pháp tiếng Việt để ứng dụng vào thực tiễn giảng dạy. Muốn làm được điều đó, người giáo viên không có cách nào khác là phải học tập, tìm hiểu và nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu tôi đã rút ra được một số đặc điểm cơ bản của ngữ pháp tiếng Việt để từ đó đưa ra cách khắc phục một số lỗi ngữ pháp mà học sinh THCS mắc phải. Trong chương trình giáo dục môn Ngữ văn THCS (từ lớp 6 đến lớp 9) có những bài học thiết thực để giúp học sinh khắc phục một số lỗi ngữ pháp cơ bản nhưng để các em nắm bắt được cần có sự sắp xếp cũng như phương pháp cụ thể phù hợp với từng đối tượng lớp học, cấp học. 3.1. Giới thiệu vài nét về ngữ pháp Ngữ pháp là thuật ngữ dịch từ “grammaire”(tiếng Pháp) hay “grammar”(tiếng Anh). Thuật ngữ này có nguồn gốc từ tiếng Latinh “grammatike” có nghĩa là “phép tắc về ngôn ngữ” hay “quy tắc nói, viết đúng”. Ngữ pháp hay văn phạm là quy tắc chủ yếu trong cấu trúc ngôn ngữ. Việc tạo ra các quy tắc chính cho một ngôn ngữ riêng biệt là ngữ pháp của ngôn ngữ đó, vì vậy mỗi ngôn ngữ có một ngữ pháp riêng biệt của nó. Ngữ pháp là một phần trong nghiên cứu ngôn ngữ hay còn gọi là ngôn ngữ học. Ngữ pháp là một cách thức để hiểu về ngôn ngữ. Mặt khác, ngữ pháp còn là một công cụ để quản lý từ ngữ, làm cho từ ngữ từ một từ hay nhiều từ thành một câu đúng ý nghĩa và thực sự hữu ích. Ngữ pháp, theo cách hiểu của hầu hết các nhà ngôn ngữ học hiện đại bao gồm ngữ âm, âm học, hình thái ngôn ngữ, cú pháp, ngữ nghĩa. Tuy nhiên, theo truyền thống, ngữ pháp chỉ bao gồm hình thái ngôn ngữ và cú pháp. Chúng ta có thể hiểu: ngữ pháp là toàn bộ các quy tắc biến đổi hình thức của từ, các đặc tính của từ loại và sự kết hợp từ tạo nên cụm từ và câu. Tiếng Việt thuộc loại hình đơn lập, phát triển ở trình độ cao, đủ khả năng diễn đạt các khái niệm và sắc thái tình cảm, thể hiện các chức năng xã hội từ giao tiếp hàng ngày đến giảng dạy trong nhà trường, công cụ truyền tin của các phương tiện thông tin đại chúng. 3.2. Một số lỗi ngữ pháp mà học sinh THCS thường mắc phải và cách khắc phục Từ việc học sinh dùng từ, đặt câu sai dẫn đến việc trong câu xuất hiện các từ không có trong tiếng Việt cũng như câu trong đoạn, văn bản không diễn đạt được ý, mục đích muốn nói. Ở trình độ của học sinh THCS, trên cơ sở chỉ ra một số lỗi ngữ pháp thường gặp và nguyên nhân dẫn đến lỗi, tôi đưa ra cách khắc phục lỗi. 6 3.2.1. Lỗi dùng từ trong cấu tạo cụm từ và câu và cách khắc phục lỗi 3.2.1.1. Về lí thuyết (một số lỗi ngữ pháp thường gặp, nguyên nhân và cách khắc phục) * Dùng từ không đúng âm thanh và hình thức cấu tạo khi đặt câu - Nguyên nhân +) Không phân biệt được từ gần âm nhưng khác nghĩa +) Các từ viết sai chính tả do phát âm lệch chuẩn hoặc phát âm địa phương - Khắc phục Âm thanh và hình thức cấu tạo là mặt vật chất, là cái biểu đạt của từ. Nếu cái biểu đạt mà bị dùng sai thì hệ quả kéo theo là cái được biểu đạt sẽ không đúng hoặc vô nghĩa. Ví dụ:  (1) Mẹ luôn mơ ước con có một tương lai sáng lạng.   (2)  Một tương lai sáng lạn đang chờ đón Việt Nam ở phía trước. (Trích trong bài kiểm tra Tập làm văn của học sinh lớp 6) Theo cuốn “Từ điển Tiếng Việt” do Trung tâm Từ điển học và Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản (Hoàng Phê chủ biên) giải thích: “xán lạn” là rực rỡ, chói lọi/tiền đồ xán lạn/tương lai xán lạn (trang 1454) thì cả hai trường hợp trên đều dùng từ sai. Ở vào vị trí của từ “sáng lạng” (ví dụ 1) hay “sáng lạn” (ví dụ 2) chính xác phải là từ “xán lạn”. Vì chỉ có từ “xán lạn” mới có nghĩa còn hai từ “sáng lạng”, “sáng lạn” đều vô nghĩa, không tồn tại trong từ vựng tiếng Việt. * Dùng từ không đúng về ý nghĩa khi đặt câu - Nguyên nhân Dùng từ nhưng không hiểu nghĩa của từ, không nắm được kiến thức về các thành phần nghĩa của từ: nghĩa biểu vật, biểu niệm và biểu thái. - Khắc phục (nắm vững lí thuyết, vận dụng vào thực tiễn sử dụng từ) +) Nghĩa của từ là nội dung mà từ biểu thị (sách giáo khoa Ngữ văn 6, tập 1) +) Nghĩa từ vựng của từ thường được kể đến là nghĩa biểu vật (biểu thị sự vật, hiện tượng, đặc điểm trạng thái, hoạt động, tính chất ... được từ gọi tên), nghĩa biểu niệm (là cấu trúc các nét nghĩa được bắt nguồn từ các