BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ CẨM HƯỜNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
Học viên
: Nguyễn Thị Cẩm Hường
Lớp
: Cao học Luật, An Giang khóa 2
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Thị Cẩm Hường, học viên lớp Cao học Luật An Giang –
Khóa 2, chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự định hướng ứng dụng,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh – Tác giả của luận văn với đề tài:
“Các trường hợp hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại của hội đồng xét xử phúc
thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam”.
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học Ts. Lê Huỳnh Tấn Duy. Trong luận văn
có sử dụng trích dẫn một số ý kiến, quan điểm của một số nhà nghiên cứu khoa học
pháp lý. Các ví dụ, bản án trích dẫn trong khóa luận đảm bảo chính xác, tin cậy,
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi
xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan này.
Tp, Hồ Chí Minh, ngày
tháng
Người thực hiện
Nguyễn Thị Cẩm Hường
năm 2022
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BAPT
: Bản án phúc thẩm
BAST
: Bản án sơ thẩm
BLDS
: Bộ luật Dân sự
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTDS
: Bộ luật Tố tụng dân sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
HĐXX
: Hội đồng xét xử
HĐXXPT
: Hội đồng xét xử phúc thẩm
HĐXXST
: Hội đồng xét xử sơ thẩm
KSV
: Kiểm sát viên
LTTHC
: Luật Tố tụng hành chính
TAND
: Tòa án nhân dân
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TRƯỜNG HỢP HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM HỦY BẢN
ÁN SƠ THẨM ĐỂ XÉT XỬ LẠI DO CÓ VI PHẠM NGHIÊM TRỌNG THỦ
TỤC TỐ TỤNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM ..............................7
1.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về trường hợp Hội đồng xét xử phúc
thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ...............................................................7
1.2. Thực tiễn Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại
do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
..............................................................................................................................13
1.3. Kiến nghị hướng dẫn áp dụng quy định của luật tố tụng hình sự về
trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại do
có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng .........................................................21
Kết luận Chương 1 ..................................................................................................24
CHƯƠNG 2. TRƯỜNG HỢP HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM HỦY BẢN
ÁN SƠ THẨM ĐỂ XÉT XỬ LẠI DO CÓ SAI LẦM NGHIÊM TRỌNG
TRONG VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NHƯNG KHÔNG THUỘC TRƯỜNG
HỢP SỬA BẢN ÁN .................................................................................................25
2.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về trường hợp Hội đồng xét xử phúc
thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại do có sai lầm nghiêm trọng trong việc
áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp sửa bản án ....................25
2.2. Thực tiễn Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại
do có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc
trường hợp sửa bản án .......................................................................................30
2.3. Kiến nghị hướng dẫn áp dụng quy định của luật tố tụng hình sự về
trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại do
có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc
trường hợp sửa bản án .......................................................................................38
Kết luận Chương 2 ..................................................................................................41
KẾT LUẬN ..............................................................................................................42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhằm đảm bảo nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm1, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, thống nhất với cách xử lý
trong BLTTDS và LTTHC. BLTTHS 2015 đã bổ sung thẩm quyền hủy BAST của
HĐXXPT, khắc phục vướng mắc trong trường hợp HĐXXPT không có đầy đủ
thẩm quyền trong việc hủy, sửa BAST nên phải kiến nghị Tòa án cấp trên kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, làm kéo dài vụ án không cần thiết. Trong đó nhà
làm luật đã bổ sung 02 trường hợp HĐXXPT có quyền huỷ BAST để điều tra lại, đó
là: (1) Khi có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để
khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm; (2) Có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố.
Ngoài ra, nhà làm luật còn bổ sung 02 trường hợp HĐXXPT hủy BAST để xét
xử lại, đó là: (1) Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư
pháp đối với bị cáo không có căn cứ; (2) Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng
trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc
thẩm sửa bản án. Đồng thời, tách điểm a khoản 2 Điều 250 BLTTHS 2003 thành 02
điểm riêng biệt là điểm a, điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS 2015. Trong đó, điểm b
khoản 2 Điều 358 nêu cụ thể “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm”, việc vi phạm thủ tục tố tụng này phải trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
không còn nêu chung chung vi phạm thủ tục tố tụng như BLTTHS 2003 quy định.
Như vậy, theo Điều 358 BLTTHS 2015 thì 03 căn cứ để HĐXXPT hủy
BAST để điều tra lại và 05 căn cứ để hủy BAST để xét xử lại, mở rộng căn cứ và
trường hợp được huỷ BAST hơn so với quy định của BLTTHS 2003. Nhưng cho
đến thời điểm hiện nay ngoài việc quy định tại BLTTHS 2015 thì quy định về xét
xử phúc thẩm nói chung và về huỷ BAST để xét xử lại nói riêng vẫn chưa có văn
bản hướng dẫn cụ thể.