thuộc tính của các sự vật trong thực tế, là nghĩa mà khi nhắc đến từ  nó gợi cho ta hình ảnh của sự vật mà từ gọi tên) và nghĩa biểu thái (biểu thị thái độ, cảm xúc và  sự đánh giá các mức độ khác nhau của sự vật, hiện tượng, tính chất…). Nghĩa của từ còn bao gồm loại nghĩa ngữ pháp, là nghĩa khái quát cho cả một lớp từ hoặc thể hiện quan hệ của từ trong cụm từ, trong câu. Ví dụ: Thuyết minh cung cấp cho chúng ta những trí thức cần thiết và bổ ích trong cuộc sống (Trích trong bài kiểm tra Tập làm văn của học sinh lớp 8). Từ “trí thức” dùng ở trong câu là không đúng mà ở vào vị trí của từ “trí thức” phải là từ “tri thức”. Theo Từ điển Tiếng Việt, “tri thức” (danh từ): những điều hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội/ tri thức khoa học, kinh tế tri thức (tr. 1325). “Trí thức”(danh từ): Người chuyên làm việc lao động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình/ giới trí thức, một nhà trí thức yêu nước (tr. 1326). 7 * Dùng từ không đúng về quan hệ kết hợp ngữ nghĩa và ngữ pháp của từ cụm từ và trong câu +) Quan hệ kết hợp của từ trong cụm từ +) Quan hệ kết hợp của từ trong câu - Nguyên nhân Khi dùng từ do học sinh nắm không vững về kiến thức từ loại, dùng từ không đúng với đặc điểm từ loại cũng như ý nghĩa của từ để kết hợp tạo cụm từ và câu đúng nên học sinh dễ mắc lỗi. - Khắc phục Từ là đơn vị ngôn ngữ trực tiếp cấu tạo nên câu và khi thực hiện chức năng cấu tạo câu, các ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp của từ được hiện thực hóa trong những mối quan hệ ràng buộc với nhau. Mỗi loại từ lại có những khả năng kết hợp khác nhau, bị chi phối bởi chính đặc điểm ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp của từ đó. Khi dùng từ, chúng ta nhất thiết phải nắm chắc được đặc điểm ý nghĩa của từ để kết hợp tạo câu đúng, nếu không sẽ dễ mắc lỗi. Ví dụ Trong những ngày Tết, lượng mưa kéo dài đã gây ngập úng nhiều nơi khiến cho em không thể đi chơi được. (Trích trong bài kiểm tra Tập làm văn của học sinh lớp 6) Ở ví dụ trên, sự kết hợp giữa “lượng mưa” với “kéo dài” là không phù hợp bởi khi đã tính đến “lượng” thì phải là nhiều/lớn hay ít chứ không thể kết hợp với “kéo dài” (biểu thị khoảng cách hoặc thời gian). Dùng từ như vậy dẫn đến sai logic trong việc kết hợp các từ/cụm từ trong câu. Sửa lại: Trong những ngày Tết, mưa kéo dài đã gây ngập úng nhiều nơi khiến cho em không thể đi chơi được. * Dùng từ không thích hợp với phong cách ngôn ngữ của văn bản - Nguyên nhân Từ địa phương chỉ dùng trong sinh hoạt hàng ngày và trong sáng tác văn học nhưng trong văn bản chính luận, khoa học thì không được dùng. - Khắc phục Ví dụ: Vào một buổi sáng đẹp trời, ánh bình minh vẫy gọi, rứa là em không ngần ngại trốn mẹ đi chơi. (Trích trong bài kiểm tra Tập làm văn của học sinh lớp 6) Ở ví dụ trên, học sinh không được dùng từ địa phương mà phải chọn các từ toàn dân tương ứng để đặt câu, diễn đạt ý. Sửa lại: thay từ "rứa" bằng từ "thế". Vào một buổi sáng đẹp trời, ánh bình minh vẫy gọi, thế là em không ngần ngại trốn mẹ đi chơi. 3.2.1.2. Về thực hành Trong quá trình giảng dạy ở bậc học THCS, tôi tiến hành sửa lỗi dùng từ cho học sinh từ lý thuyết đến thực hành. Ngoài việc chỉ ra một số lỗi ngữ pháp trong dùng từ mà các em thường gặp, nguyên nhân và cách khắc phục (theo mục 2.3.2.1 đã dẫn ở trên), tôi kết hợp với quá trình thực hành như sau: 8 (1) Luyện nói – viết qua các bài tập (2) Làm bài kiểm tra - đánh giá (3) Học sinh tự chỉ ra lỗi sai của mình và sửa lỗi qua bài kiểm tra (4) Giáo viên sửa lại, khắc sâu kiến thức qua việc hỏi - đáp trực tiếp và chấm bài kiểm tra của học sinh. Các bước trên được tiến hành ở những tiết học liên quan đến kiến thức tiếng Việt và kết hợp ở các tiết trả bài kiểm tra theo phân phối chương trình của từng khối lớp. Đồng thời, yêu cầu học sinh tham khảo thêm Từ điển tiếng Việt và các tài liệu ở nhà để thấy được những lỗi mà mình thường gặp trong sử dụng tiếng Việt nói chung và từ, câu tiếng Việt nói riêng để kịp thời khắc phục. Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có thể dùng độc lập để cấu tạo câu, là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ. Nó có sẵn trong từ vựng của mỗi ngôn ngữ và tồn tại trong tiềm năng ngôn ngữ của mỗi người. Khi từ được đưa vào sử dụng, mặc dù mỗi người có thể có cách riêng, sáng tạo riêng nhưng vì giao tiếp là một hoạt động xã hội, muốn biểu lộ được chính xác ý tưởng của mình cũng như muốn người khác lĩnh hội được chính xác ý tưởng đó, mỗi người lại phải tuân thủ những yêu cầu chung. Lưu ý: Việc đầu tiên giáo viên cần cho học sinh phân biệt được việc dùng từ xét về mặt ngữ pháp (ở phương diện tham gia vào cấu tạo cụm từ và câu) với việc dùng từ xét về mặt chính tả: viết đúng chữ viết theo chuẩn mực (đúng âm, đúng thanh, đúng chữ), bởi vì trong thực tế sử dụng nói viết sai chính tả cũng là một trong những nguyên dẫn đến dùng từ sai về mặt ngữ pháp. Vì vậy, giáo viên yêu cầu học sinh nắm vững kiến thức cơ bản, đặc biệt đối với học sinh lớp tôi phụ trách thường mắc lỗi sử dụng lẫn lộn các phụ âm đầu như: ch/tr, s/x, r/d/gi hoặc sử dụng sai dấu thanh: hỏi (?) và ngã (~) (giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu và vận dụng các mẹo luật chính tả; sử dụng Từ điển để tham khảo). Bên cạnh đó, giáo viên chú ý đến việc cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về từ cũng như kĩ năng sử dụng từ qua hệ thống bài tập tùy thuộc vào những đối tượng học sinh khác nhau. a. Định hướng bài tập - Tiếp xúc và tìm hiểu từ về chính tả (Giáo viên đưa ra các dạng bài để học sinh phân biệt phụ âm và dấu thanh) +) Ghi nhớ mặt chữ của từng từ +) Luyện phát âm đúng chuẩn để vận dụng viết đúng Ví dụ * Bài tập 1: Điền vào chỗ trống ch/tr; s/x; r/d/gi trong đoạn thơ sau: ...ưa có một ông ...à với vợ, Ở bên bờ biển cả xanh xanh, ...ơ ...ác một túp lều ...anh Băm ba năm ...ọn một mình bơ vơ. ...ồng ...uyên đi quăng ...ài, thả lưới, Vợ ở nhà kéo ...ợi, ...e ...ây... (Thơ A.Puskin – do Hoàng Trung Thông dịch) 9 Đáp án: Xưa có một ông già với vợ, Ở bên bờ biển cả xanh xanh, Xơ xác một túp lều tranh Băm ba năm trọn một mình bơ vơ. Chồng chuyên đi quăng chài, thả lưới, Vợ ở nhà kéo sợi, xe dây... (Thơ A.Puskin – do Hoàng Trung Thông dịch) * Bài tập 2: Luyện phát âm đúng các từ sau: - Sắc sảo, xao xác, sâu xa, xoay xở, sặc sỡ, xác suất, sử xanh. - Trập trùng, chí chóe, trơ trẽn, chùng chình, tráo trở, trò chuyện, trau chuốt. Gợi ý phát âm - Phát âm phụ âm đầu "s": uốn cong lưỡi lên phía trên, luồng hơi đi ra bị cản chủ yếu bởi lưỡi, bật hơi ra ngoài phát ra âm "s". Còn phụ âm "x", khi phát âm không uốn cong lưỡi, luồng hơi đi ra bị cản chủ yếu bởi răng. - Phát âm phụ âm đầu là "tr": uốn cong lưỡi lên phía trên, luồng hơi đi ra bị cản chủ yếu bởi lưỡi, bật hơi ra ngoài phát ra âm "tr". Còn phụ âm "ch", khi phát âm không uốn cong lưỡi, luồng hơi đi ra bị cản chủ yếu bởi răng. * Bài tập 3: Điền dấu thanh hỏi (?), ngã (~) thích hợp vào các từ in đậm trong khổ thơ sau: Anh đi bộ đội sao trên mu Mai mai là sao sáng dân đường Em se là hoa trên đinh núi Bốn mùa thơm mai cánh hoa thơm. (Trích Núi Đôi - Vũ Cao) Đáp án: Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường Em sẽ là hoa trên đỉnh núi Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm. (Trích Núi Đôi - Vũ Cao) - Các bài tập sửa lỗi dùng từ sai ngữ pháp +) Giải nghĩa của từ để lựa chọn sử dụng, kết hợp từ đúng trong cụm từ và có nghĩa khi đặt câu. +) Thay thế từ ngữ +) Sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ (tạo cho từ ngữ nhiều nghĩa mới theo phương thức chuyển nghĩa; sáng tạo ra nét nghĩa mới ở bình diện ngữ pháp; sáng tạo nét nghĩa mới ở bình diện ngữ âm, hình thức cấu tạo từ) +) Dùng từ thích hợp với phong cách ngôn ngữ của văn bản Ví dụ * Bài tập 1: Trong các câu sau, từ (in đậm) nào dùng đúng? (1) Lớp chúng em tổ chức đi tham quan. 10 (2) Lớp chúng em tổ chức đi thăm quan. (3) Bạn ấy rất lạnh lẽo với mọi người. (4) Bạn ấy rất lạnh lùng với mọi người. Đáp án: Từ dùng đúng là từ tham quan trong câu (1), từ lạnh lùng trong câu (4) * Bài tập 2: Các câu sau đã chuyển nghĩa của từ theo phương thức nào? (1) Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ (Trích Viếng lăng Bác - Viễn Phương) (2) Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. (Trích Việt Bắc - Tố Hữu) Đáp án (1) Câu đã chuyển nghĩa của từ theo phương thức ẩn dụ: "mặt trời"(trong lăng) chỉ Bác Hồ. (2) Câu đã chuyển nghĩa của từ theo phương thức hoán dụ: "áo chàm" chỉ người dân Việt Bắc. * Bài tập 3: Chỉ ra từ dùng không đúng trong các câu sau và sửa lại cho đúng với nội dung của câu. (1) Bài thơ Đêm nay Bác không ngủ kể lại câu truyện về một đêm Bác không ngủ vì lo cho dân, cho nước. (2) Những cành hoa trở nên tưng bừng nhảy múa trong ánh nắng ban mai. (3) Đến giây phút cuối đời, anh khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên tê sông. Đáp án Những từ dùng không đúng trong các câu trên và nguyên nhân dẫn đến dùng từ sai là: (1) Từ "câu truyện": dùng từ không đúng âm thanh và hình thức cấu tạo. Sửa lại: Bài thơ Đêm nay Bác không ngủ kể lại câu chuyện về một đêm Bác không ngủ vì lo cho dân, cho nước. (2) Từ “tưng bừng nhảy múa” là không phù hợp. Dùng từ không đúng về quan hệ kết hợp ngữ nghĩa và ngữ pháp của từ cụm từ và trong câu. Sửa lại: Những cành hoa trở nên tươi đẹp trong ánh nắng ban mai. (3) Từ "tê": dùng từ không thích hợp với phong cách ngôn ngữ của văn bản Sửa lại: Đến giây phút cuối đời, anh khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. b. Sửa lỗi qua bài kiểm tra - Giáo viên ra đề kiểm tra theo các dạng có liên quan đến ba phân môn, có thể kiểm tra theo dạng đề trực tiếp hỏi về kiến thức tiếng Việt qua cách dùng từ, đặt câu của các em, cũng có thể ra đề theo dạng bài Tập làm văn để các em tự phát hiện lỗi và giáo viên chữa, chỉ ra cách khắc phục lỗi (theo định hướng phần lý thuyết đã trình bày ở mục 3.2.1.1) 11 - Phần sửa lỗi, giáo viên cho học sinh đọc và nhận diện lỗi dùng từ trong bài viết của mình và nêu nguyên nhân mà mình mắc phải những lỗi ấy. Sau đó, giáo viên nhận xét và củng cố lại cho các em. - Giáo viên chia theo nhóm để học sinh thảo luận. Mỗi nhóm do một em khá, giỏi, ít mắc lỗi dùng từ phụ trách, cùng nhau phát hiện ra lỗi trong các bài viết của bạn, bàn bạc thống nhất cách khắc phục lỗi đó. Trong quá trình thực hiện, giáo viên quan sát cá nhân học sinh, nhóm học sinh để đôn đốc hướng dẫn và biết được những bài làm sai để tổ chức cho học sinh nhận xét và sửa chữa . Đặc biệt đối với những học sinh mắc nhiều lỗi, chỉ ra từng lỗi sai và cho các em viết lại các từ đã sửa dưới bài viết. 3.2.2. Lỗi đặt câu 3.2.2.1. Về lí thuyết (một số lỗi ngữ pháp thường gặp, nguyên nhân và cách khắc phục) Câu là một tập hợp từ, ngữ kết hợp với nhau theo những quan hệ cú pháp xác định, được tạo ra trong quá trình tư duy, giao tiếp, có giá trị thông báo, gắn liền với mục đích giao tiếp nhất định. Ở bậc tổ chức câu, hiện tượng sai ngữ pháp, trước hết có thể quy thành hai loại  lỗi lớn: câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh và câu sai do vi phạm quy tắc kết hợp. Mỗi loại lỗi sai này được chia thành nhiều kiểu lỗi nhỏ, dựa vào đặc điểm, tính chất của hiện tượng sai. Lưu ý: Khi tiến hành sửa chữa câu sai ngữ pháp, một mặt chúng ta phải căn cứ vào cấu trúc có sẵn và nội dung biểu đạt của câu; mặt khác, phải đặt câu sai trong văn cảnh, nghĩa là phải xem xét câu sai trong mối quan hệ nhiều mặt với các câu xung quanh. Kết quả sửa chữa câu sai được xem là tối ưu khi câu đã sửa chữa đảm bảo các yêu cầu sau đây: Nội  dung biểu đạt của nó vừa chính xác, vừa trung thực với ý đồ biểu đạt của học sinh và chỉ nên điều chỉnh, thay đổi, thêm bớt trong trường hợp nội dung biểu đạt của câu quá vụng về hay lệch lạc, mâu thuẫn; cấu trúc câu đã sửa phải phù hợp với chuẩn mực ngữ pháp; câu đã sửa phải liên kết chặt chẽ với các câu chung quanh ở cả hai bình diện: nội dung và hình thức. * Câu sai về cấu tạo ngữ pháp - Câu thiếu thành phần nòng cốt: Chủ ngữ, vị ngữ, cả chủ ngữ và vị ngữ +) Nguyên nhân Học sinh nắm không vững kiến thức về cấu tạo của câu đơn, câu ghép. Đặc biệt là thành phần chính, thành phần phụ của câu (chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ…) dẫn đến nhầm lẫn thành phần câu cũng như nội dung mà câu biểu đạt. +) Khắc phục Ví dụ: Qua truyện ngắn “Lão Hạc” cho ta thấy số phận đầy bi kịch của người nông dân trong xã hội cũ. (Trích trong bài kiểm tra Tập làm văn của học sinh lớp 8) Trong ví dụ trên, học sinh nhầm lẫn trạng