Đề cập về văn bản hướng dẫn thì có Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày
08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn về thủ
tục xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên hiện nay đây là nghị quyết hướng dẫn cho
BLTTHS 2003, nay BLTTHS 2003 đã hết hiệu lực và kéo theo sự hết hiệu lực của
1
Khoản 1 Điều 6 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
2
Nghị quyết số 05 do theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 thì văn
bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi
tiết thi hành các điều, khoản, điểm được giao quy định chi tiết thi hành văn bản đó
đồng thời hết hiệu lực.
Trên thực tế áp dụng pháp luật, tuy không có văn bản quy định chính thức
nhưng tồn tại việc áp dụng tinh thần của các văn bản pháp luật hết hiệu lực. Nhưng dù
trong quá trình giải quyết, nếu Tòa án áp dụng tinh thần của Nghị quyết số
05/2005/NQ-HĐTP, thì Nghị quyết này cũng không đáp ứng đầy đủ được yêu cầu do
nghị quyết này vẫn chưa hướng dẫn đầy đủ và chi tiết đối với các căn cứ được quy định
tại BLTTHS 2015, nhất là đối với các căn cứ mới được bổ sung tại BLTTHS 2015.
Như căn cứ hủy BAST để xét xử lại “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
trong giai đoạn xét xử” được hiểu và áp dụng như thế nào? Ngoài điểm o khoản 1
Điều 4 BLTTHS 2015, giải thích chung về khái niệm vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng thì vẫn chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết nào quy định về vi phạm nghiêm
trọng trong giai đoạn xét xử, gây khó khăn trong việc áp dụng thống nhất pháp luật.
Về vấn đề này, Tòa án khó có thể vận dụng những hướng dẫn về vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng tại thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTCBCA-BQP ngày 22/12/2017 về trả hồ sơ điều tra bổ sung để áp dụng, bởi đây là
thông tư hướng dẫn về việc trả hồ sơ điều tra bổ sung và những vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng tại Thông tư này là trong giai đoạn điều tra, truy tố.
Ngoài ra, việc HĐXXPT áp dụng căn cứ được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều
358 BLTTHS “Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật
nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án” huỷ BAST để
xét xử lại trong thực tiễn hiện nay khá nhiều. Tuy nhiên, sai lầm trong việc áp dụng
pháp luật như thế nào được xác định nghiêm trọng và cần thiết hủy BAST là một vấn
đề chưa được làm rõ. Đáng chú ý có những vụ án có nhiều bị cáo đồng phạm, trong khi
BAST chỉ áp dụng pháp luật sai đối với 01 bị cáo, đặc biệt có những bị cáo không có
kháng cáo, kháng nghị mà Hội đồng phúc thẩm lại huỷ toàn bộ BAST. Với cách vận
dụng như trên làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bị cáo còn lại, kéo dài vụ án không
cần thiết, đặc biệt là trong trường hợp các bị cáo đã thi hành án.
Có thể thấy BLTTHS 2015 sửa đổi, bổ sung các căn cứ huỷ BAST nhằm mở
rộng thẩm quyền cho HĐXXPT, tuy nhiên việc huỷ BAST không chỉ ảnh hưởng
đến quyền lợi của người tham gia tố tụng mà còn ảnh hưởng đến chất lượng xét xử,
3
chỉ tiêu thi đua, tiêu chi bổ nhiệm lại của thẩm phán, hơn hết là ảnh hưởng đến lòng
tin của người dân vào chất lượng xét xử của Toà án. Vì vậy cần có sự nghiên cứu
toàn diện và sâu sắc cũng như cần ban hành văn bản hướng dẫn để áp dụng pháp
luật thống nhất để tránh việc áp dụng tuỳ tiện không thống nhất, làm cho vụ án kéo
dài, hao tổn thời gian, nhân lực và đặc biệt là đối với những vụ án bị cáo bị tạm
giam, ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo. Vì những lý do trên, tác giả đã chọn đề
tài “Các trường hợp huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại của Hội đồng phúc thẩm theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài luận văn, qua khảo sát tác giả nhận thấy đã có những
công trình nghiên cứu có liên quan, nổi bật bao gồm:
Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Thực trạng hoạt động xét xử phúc
thẩm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử phúc thẩm của
các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao” (2006) của Tòa án nhân dân tối cao.