ngữ với chủ ngữ nên câu thiếu chủ ngữ. Sửa lại câu bằng hai cách: thứ nhất, bỏ từ “Qua” và viết hoa chữ cái đầu của từ 12 “truyện”; thứ hai, tách thành phần trạng ngữ bằng dấu câu (dấu phẩy) và thêm chủ ngữ cho câu: “Qua truyện ngắn “Lão Hạc”, tác giả cho ta thấy số phận đầy bi kịch của người nông dân trong xã hội cũ.” - Câu không phân định mạch lạc các thành phần câu (chập cấu trúc câu) +) Nguyên nhân Học sinh không dùng các phương tiện (từ, dấu câu) phân định các thành phần của câu dẫn đến câu bị chập về cấu trúc +) Khắc phục Ví dụ: Với bản báo cáo kết quả học tập học kì I vừa qua lớp 7A xứng đáng là tập thể lớp tiên tiến. (Trích trong bài kiểm tra Tập làm văn của học sinh lớp 7) Sửa lại: tách thành phần trạng ngữ (thành phần phụ) với thành phần nòng cốt của câu (chủ ngữ và vị ngữ) bằng dấu câu (dấu phẩy). Với bản báo cáo kết quả học tập học kì I vừa qua, lớp 7A xứng đáng là tập thể lớp tiên tiến. - Câu sai về trật tự sắp xếp các thành phần +) Nguyên nhân Học sinh không thấy được tầm quan trọng của việc sắp xếp các thành phần câu trong việc triển khai ý của câu, của đoạn. Mặc dù, ý của câu diễn đạt không dùng vào mục đích có dụng ý nghệ thuật mà đó là một loại lỗi. +) Khắc phục Ví dụ: Trong cuộc đọ sức, đánh nhau dữ dội hai con diều hâu lớn đầu đàn. (Trích trong bài kiểm tra Tập làm văn của học sinh lớp 6) Đảo lại ví trí của các thành phần trong câu: chủ ngữ và vị ngữ để câu phù hợp với mục đích nói là kể lại sự việc. Sửa lại: Trong cuộc đọ sức, hai con diều hâu lớn đầu đàn đánh nhau dữ dội. * Câu sai về quan hệ ngữ nghĩa giữa các bộ phận - Nguyên nhân Câu phản ánh sai hiện thực khách quan, không lôgíc do học sinh nắm không vững kiến thức về sự vật, sự việc, hiện tượng… - Khắc phục Ví dụ: Hồ Chủ tịch đã lãnh đạo nhân dân ta đánh đuổi giặc Mĩ giành thắng lợi, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945. (Trích trong bài kiểm tra Tập làm văn của học sinh lớp 9) Ở ví dụ trên, kiến thức về lịch sử của học sinh không vững, không nắm được mốc thời gian của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ ở Việt Nam. Sửa lại: Hồ chủ tịch đã lãnh đạo nhân dân ta đánh đuổi giặc Pháp giành thắng lợi, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945. * Quan hệ ý nghĩa giữa các bộ phận của câu không phù hợp với các phương tiện hình thức thể hiện quan hệ - Nguyên nhân Lỗi học sinh gặp phải thường xảy ra ở các câu ghép có dùng quan hệ từ nhưng không thích ứng với quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu, bộ phận câu. 13 - Khắc phục Ví dụ: Ngô Tất Tố đã tố cáo bọn thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta về thuế má nhưng ông không ngần ngại vạch mặt bọn chúng. (Trích trong bài kiểm tra Tập làm văn của học sinh lớp 8) Ở câu ghép trên, hai vế không đối lập nhau về mặt ý nghĩa nhưng học sinh lại sử dụng quan hệ từ “nhưng” để nối hai vế của câu là không hợp lý. Bởi vậy, trong trường hợp này nên dùng từ “và” chỉ quan hệ bình đẳng giữa hai vế của câu. Một vế nêu lên hành động của tác giả, một vế nêu lên lời nhận xét mang tính khẳng định của người viết. Sửa lại: Ngô Tất Tố đã tố cáo bọn thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta về thuế má và ông đã không ngần ngại vạch mặt bọn chúng. * Câu sai về dấu câu  - Nguyên nhân Trong các bài viết, học sinh thường dùng dấu chấm ngắt câu khi câu chưa hoàn chỉnh trọn vẹn; không đánh dấu ngắt câu khi đã trọn ý và chuyển sang ý khác; dùng lẫn lộn các dấu câu. - Khắc phục Ví dụ: Bạn ấy là người bạn thân học cùng trường với em bao lâu nay? (Trích trong bài kiểm tra Tập làm văn của học sinh lớp 6) Ở ví dụ trên, học sinh chưa hiểu được mục đích nói của câu mình sử dụng và công dụng của dấu chấm hỏi (?). Mục đích nói của câu này giới thiệu, thuộc kiểu câu trần thuật mà học sinh lại dùng dấu chấm hỏi kết thúc câu nghi vấn, mục đích dùng để hỏi. Sửa lại: Thay dấu chấm hỏi (?) bằng dấu chấm (.) cuối câu. Bạn ấy là người bạn thân học cùng trường với em bao lâu nay. * Câu sai về mạch lạc và liên kết câu trong văn bản - Nguyên nhân Khi tạo lập văn bản, học sinh sử dụng câu thường không thống nhất về chủ đề; quan hệ giữa các ý mâu thuẫn. - Khắc phục Ví dụ: Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam, có rất nhiều câu nói về kinh nghiệm lao động sản xuất. Họ nêu lên những cách ứng xử với nhau trong đời sống hàng ngày như câu: “Đói cho sạch, rách cho thơm”. (Trích trong bài kiểm tra Tập làm văn của học sinh lớp 7) Hai câu trong đoạn văn trên không có sự liên kết để thể hiện thống nhất một chủ đề. Vì vậy, để hoàn chỉnh đoạn diễn đạt ý tương đối trọn vẹn cần sử dụng phương tiện liên kết câu trong đoạn. Sửa lại: Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam, có rất nhiều câu nói về kinh nghiệm lao động sản xuất cũng như quan hệ ứng xử trong đời sống hằng ngày. Đó là những kinh nghiệm quý báu còn lưu truyền cho con cháu muôn đời. Nó thể hiện rõ trong các câu: “Nhất thì nhì thục”, “Tấc đất tấc vàng” “Đói cho sạch, rách cho thơm”, “Một mặt người bằng mười mặt của”… 14 3.2.2.2. Về thực hành Trong quá trình giảng dạy ở bậc học THCS, tôi tiến hành sửa lỗi đặt câu cho học sinh từ lý thuyết đến thực hành. Ngoài việc chỉ ra một số lỗi ngữ pháp trong đặt câu mà các em thường gặp, nguyên nhân và cách khắc phục (theo mục 3.3.2.1 đã dẫn ở trên), tôi kết hợp với quá trình thực hành như sau: (1) Đưa ra các dạng bài tập vận dụng (2) Làm bài kiểm tra - đánh giá (3) Học sinh tự chỉ ra lỗi sai của mình và sửa lỗi qua bài kiểm tra (4) Giáo viên sửa lại, khắc sâu kiến thức qua việc hỏi - đáp trực tiếp và chấm bài kiểm tra của học sinh. Các bước trên được tiến hành ở những tiết học liên quan đến kiến thức tiếng Việt và kết hợp ở các tiết trả bài kiểm tra theo phân phối chương trình của từng khối lớp. a. Định hướng bài tập +) Câu cần cấu tạo đúng quy tắc ngữ pháp tiếng Việt (các cụm từ, các kiểu câu) +) Câu cần đúng về nội dung ý nghĩa +) Sử dụng dấu câu hợp lý (dấu chấm, dấu phẩy, chấm than, chấm hỏi…) +) Câu cần có liên kết chặt chẽ với các câu khác trong văn bản (liên kết về nội dung và hình thức). Lưu ý: Trong quá trình học sinh làm bài, giáo viên quan sát cá nhân học sinh, nhóm học sinh để đôn đốc, hướng dẫn và biết được những bài làm sai để tổ chức cho học sinh nhận xét và sửa chữa. Qua mỗi bài tập, giáo viên tổng kết ý kiến và chốt lại nội dung kiến thức cần ghi nhớ và kĩ năng cần rèn luyện. Ví dụ * Bài tập 1: Chỉ ra lỗi ngữ pháp trong các câu sau và chữa lại cho đúng. (1) Mẹ em rất yêu thương em tuy mẹ luôn lo lắng cho em. (2) Mùi hương của hoa hồng rất quyến rũ đó là mùi hương mà em yêu thích nhất. (3) Sự bóc lột hết sức tàn bạo, dã man của bọn thực dân phong kiến. Đáp án Lỗi ngữ pháp trong các câu là: - Câu (1): Quan hệ ý nghĩa giữa các bộ phận của câu không phù hợp với các phương tiện hình thức thể hiện quan hệ. Trong câu giữa hai vế câu có quan hệ nhân quả, dùng từ "nhưng" là không hợp lý. Sửa lại: Thay từ nhưng bằng từ nên Mẹ em rất yêu thương em nên mẹ luôn lo lắng cho em. - Câu (2): Câu bị chập về cấu trúc câu, không phân định giữa các vế của câu ghép bằng từ hoặc dấu câu. Sửa lại: Dùng dấu chấm kết thúc câu, viết hoa chữ cái đầu câu thứ hai “Đó”. Mùi hương của hoa hồng rất quyến rũ. Đó là mùi hương mà em yêu thích nhất. - Câu (3) thiếu thành phần nòng cốt câu: vị ngữ Sự bóc lột hết sức tàn bạo, dã man của bọn thực dân phong kiến khiến nhân dân ta vô cùng cực khổ. 15 * Bài tập 2: Thành phần thiếu trong các câu sau đây là thành phần gì? Hãy sửa lại cho đúng (ngữ liệu lấy từ bài kiểm tra của học sinh). (1) Qua tác phẩm này, đã tố cáo xã hội phong kiến đầy bất công và tàn bạo. (2) Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, với tinh thần đoàn kết một lòng chống ngoại xâm.     Đáp án - Câu (1): Câu thiếu thành phần chủ ngữ. Sửa lại: + Thêm chủ ngữ cho câu: Qua tác phẩm này, tác giả đã tố cáo xã hội phong kiến đầy bất công và tàn bạo. + Bỏ từ Qua: Tác phẩm này đã tố cáo xã hội phong kiến đầy bất công và tàn bạo. - Câu (2): Câu thiếu thành phần nòng cốt: chủ ngữ và vị ngữ Sửa lại: Thêm chủ ngữ và vị ngữ cho câu Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, với tinh thần đoàn kết một lòng chống ngoại xâm, quân và dân ta đã giành chiến thắng vang dội trong chiến dịch Điện Biên Phủ. * Bài tập 3: Nhận xét về cách sử dụng dấu câu trong đoạn văn sau. “Thơ văn yêu nước thời kì kháng chiến có đầy