- Về sách chuyên khảo, giáo trình:
Lê Huỳnh Tấn Duy (2021), Thẩm quyền của HĐXXPT đối với bản án hình sự
sơ thẩm: Phân tích quy định của pháp luật và bình luận bản án, quyết định, NXB Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung chính của quyển sách là sự phân
tích, so sánh và đánh giá toàn diện, chi tiết những quy định của BLTTHS 2015 và các
văn bản hướng dẫn thi hành về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với
bản án sơ thẩm. Đặc biệt, đối với từng thẩm quyền, tác giả minh chứng, giải thích và
bình luận bằng các bản án, quyết định cụ thể do các Tòa án nhân cấp cao và Tòa án
nhân dân cấp tỉnh tại một số địa phương ban hành bao gồm: Hà Nội, Tp. Hồ Chí
Minh, Kon Tum, Đắk Lắk, Phú Yên, Tiền Giang, Vĩnh Long, An Giang, Bạc Liêu.
Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật tố tụng
hình sự hình sự Việt Nam (Tái bản có sửa đổi, bổ sung), NXB Hồng Đức. Trong
mục 4.3.1, Chương IX của Giáo trình có trình bày về quyền sửa bản án sơ thẩm để
xét xử lại của Tòa án cấp phúc thẩm. Tác giả của chương này chỉ dừng lại ở việc
trình bày và phân tích cơ bản quy định tại khoản 2 Điều 358 BLTTHS 2015.
- Về bài viết khoa học trên các tạp chí:
Đinh Văn Quế (2004),“Những trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy BAST”
Tạp chí Tòa án số 17; Phạm Thanh Hải (2007),“Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy
BAST, đình chỉ giải quyết vụ án”, Tạp chí Tòa án số 4; Vũ Gia Lâm (2012),“Về
4
quyền hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại của Tòa án cấp
phúc thẩm”, Tạp chí Luật học số 11; Đinh Văn Quế (2013),“Tòa án cấp phúc thẩm
hủy BAST để xét xử lại theo hướng có tội – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp
chí Tòa án số 8; Bài viết “Xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm vụ án hình sự” của
TS Hoàng Anh Tuyên trong sách chuyên khảo Những nội dung mới trong BLTTHS
năm 2015, NXB Chính trị Quốc Gia.
- Về luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:
Luận án tiến sĩ: “Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân ở Việt Nam hiện nay” (2003) của tác giả Lê Xuân Thân; Luận án “Phúc thẩm
trong tố tụng hình sự” (2004) của tác giả Nguyễn Đức Mai;
Luận văn thạc sĩ: Huỳnh Lập Thành (2001), Giai đoạn xét xử phúc thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn; Bùi Ngọc Hòa
(2007), Phạm vi xét xử phúc thẩm và thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; Nguyễn Tiến Pháp (2010), Quyền hạn của Tòa
án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh; Lê Công Thành (2017), Hủy bản án trong tố tụng hình sự Việt Nam, Trường
Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Đa số các công trình nghiên cứu nêu trên chưa đề cập và phân tích sâu về lý
luận và thực tiễn đối với các trường hợp hủy BAST để xét xử lại theo quy định tại
khoản 2 Điều 358 BLTTHS 2015 mà chỉ đề cập đến các vấn đề khác của việc xét xử
phúc thẩm theo quy định tố tụng hình sự như thẩm quyền kháng nghị, thẩm quyền
sửa BAST… Luận văn này là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn
diện, có hệ thống theo định hướng ứng dụng về một số vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật và thực tiễn áp hủy BAST để xét xử lại. Do vậy, đề tài luận văn mà tác giả
chọn nghiên cứu đảm bảo tính mới trong nghiên cứu khoa học pháp lý.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của luận văn nhằm tìm đưa ra giải pháp hướng
dẫn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về một số trường hợp HĐXXPT
hủy BAST để xét xử lại và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thời gian tới ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể sau:
5
- Phân tích và đánh giá quy định pháp luật tố tụng hình sự về một số trường
hợp HĐXXPT hủy BAST để xét xử lại;
- Trình bày và đánh giá thực tiễn một số trường hợp huỷ BAST của
HĐXXPT hủy BAST để xét xử lại; tìm ra những hạn chế và xác định nguyên nhân;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về một số trường hợp HĐXXPT hủy BAST để xét xử lại.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, chủ
yếu là quy định của BLTTHS 2015 về một số trường hợp HĐXXPT hủy BAST để
xét xử lại và thực tiễn thực hiện. Luận văn tập trung vào hai trường hợp: (1) Hủy
BAST để xét xử lại do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm và (2) Hủy BAST để xét xử lại do có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp
dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp sửa bản án.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2015 tập
trung vào hai trường hợp HĐXXPT hủy BAST để xét xử lại như đã xác định trong
phần đối tượng nghiên cứu. Những trường hợp khác không thuộc phạm vi nghiên
cứu của luận văn này. Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân,
không nghiên cứu thực tiễn xét xử của Tòa án quân sự.
Về không gian và thời gian: Luận văn khảo sát thực tiễn của hai trường hợp
HĐXXPT hủy BAST để xét xử lại trên phạm vi cả nước từ năm 2018 đến khi hoàn
thành luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện đựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với quan điểm của Đảng
về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đã xác định, tác giả sử dụng các
phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng để làm rõ các quy định của
pháp luật có liên quan, rút ra những kết luận cần thiết làm cơ sở cho việc đề xuất
các giải pháp, được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ luận văn.
6
- Phương pháp thống kê: Được sử dụng trong việc phân tích thực tiễn áp
dụng pháp luật, tại địa bàn công tác và các địa bàn khác trong nước.
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để so sánh quy định về hủy BAST để
xét xử lại giữa BLTTHS 2015 và BLTTHS 2003; giữa hướng dẫn tại Nghị quyết số
05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/5/2005 và quy định của Thông tư liên tịch số
02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017.
- Phương pháp nghiên cứu tình huống: Được sử dụng để phân tích, đánh giá
các bản án hình sự phúc thẩm thực tế có liên quan đến các trường hợp hủy BAST để
xét xử lại thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú thêm kiến thức về
pháp luật thực định và thực tiễn đối với các căn cứ huỷ BAST để xét xử lại. Kết quả
nghiên cứu còn có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ việc giảng dạy, đào tạo
luật học. Luận văn là một nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho những Thẩm phán,
Thư ký trực tiếp thực hiện việc xét xử; thay đổi nhận thức, hành động của họ, qua
đó nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận văn được kết cấu như sau:
Chương 1. Trường hợp HĐXXPT hủy BAST để xét xử lại do có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Chương 2. Trường hợp HĐXXPT hủy BAST để xét xử lại do có sai lầm
nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp sửa bản án
7
CHƯƠNG 1
TRƯỜNG HỢP HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM HỦY BẢN ÁN
SƠ THẨM ĐỂ XÉT XỬ LẠI DO CÓ VI PHẠM NGHIÊM TRỌNG
THỦ TỤC TỐ TỤNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
1.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về trường hợp Hội đồng xét xử
phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại do có vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Trong việc thực hiện xét xử, không phải lúc nào những BAST cũng hoàn
toàn chính xác. Trên thực tế, không ít bản án có những sai sót, gây oan sai, ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Do đó,
các quy định về hủy bản án của Tòa án là một trong những biện pháp quan trọng,
góp phần khắc phục những sai phạm của cấp sơ thẩm và nhằm đảm bảo tính đúng
đắn trong thực tiễn áp dụng pháp luật, phù hợp với định hướng cải cách tư pháp ở
nước ta và xu thế phát triển chung của thời đại trong giai đoạn hiện nay.
Trường hợp hủy BAST do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là trường
hợp được kế thừa từ BLTTHS 2003 và được tách riêng thành một điểm độc lập của
khoản 2 Điều 358 BLTTHS 2015, không đi cùng với trường hợp xét xử không đúng
thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm như trước đây.2
* Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
Điểm c khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS 2015 đều quy định “vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” là căn cứ để HĐXXPT hủy BAST. Tuy nhiên
điểm c khoản 1 Điều 358 BLTTHS 2015 là vi phạm thủ tục tố tụng trong giai đoạn
điều tra, truy tố; điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS 2015 là vi phạm nghiêm trọng
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Hậu quả của việc hủy BAST theo 02 căn cứ này
cũng khác nhau, một là hủy BAST để điều tra lại, một là hủy BAST để xét xử lại.
Khi HĐXXPT áp dụng điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS 2015 để hủy BAST xét
xử lại thì phải nêu rõ vi phạm tố tụng của cấp sơ thẩm và vi phạm này xâm phạm
đến quyền, lợi hợp pháp của người tham gia tố tụng như thế nào hoặc làm ảnh
hưởng đến việc xác định sự thật vụ án ra sao.
Vấn đề mấu chốt trong quy định tại điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS 2015
là khái niệm và những dạng vi phạm được xem là “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng” làm căn cứ để HĐXXPT hủy BAST xét xử lại.
2
Điểm a khoản 2 Điều 250 BLTTHS 2003.
8
BLTTHS 2003 chưa đưa ra khái niệm cụ thể về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng. Tuy nhiên tại mục 4.4 Phần I Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
trong Phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS năm 2003 có giải thích: “Vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng là trường hợp BLTTHS quy định bắt buộc phải tiến hành
hoặc tiến hành thủ tục đó, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng bỏ
qua hoặc thực hiện không đúng, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị
cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan đến vụ án hoặc làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện.”3
Về mặt ngôn ngữ, theo từ điển Tiếng Việt, xâm phạm là “động chạm đến
quyền lợi của người khác”4; nghiêm trọng là “ở trong tính trạng xấu, gay go đến
mức trầm trọng, có nguy cơ dẫn đến những hậu quả hết sức tai hại”5. Có thể hiểu,
xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng là từ
hành vi vi phạm thủ tục tố tụng đó đã làm mất hoặc hạn chế quyền và lợi ích hợp
pháp của người tham gia tố tụng (quyền và lợi ích do luật quy định) mà đáng ra họ
phải được hưởng trọn vẹn; đồng thời trong một số trường hợp còn gây thiệt hại cho
người tham gia tố tụng.
Đến BLTTHS 2015 thì khái niệm về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
được giải thích cụ thể tại điểm o khoản 1 Điều 4. Theo đó, “Vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng,
không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và đã xâm hại nghiêm
trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng
đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.”
Có thể nhận thấy nhà làm luật đã chuyển hoá khái niệm vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng tại Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP vào BLTTHS 2015, tuy
nhiên có một số thay đổi như:
- Về đối tượng bị ảnh hưởng quyền, lợi ích hợp pháp không còn liệt kê “bị
can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan” mà gọi chung là người tham gia tố tụng. Tương ứng, BLTTHS
2015 có sửa đổi, bổ sung đối với quy định về người tham gia tố tụng, cụ thể tại
3
Tiểu mục 4.4, phần I.
http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/X%C3%A2m_ph%E1%BA%A1m, truy cập ngày 03/3/2021.
5
http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Nghi%C3%AAm_tr%E1%BB%8Dng, truy cập ngày 03/3/2021.
4
9
điểm c khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015 “cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia hoạt
động tố tụng”; Điều 55 quy định về “người tham gia tố tụng” gồm có 20 khoản
tương ứng với những tư cách người tham gia tố tụng cụ thể. Như vậy, BLTTHS
2015 đã mở rộng hơn phạm vi đối tượng bị tác động bởi việc vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng so với Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP;
- Thay đổi cụm từ “việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện” thành
“việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án” phù hợp với chủ trương
chính sách của nhà nước, Nghị quyết của Đảng. Đặt việc xác định sự thật khách quan,
toàn diện của vụ án là trọng tâm của ngành tư pháp nói chung và Tòa án nói riêng.
- Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thay đổi là “cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” phù hợp với những quy định khác
của BLTTHS 2015.6
- Việc vi phạm thủ tục tố tụng diễn ra trong quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử. Đây là một chuỗi quá trình từ khi bắt đầu một vụ án cho đến khi kết thúc
vụ án với sự tác động của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bằng
các hoạt động tố tụng theo quy định, từng bước giải quyết vụ án.
- Và không chỉ là “bỏ qua, thực hiện không đúng” thủ tục tố tụng mà bao
gồm cả việc “thực hiện không đầy đủ” thủ tục tố tụng cũng được xác định là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Theo quan điểm của tác giả, khi luật hoá quy định Nghị quyết 04/2004/NQHĐTP, BLTTHS 2015 đã đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh đồng thời phù hợp với
những sửa đổi khác của Bộ luật này.
Từ khái niệm trên phân tích cho thấy vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng có
những đặc điểm sau:
+ Phải có hành vi không thực hiện những quy định bắt buộc trong BLTTHS;
+ Thực hiện không đúng, không đầy đủ theo trình tự, thủ tục quy định;
+ Xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia
tố tụng hoặc ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.
Tuy nhiên, căn cứ vào đâu để xác định vi phạm thủ tục tố tụng đó nghiêm
trọng đến mức cần phải hủy bản án để xét xử lại hay là tuy có vi phạm thủ tục tố
tụng nhưng chưa nghiêm trọng chỉ cần sửa BAST hoặc giữ nguyên bản án và cấp sơ
BLTTHS 2015 bổ sung “cơ quan, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra” – điểm a,
điểm b khoản 1 Điều 4; Điều 35 BLTTHS 2015.
6
10
thẩm cần rút kinh nghiệm. Việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không
đầy đủ theo BLTTHS thì dễ dàng nhận ra bởi chỉ cần đối chiếu với quy định của
BLTTHS đối với từng thủ tục tố tụng. Nhưng việc xác định mức độ xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng như thế nào thì được xem là
nghiêm trọng thì chưa có mức định lượng cụ thể.
Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày
22/12/2017 (gọi tắt là Thông tư liên tịch số 02/2017) quy định việc phối hợp giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về việc
trả hồ sơ điều tra bổ sung có đề cập đến vấn đề vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng. Thông tư này không đưa ra khái niệm mà chỉ liệt kê một loạt những vi phạm
được xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng cụ thể trong giai đoạn điều tra,
truy tố và là căn cứ để xem xét trả hồ sơ điều tra bổ sung. Tuy nhiên, Thông tư có
giải thích“xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố
tụng là làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham
gia tố tụng, có thể gây ra cho họ thiệt hại về vật chất, tinh thần.”7
Mặc dù vậy, Thông tư không đưa ra mức định lượng cho việc ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng để đánh giá “nghiêm trọng”. Ngoài ra, có thể
thấy có những trường hợp Thông tư xác định là có vi phạm thủ tục tố tụng nhưng
cho rằng việc vi phạm này không xâm phạm quyền lợi hoặc không thể khắc phục thì
không trả hồ sơ điều tra bổ sung8.
Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng đã được đề cập đến trong nội dung Dự
thảo 1 năm 2020 Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLTTHS,
BLTTDS và LTTHC về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân Tối cao liên quan đến căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm. Theo đó, “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử
dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc quyết định về tội danh không đúng, hình
phạt không đúng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội; hạn chế hoặc tước một số
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bị hại, đương sự; xử lý vật chứng,
trách nhiệm dân sự, án phí, lệ phí không đúng quy định khi thuộc một trong các
trường hợp sau đây:…
Trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như hướng dẫn tại điểm
a đến điểm y khoản này nhưng không làm thay đổi bản chất vụ án, nếu hủy bản án,
7
8
Khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 02/2017.
Khoản 2 Điều 5, khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2017.
11
quyết định để điều tra, xét xử lại cũng không thể khắc phục được thì không kháng
nghị giám đốc thẩm.” 9
Theo Dự thảo này thì vi phạm nghiêm trọng thủ tục phải dẫn đến việc sai lầm
nghiêm trọng trong việc định tội danh, hình phạt hoặc hạn chế, tước quyền và lợi
ích hợp pháp… nhưng nếu không làm thay đổi bản chất vụ án hoặc không thể khắc
phục được thì không là căn cứ để kháng nghị.
Kết hợp các phân tích trên có thể hiểu theo quy định của BLTTHS 2015 thì
việc vi phạm thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm chỉ đạt đến mức nghiêm
trọng và trở thành căn cứ để hủy BAST khi vi phạm đó xâm phạm nghiêm trọng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến
việc xác định sự thật của vụ án. Một trong những hệ quả của việc vi phạm thủ tục tố
tụng nghiêm trọng là dẫn đến xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người tham gia tố tụng (vật chất, tinh thần). Và việc xâm phạm quyền lợi
của người tham gia tố tụng cũng là một trong những căn cứ để đánh giá mức độ
nghiêm trọng của vi phạm thủ tục tố tụng.
Theo như quy định của BLTTHS năm 2015 thì có rất nhiều dạng vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại giai đoạn
xét xử sơ thẩm có một số dạng vi phạm cơ bản và phổ biến như: Vi phạm về thẩm
quyền giải quyết; vi phạm về xác định tư cách người tham gia tố tụng; Xét xử vắng
mặt người tham gia tố tụng không đúng quy định pháp luật; Không thực hiện đúng
các quy định của BLTTHS tại phiên tòa; Vi phạm về hình thức hoặc nội dung quy
định đối với bản án, biên bản nghị án, biên bản phiên tòa; Việc tống đạt văn bản thủ
tục không đảm bảo đúng thủ tục;…
* Giai đoạn xét xử sơ thẩm
Một vấn đề khác không kém phần quan trọng trong quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 358 BLTTHS 2015 là những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
phải diễn ra trong “giai đoạn xét xử sơ thẩm” thì đó mới là căn cứ để HĐXXPT hủy
BAST xét xử lại.
Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước nối tiếp nhau của quá trình tố tụng
hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của
từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ
Khoản 2 Điều 5 Dự thảo Nghị quyết; https://vbpq.toaan.gov.vn/webcenter/portal/htvb/chi-tiet-vbdt?
dDocName=TAND136778, truy cập ngày 20/3/2021.
9
12
thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình
sự một cách khách quan và toàn diện. Về khái niệm giai đoạn tố tụng hình sự cho
đến nay, các BLTTHS đều chưa ghi nhận khái niệm cho thuật ngữ pháp lý này. Và
việc sử dụng thuật ngữ này vẫn chưa thống nhất trong BLTTHS, như khi nói về
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì điểm o khoản 1 Điều 4 dùng từ “quá trình” hay
phân chia là “Phần thứ hai - Khởi tố, điều tra vụ án hình sự”, “Phần thứ tư - Xét xử
vụ án hình sự”, “Chương XXI - Xét xử sơ thẩm”… Nhưng khi đề cập đến vi phạm
thủ tục tố tụng thì lại phân chia theo giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Nếu tính giai đoạn xét xử sơ thẩm là theo Chương XXI - Xét xử sơ thẩm của
BLTTHS 2015 thì giai đoạn xét xử sơ thẩm gồm có những nội dung bao gồm thẩm
quyền xét xử của Toà án; chuẩn bị xét xử; thủ tục tại phiên toà. Về thời điểm thì có
thể tính từ khi Toà án cấp sơ thẩm nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án
cho đến khi tuyên án là kết thúc giai đoạn xét xử sơ thẩm. Vậy Chương XX –
Những quy định chung có được xem là giai đoạn xét xử sơ thẩm hay không? Theo
quan điểm của tác giả, giai đoạn xét xử sơ thẩm là bắt đầu từ khi Toà án cấp sơ
thẩm nhận hồ sơ vụ án và cáo trạng và thụ lý vụ án cho đến khi Toà án sơ thẩm ban
hành bản án, quyết định sơ thẩm. Tuy nhiên điều này không đồng nghĩa với việc
loại trừ các quy định chung tại Chương XX quy định chung về xét xử. Phải hiểu
thống nhất, đối với những phần quy định chung của Bộ luật sẽ được áp dụng nếu
phần riêng không quy định. Do đó, những vấn đề chưa được quy định tại Chương
XXI - Xét xử sơ thẩm sẽ được những quy định chung điều chỉnh.
Như đã đề cập, việc xác định thời điểm vi phạm thủ tục tố tụng dẫn đến hậu quả
pháp lý khác nhau. Nếu vi phạm ở giai đoạn điều tra, truy tố thì hủy án để điều tra lại,
còn vi phạm ở giai đoạn xét xử sơ thẩm thì là hủy án để xét xử lại. Đồng thời việc xác
định giai đoạn xét xử sơ thẩm bắt đầu và kết thúc vào thời điểm nào sẽ giúp xác định
được những hoạt động tố tụng nào phải thực hiện và BLTTHS 2015 quy định tiến hành
những hoạt động tố tụng đó theo trình tự, thủ tục như thế nào. Tuy chưa có khái niệm
về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nhưng từ khái
niệm về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng có thể đưa ra khái niệm như sau: “Vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là việc cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và
đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc
làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.”
13
1.2. Thực tiễn Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử
lại do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Theo Thông báo rút kinh nghiệm án hình sự hủy để điều tra, xét xử và Tòa án
tuyên bị cáo không phạm tội tại các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam năm 2020 số
29/Tb-VC3 ngày 09/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Tp. Hồ Chí
Minh, từ ngày 01/12/2019 đến ngày 31/10/2020, Tòa án nhân dân cấp cao tại Tp. Hồ
Chí Minh đã tuyên hủy, sửa 299 BAST, phúc thẩm với 539 bị cáo để điều tra, xét xử
lại, trong đó, hủy, sửa án theo trình tự phúc thẩm là 245 vụ án với 420 bị cáo. Vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là một trong những
lý do dẫn đến việc hủy án để xét xử lại được minh chứng qua các vụ án cụ thể sau:
* Trường hợp HĐXXPT hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại do vi phạm nguyên
tắc xét xử liên tục:
Vụ án thứ 01: Bản án số 287/HS-PT ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Đà Nẵng
Tóm tắt nội dung vụ án:
Từ cuối năm 2014 đến đầu tháng 06 năm 2015, Lê Thị T giới thiệu mình là
người đại diện cho Công ty sản xuất Game và nhận tiền của nhiều người đầu tư vào
Công ty. Thời gian đầu, Lê Thị T thực hiện việc chuyển trả lại tiền đầu tư gốc, lãi,
hoa hồng bảo trợ cho người đầu tư rất đều đặn và đúng như cam kết của mình. Tuy
nhiên, từ đầu tháng 06 năm 2015 thì hệ thống không hoạt động để trả tiền theo cam
kết nữa. Do đó, những người đã nộp tiền đầu tư cho Lê Thị T đã làm đơn tố cáo gửi
đến Cơ quan Công an đề nghị xử lý. Số tiền T chiếm đoạt của bị hại với tổng số tiền
là 5.397.102.284 đồng.
Quyết định trong BAST
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2018/HS-ST ngày 05/06/2018 của Tòa án
nhân dân tỉnh Kon Tum đã quyết định: Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 139; điểm
g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Xử phạt: Bị cáo Lê Thị T 16 (mười sáu) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (28/10/2015).
Kháng cáo và phiên tòa phúc thẩm
Ngày 10/6/2018, bị cáo Lê Thị T kháng cáo kêu oan; Một số bị hại kháng cáo
yêu cầu về số tiền buộc T trả.
14
Ngày 27/6/2018, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có
Quyết định kháng nghị số 29/QĐ-VKS-VC2: Đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2018/HS-ST ngày 05/6/2018
của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum để xét xử lại với Hội đồng xét xử mới theo đúng
quy định của pháp luật.
Nhận định của HĐXXPT
[2] Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2018/HS-ST ngày 05/6/2018 của Tòa
án nhân dân tỉnh Kon Tum đã thể hiện: Từ ngày 28/5/2018 đến ngày 05/6/ 2018 tại
trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đã tiến hành xét xử vụ án hình sự sơ thẩm đối
với bị cáo Lê Thị T với Hội đồng xét xử sơ thẩm trong đó có Hội thẩm nhân dân là
ông Lâm Duy Nh1. Vụ án được xét xử từ ngày 28/5/2018 đến ngày 05/6/ 2018, Hội
đồng xét xử không quyết định tạm ngừng phiên tòa, nhưng vào ngày 04/6/2018 thì
ông Lâm Duy Nh1 là Hội thẩm nhân dân đang tham gia xét xử vụ án trên lại tham
gia xét xử một vụ án khác (vụ án Lê Thị H16 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản”) và đã tuyên án vào ngày 04/6/2018 (Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2018/HSST ngày 04/6/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum).
Khoản 2 Điều 250 BLTTHS năm 2015 quy định: “Việc xét xử được tiến
hành liên tục, trừ thời gian nghỉ và thời gian tạm ngừng phiên tòa” như vậy, Việc
một Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử hai vụ án trong cùng một thời gian là vi
phạm quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa nên Kháng nghị số 29/QĐVKS-VC2 ngày 27/6/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hủy Bản án hình sự sơ thẩm số
13/2018/HS-ST ngày 05/6/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum để xét xử lại
với Hội đồng xét xử mới theo đúng quy định của pháp luật là có căn cứ nên
HĐXXPT chấp nhận.
Quyết định của HĐXXPT
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355, điểm b khoản 2 và khoản 4 Điều 358 của
BLTTHS năm 2015.
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 29/QĐ-VKS-VC2 ngày 27/6/2018
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
2. Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2018/HS-ST ngày 05/6/2018 của Tòa
án nhân dân tỉnh Kon Tum. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum
xét xử sơ thẩm lại vụ án theo quy định.
15
Nhận xét của học viên
Việc xét xử phúc thẩm của vụ án phát sinh dựa trên cơ sở kháng cáo của bị
cáo, người bị hại và kháng nghị của Viện kiểm sát. Đối với vụ án này, sau khi
HĐXXPT xác định Hội thẩm nhân dân Lâm Duy Nh1 đã tham gia xét xử vụ án
khác trong thời gian đang tham gia xét xử đối với vụ án này. Theo đó, HĐXXPT
nhận định cấp sơ thẩm đã vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 250 BLTTHS năm
2015: “Việc xét xử được tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ và thời gian tạm
ngừng phiên tòa” và đó là căn cứ hủy BAST theo điểm b khoản 2 Điều 358
BLTTHS 2015.
Như vậy, theo quan điểm của HĐXXPT thì điều kiện cần và đủ để hủy
BAST do vi phạm thủ tục tố tụng là chỉ cần xác định Hội thẩm nhân dân đã tham
gia xét xử hai vụ án trong cùng một thời gian. Ngoài ra, không cần thêm bất kỳ
điều kiện hay hậu quả nào khác như việc xét xử cùng lúc 02 vụ án đã ảnh hưởng
đến phán quyết của BAST về mức hình phạt hay trách nhiệm dân sự… Đồng thời,
căn cứ vào khoản 4 Điều 358 BLTTHS 2015 nên HĐXXPT không xem xét đến
kháng cáo của bị cáo, bị hại cũng như không nhận định gì về việc xét xử của cấp
sơ thẩm.
Việc quy định xét xử trực tiếp, bằng lời nói và xét xử liên tục là các nguyên
tắc quan trọng của việc tiến hành phiên tòa. Các nguyên tắc này bảo đảm cho việc
xét xử chính xác khách quan, bảo đảm cho Hội đồng xét xử ra bản án, quyết định
trên cơ sở xem xét chứng cứ và tranh luận công khai tại phiên tòa. Đó là lý do cả 03
BLTTHS, BLTTDS và LTTHC đều có quy định về việc xét xử liên tục.
Thời gian nghị án cũng là thời gian Tòa án vẫn làm việc và thời gian này dài
hay ngắn tùy thuộc theo từng vụ án. Việc xét xử liên tục đảm bảo cho Tòa án tập
trung tư tưởng vào một vụ án và những người tham dự phiên tòa cũng có điều kiện
theo dõi việc xét xử một cách dễ dàng, đầy đủ. Xét xử liên tục là việc Tòa án xét xử
một vụ án từ lúc khai mạc phiên tòa đến khi tuyên bản án phải diễn ra một cách liên
tục, trừ thời gian nghỉ cần thiết (nghỉ giữa buổi, nghỉ trưa, nghỉ đêm, nghỉ lễ tết) và
thời gian tạm ngừng phiên tòa.
Tác giả đồng ý với quan điểm xác định BAST trên đã vi phạm quy định về
xét xử liên tục nhưng vấn đề đặt ra là HĐXXPT căn cứ vào quy định nào để xác
định với vi phạm nêu trên là đã đủ điều kiện để hủy BAST? Đối chiếu với định
nghĩa quy định tại điểm o khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015 và như tác giả đã phân
- Xem thêm -