đủ cung bậc cảm xúc, mỗi bài có một nét riêng, độc đáo. Trong số đó, chúng ta không thể không nhắc đến Tố Hữu một nhà thơ cách mạng nổi tiếng của nền văn học Việt Nam với tập thơ nổi tiếng Việt Bắc? Đáp án Trong đoạn văn trên, người viết đã kết thúc đoạn văn bằng dấu chấm hỏi (?) là không hợp lý. Dấu chấm hỏi (?) thường dùng để kết thúc câu nghi vấn, còn ở đoạn văn trên, câu thứ hai: Trong số đó, chúng ta không thể không nhắc đến Tố Hữu - một nhà thơ cách mạng nổi tiếng của nền văn học Việt Nam với tập thơ nổi tiếng "Việt Bắc"? là câu trần thuật và kết thúc câu phải dùng dấu chấm. b. Sửa lỗi qua bài kiểm tra - Giáo viên ra đề kiểm tra theo các dạng: đặt câu riêng biệt theo cấu tạo, theo mục đích nói hoặc có thể triển khai theo hướng đặt câu trong đoạn văn và liên kết trong văn bản. + Đặt câu theo cấu tạo: câu đơn và câu ghép + Đặt câu theo mục đích nói: câu nghi vấn, câu cảm thán, câu trần thuật... - Qua các bài kiểm tra Tiếng Việt và Tập làm văn, giáo viên giúp học sinh tự phát hiện lỗi đặt câu trong bài viết của mình và giáo viên chữa, chỉ ra cách khắc phục lỗi (theo định hướng phần lý thuyết đã trình bày ở mục 3.2.2.1). - Giáo viên trong quá trình chấm bài có thể chữa trực tiếp cho từng học sinh hoặc gạch trong bài để chỉ ra lỗi đặt câu mà các em gặp phải, đồng thời nêu cách chữa lỗi cho các em. - Giáo viên chia theo nhóm để học sinh đọc, phát hiện lỗi trong bài kiểm tra của bạn. Từ kĩ năng phát hiện lỗi để giúp các em khắc phục lỗi thường gặp khi đặt câu, liên kết câu trong đoạn để có một đoạn văn, bài văn tốt. 16 - Trong thực tế bài viết của học sinh, hiện tượng hai, ba kiểu lỗi xuất hiện cùng lúc trong câu văn là khá phổ biến. Điều này đòi hỏi sau khi trả bài kiểm tra, giáo viên nên phân loại các loại lỗi ngữ pháp còn tồn tại trong bài làm của các em, từng bước phân tích lỗi nhằm mục đích tạo cơ sở thuận lợi cho các em nhận diện lỗi. Trên cơ sở đó, vận dụng kết hợp nhiều cách sửa chữa để tổ chức lại câu sao cho thật phù hợp. Như trên, tôi đã khảo sát và chỉ ra những lỗi sai mà học sinh thường gặp khi dùng từ, đặt câu. Ngoài các nguyên nhân cụ thể như đã dẫn thì nguyên nhân cơ bản nhất có lẽ xuất phát từ chính việc hiểu biết về tiếng Việt của học sinh bậc THCS về từ, câu còn hạn chế. Cộng với đó là thói quen sử dụng tiếng Việt một cách dễ dãi, thiếu cân nhắc của các em. Chúng ta cũng có thể thấy trong bài viết này, hầu hết các ngữ liệu lấy từ các bài kiểm tra của học sinh. Có nghĩa là hiện tượng mắc lỗi dùng từ ở học sinh THCS là khá phổ biến. Điều này gợi trong chúng ta nhiều băn khoăn về ý thức giữ gìn và phát huy sự trong sáng của tiếng Việt của mọi người nói chung, đặc biệt là học sinh, đối tượng thường xuyên sử dụng tiếng Việt như một phương tiện để học tập và giao tiếp hàng ngày. Những lỗi sai tưởng chừng như vô hại nhưng nó dần để lại hậu quả khôn lường rằng học sinh không thể viết đúng một văn bản và cần thiết phải tạo cho các em những hiểu biết cơ bản về ngữ pháp tiếng Việt để sử dụng nó một cách hợp lý và đạt kết quả tốt nhất. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng những kinh nghiệm trên đây tôi đã thu được những kết quả như sau: (1) Chất lượng môn Ngữ văn nói chung, phân môn Tiếng Việt nói riêng của các lớp tôi dạy đã được nâng lên, đặc biệt là việc các em tạo lập văn bản tốt hơn, hạn chế rõ rệt lỗi ngữ pháp mà các em thường gặp thể hiện qua việc các em làm bài tập và bài kiểm tra đạt kết quả cao hơn. (2) Trong giờ học, thay vì thụ động tiếp nhận bài học, các em trở thành chủ thể của quá tình tìm hiểu và chiếm lĩnh tri thức. Các em đã có ý thức trong việc lựa chọn và sử dụng từ, câu đúng ngữ pháp. Đồng thời hứng thú hơn trong các giờ học Văn. Các em chủ động nêu lên lỗi mình thường gặp khi tạo lập văn bản và giao tiếp để cả lớp thảo luận, khắc phục nên các em đã có sự thay đổi, tiến bộ rõ rệt. Điều đó được thể hiện qua bảng thống kê sau: Khảo sát về số học sinh mắc lỗi ngữ pháp qua bài kiểm tra của các em từ lớp 6 đến lớp 9 (năm học 2015 - 2016) (thực hiện điều tra khi giáo viên vận dụng một số biện pháp khắc phục lỗi ngữ pháp kết hợp trong giảng dạy ngoài những tiết theo phân phối chương trình) TT Lớp Tổng số Số học sinh mắc lỗi Tỉ lệ (%) học sinh ngữ pháp 1 6B 35 14 40 2 7A 32 10 31.2 3 8A 39 8 20.5 4 9B 34 8 23.5 17 (3) Các em học và có cách đối xử đúng mực trong cách nhìn nhận về tiếng Việt với những nét đẹp riêng, góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 1. Kết luận Phát hiện các lỗi ngữ pháp mà hiện nay các em học sinh mắc phải, tìm hiểu nguyên nhân mắc lỗi và đưa ra các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng này là một trong những việc làm quan trọng và cần thiết trong quá trình giáo dục trong các nhà trường nói chung và đối với trường THCS nói riêng. Sửa lỗi và viết đúng là góp phần hoàn thiện trí tuệ, nhân cách, đạo đức cho các em học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường. Bởi chữ viết là một công cụ vô cùng quan trọng trong việc hình thành, phát triển văn hoá, văn minh của từng dân tộc và chữ viết chính là một trong những hình thức biểu hiện kết quả của quá trình nhận thức, tư duy của con người. Nhà thơ, nhà triết học người Đức Johann Gottfried von Herder có câu nói rất đáng suy ngẫm: “Một dân tộc còn có gì có thể quý hơn là ngôn ngữ mà ông cha để lại?”. Bởi vậy, việc giúp đỡ thế hệ trẻ - đặc biệt là học sinh ở các cấp học khắc phục lỗi trong sử dụng tiếng Việt là trách nhiệm không của riêng ai. Trước hết chính là ở bản thân những học sinh mắc lỗi và quá trình giảng dạy của các giáo viên trên bục giảng, cần kết hợp giữa các hoạt động của nhà trường, gia đình và xã hội để quá trình đó tạo hiệu quả cao nhất. Giới hạn của đề tài này, tôi chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu một số lỗi ngữ pháp mà học sinh THCS thường mắc phải mà bản thân khảo sát được qua các tiết dạy nhằm đưa ra biện pháp khắc phục lỗi chứ không nhằm đi vào các lỗi ngữ pháp nói chung mà hiện nay nhiều người sử dụng tiếng Việt đang gặp phải. 2. Đề xuất - Sở Giáo dục và đào tạo cần có một cuốn ngữ pháp tiếng Việt chuẩn và tập hợp các tài liệu có liên quan về cách khắc phục lỗi ngữ pháp mà học sinh thường gặp để hỗ trợ giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học góp phần vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. - Phòng Giáo dục thường xuyên mở các hội thảo trao đổi về chuyên môn để giáo viên có điều kiện lắng nghe, học hỏi về các kinh nghiệm của đồng nghiệp trong việc giảng dạy ngôn ngữ dân tộc cho học sinh. - Nhà trường nên tổ chức các cuộc thi trong các dịp lễ cho học sinh tìm hiểu thêm về tiếng Việt. - Đội ngũ giáo viên - những người trực tiếp giảng dạy các em cần quan tâm đến việc giúp các em nắm vững kiến thức về tiếng Việt qua các giờ học, không chỉ giới hạn ở bộ môn Ngữ văn mà ở tất cả các môn học. Có thể có nhiều biện pháp để khắc phục lỗi ngữ pháp tiếng Việt mà học sinh đang gặp phải trong quá trình học tập và sử dụng trong giao tiếp, trên đây chỉ là 18 một giải pháp mà bản thân tôi thấy có nhiều thuận lợi trong việc áp dụng giảng dạy trong nhà trường, tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp để nhằm học hỏi và nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Vì vậy, kính mong các cấp chỉ đạo và đồng nghiệp vui lòng đóng góp ý kiến để kinh nghiệm được hoàn thiện hơn./. Thọ Xuân, ngày 30 tháng 03 năm 2016 XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG NHÀ TRƯỜNG Tác giả Nguyễn Thị Thuyên 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Diệp Quan Ban (1992), “Bàn góp về quan hệ chủ - vị và quan hệ đề thuyết”, Ngôn ngữ (9). 2. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 3. Halliday MAK (2001), Dẫn luận ngữ pháp chức năng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 4. Hoàng Phê (chủ biên) (1999) Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng. 5. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng Tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh. 6. Cao Xuân Hạo (chủ biên) (1999), Câu trong tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 7. Nguyễn Văn Hiệp (2008), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, NXB Giáo dục, Hà Nội. 8. Trần Kim Phượng (2010), Các phương pháp phân tích ngữ pháp (trên ngữ liệu tiếng Việt), Đề tài khoa học cấp Bộ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan