ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ NGỌC DIỄM
C¸C TéI PH¹M M¤I TR¦êNG THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Vµ THùC TIÔN XÐT Xö TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TSKH Lê Văn Cảm
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Ngô Ngọc Diễm
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TÌNH HÌNH VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN
XÉT XỬ TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƢỜNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................... 10
1.1.
Tình hình vi phạm pháp luật về môi trƣờng trên địa bàn
thành phố Hà Nội trong những năm gần đây ................................ 10
1.1.1. Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và môi trường đô thị ...................... 11
1.1.2. Trong lĩnh vực khai thác tài nguyên, kháng sản, đa dạng sinh học,
nông nghiệp nông thôn, làng nghề ..................................................... 12
1.1.3. Trong lĩnh vực thương mại, xuất nhập khẩu, du lịch ......................... 13
1.1.4. Trong lĩnh vực công nghiệp, quản lý chất thải nguy hại ................... 14
1.1.5. Trong lĩnh vực y tế, an toàn vệ sinh thực phẩm ................................. 14
1.1.6. Trong lĩnh vực làng nghề thủ công .................................................... 15
1.2.
Thực tiễn xét xử đối với các tội phạm về môi trƣờng trên địa
bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2008 - 2013................................. 15
1.3.
Đánh giá kết quả đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật
và các tội phạm về môi trƣờng trên địa bàn thành phố Hà
Nội, những tồn tại, vƣớng mắc và các nguyên nhân cơ bản ........ 21
1.3.1. Những tồn tại và vướng mắc .............................................................. 21
1.3.2. Các nguyên nhân ................................................................................ 25
Chƣơng 2: PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƢỚC
TRÊN THẾ GIỚI VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƢỜNG .... 31
2.1.
Khái niệm và cơ sở lý luận của việc quy định các tội phạm về
môi trƣờng trong luật hình sự Việt Nam ....................................... 31
2.1.1. Khái niệm tội phạm về môi trường .................................................... 31
2.1.2. Cơ sở lý luận của việc quy định các tội phạm về môi trường trong
luật hình sự Việt Nam ........................................................................ 33
2.2.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các tội phạm
về môi trƣờng trong luật hình sự Việt Nam từ khi ban hành
Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay .................................................. 43
2.2.1. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam 1985 đến
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ............................................. 45
2.2.2.
Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay ....... 47
2.3.
Những dấu hiệu pháp lý hình sự về các tội phạm môi trƣờng .... 53
2.3.1. Khách thể của tội phạm môi trường ................................................... 53
2.3.2. Mặt khách quan của tội phạm về môi trường .................................... 55
2.3.3. Mặt chủ quan của tội phạm về môi trường ........................................ 59
2.3.4. Chủ thể của tội phạm về môi trường .................................................. 61
2.3.5. Hình phạt đối với các tội phạm về môi trường .................................. 62
2.4.
Pháp luật hình sự một số nƣớc trên thế giới về các tội phạm
về môi trƣờng .................................................................................... 64
2.4.1. Pháp luật hình sự Liên bang Nga ....................................................... 64
2.4.2. Pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ............................. 65
2.4.3
Pháp luật hình sự Cộng hòa Singapo ................................................. 67
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƢỜNG ...............69
3.1.
Những chủ trƣơng, định hƣớng cơ bản trong việc bảo vệ môi
trƣờng và hoàn thiện các tội phạm về môi trƣờng........................ 69
3.1.1. Những chủ trương trong việc bảo vệ môi trường và hoàn thiện
các tội phạm về môi trường ................................................................ 69
3.1.2. Những định hướng cơ bản trong việc bảo vệ môi trường và
hoàn thiện các tội phạm về môi trường .............................................. 71
3.2.
Nội dung kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam về các tội phạm về môi trƣờng....................................... 72
3.3.
Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam về các tội phạm về môi trƣờng ................. 84
3.3.1. Hoàn thiện các quy định xử lý về mặt hành chính đối với các
hành vi vi phạm pháp luật môi trường ............................................... 84
3.3.2. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách với các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử ..... 85
3.3.3. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân .............. 96
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 102
PHỤ LỤC
CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
BVMT:
Bảo vệ môi trường
CQCSĐT:
Cơ quan cảnh sát điều tra
CTNH:
Chất thải nguy hại
TAND:
Tòa án nhân dân
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
VSATTP:
Vệ sinh an toàn thực phẩm
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thống kê vụ án và các bị cáo phạm các tội về môi trường trên
địa bàn thành phố Hà Nội bị Tòa án đưa ra xét xử năm 2008 ...... 17
Bảng 1.2. Thống kê vụ án và các bị cáo phạm các tội về môi trường trên
địa bàn thành phố Hà Nội bị Tòa án đưa ra xét xử năm 2009 ...... 17
Bảng 1.3. Thống kê vụ án và các bị cáo phạm các tội về môi trường trên
địa bàn thành phố Hà Nội bị Tòa án đưa ra xét xử năm 2010 ...... 18
Bảng 1.4. Thống kê vụ án và các bị cáo phạm các tội về môi trường trên
địa bàn thành phố Hà Nội bị Tòa án đưa ra xét xử năm 2011 ...... 18
Bảng 1.5. Thống kê vụ án và các bị cáo phạm các tội về môi trường trên
địa bàn thành phố Hà Nội bị Tòa án đưa ra xét xử năm 2012 ...... 18
Bảng 1.6. Thống kê vụ án và các bị cáo phạm các tội về môi trường trên
địa bàn thành phố Hà Nội bị Tòa án đưa ra xét xử năm 2013 ...... 19
Bảng 1.7. Tổng cộng vụ án và các bị cáo phạm các tội về môi trường
trên địa bàn thành phố Hà Nội bị Tòa án đưa ra xét xử năm
2008 đến năm 2013 ....................................................................... 19
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ môi trường là một điều kiện để phát triển bền vững, Đảng, Nhà
nước đã quan tâm chỉ đạo xây dựng thể chế, chính sách và nâng cao nhận
thức về bảo vệ môi trường, tiếp tục hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về môi trường, kiện toàn bộ máy tổ chức các cơ quan chuyên
trách về môi trường trong cả nước. Tích cực xử lý hành chính, xử lý hình sự
để đưa ra xét xử các vụ án về môi trường đối với các nhóm hành vi xâm hại
môi trường, đồng thời thực hiện các giải pháp kiểm soát, phòng ngừa, ngăn
chặn phát sinh tội phạm về môi trường mới [41].
Bên cạnh những thành tựu đạt được, một số hạn chế, tồn tại trong việc
thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường còn thể hiện như: Kết quả bảo vệ môi
trường và kiểm soát ô nhiễm đối với một số khu vực trọng điểm còn hạn chế;
Việc xử lý các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng còn chậm; chất lượng thẩm
định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường còn thấp; hiệu quả
ngăn chặn tình trạng phá rừng, cháy rừng chưa cao; tình hình vi phạm pháp
luật và tội phạm về môi trường còn diễn ra phức tạp, phổ biến trên hầu hết các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, nguy cơ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên,
suy thoái môi trường sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ cộng
đồng và sự phát triển bền vững của đất nước.
Đặc biệt, tình trạng môi trường trong mấy năm gần đây vẫn còn nhiều
vấn đề bức xúc, nguyên nhân chính là do sự phát triển thiếu bền vững. Theo
báo cáo tổng kết của Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường, từ
năm 2008 đến năm 2013, lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi
trường trên cả nước đã phát hiện và xử lý như sau: Năm 2008, lực lượng Cảnh
sát môi trường trên toàn quốc đã phát hiện 998 vụ, 1424 tổ chức và cá nhân có
hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường nghiêm trọng; chuyển cơ
1
quan điều tra thụ lý 18 vụ, 30 đối tượng có dấu hiệu phạm pháp hình sự. Phối
hợp xử phạt vi phạm hành chính và truy thu phí môi trường trên 135 tỷ đồng;
Năm 2009 phát hiện 4545 vụ, 1300 tổ chức, 3128 cá nhân có hành vi vi phạm
pháp luật về môi trường; chuyển cơ quan điều tra khởi tố 76 vụ, 109 bị can.
Xử lý vi phạm hành chính: 3401 vụ, đối với 1057 tổ chức, 1919 cá nhân, phạt
tiền (trực tiếp và phối hợp với các ngành chức năng) 28.755 triệu đồng; Năm
2010, phát hiện 5773 vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, làm rõ 1955
doanh nghiệp, 3711 cá nhân vi phạm pháp luật về môi trường; Cơ quan điều
tra khởi tố/đề nghị khởi tố 88 vụ, 106 đối tượng. Công an các cấp xử lý hành
chính 2288 vụ, đối với 956 tổ chức, 1345 cá nhân, phạt 25,88 tỷ đồng.
Chuyển cơ quan chức năng khác xử phạt 2483 vụ, đối với 482 tổ chức, 1971
cá nhân, phạt 29,9 tỷ đồng; Năm 2011, phát hiện 7.868 vụ vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường, làm rõ 3.355 tổ chức, 4.784 cá nhân vi phạm pháp luật
về môi trường; Cơ quan điều tra các cấp khởi tố 113 vụ, 145 đối tượng. Xử
phạt vi phạm hành chính 3.254 vụ, 1.554 tổ chức, 1.671 cá nhân; phạt tiền
58,011 tỷ đồng. Chuyển cơ quan khác xử lý vi phạm hành chính 3.837 vụ,
1.321 tổ chức, 2.795 cá nhân, xử phạt vi phạm hành chính trên 50 tỷ đồng;
Năm 2012, phát hiện 9986 vụ, đối với 2530 tổ chức, 7882 cá nhân vi phạm
pháp luật và tội phạm về môi trường. Công an các cấp đã khởi tố 284 vụ, 423
đối tượng. Xử phạt vi phạm hành chính 7747 vụ, phạt 131,215 tỷ đồng; Năm
2013 phát hiện 10792 vụ, đối với 10877 đối tượng vi phạm pháp luật; chuyển
cơ quan điều tra các cấp khởi tố/xem xét khởi tố 255 vụ, 369 đối tượng. Xử
phạt vi phạm hành chính số tiền 105,3 tỷ đồng [5]. Như vậy, qua số liệu thống
kê cho thấy, tình hình vi phạm pháp luật môi trường trên thực tế diễn ra rất
phức tạp, với số lượng phát hiện rất lớn. Tuy nhiên, số vụ án chuyển cho cơ
quan điều tra khởi tố lại chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Hầu hết các vụ việc mới chỉ
dừng lại ở các biện pháp xử lý phạm hành chính. Qua hơn mười năm thực
2
hiện Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 với 10 tội danh, chúng ta mới chỉ đưa
ra xét xử được một số tội danh như: tội hủy hoại rừng; tội vi phạm các quy
định về bảo vệ rừng; tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã
quý hiếm... Thực tiễn cho thấy, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó tập
trung ở một số nguyên nhân như: Các thủ đoạn phạm tội của các đối tượng
diễn ra ngày càng tinh vi và phức tạp. Việc phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật
và tội phạm về môi trường ngày một khó khăn hơn, thủ đoạn của loại tội
phạm này ngày một tinh vi hơn. Việc xử lý vi phạm pháp luật về môi trường
chưa có sự đồng đều, thống nhất và chưa thực sự nghiêm minh, có nguyên
nhân là do quan điểm xử lý giữa các địa phương, một số bộ, ngành chưa
thống nhất. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mặc dù đã được sửa đổi, bổ
sung nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa rõ ràng, chế tài chưa đủ
mạnh để răn đe, còn nhiều lỗ hổng để các đối tượng “lách luật”. Lực lượng
Cảnh sát môi trường mới thành lập mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng kinh
nghiệm còn có phần hạn chế [21].
Nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 37/2009/QH12
ngày 19/06/2009 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010 đã được Quốc hội
thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa 12 đã có những sửa đổi, bổ sung tạo
cơ sở pháp lý cho công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Tuy
nhiên, dưới góc độ nghiên cứu pháp lý, khi tìm hiểu về những quy định của
pháp luật hình sự về tội phạm môi trường, chúng ta thấy rằng BLHS quy định
về nhóm tội phạm này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Có những quy định
không mang tính thực tế, đặc biệt có những quy định không thể áp dụng ngay
cả khi hành vi vi phạm đó nguy hại đến mức phải truy cứu TNHS (trách
nhiệm hình sự) như: Bất cập trong quy định của BLHS về chủ thể của tội
phạm môi trường; quy định điều kiện truy cứu TNHS đối với các tội phạm về
3
môi trường; sự chưa thống nhất, đầy đủ giữa quy định của BLHS với các văn
bản pháp luật khác; v.v...
Do đó, xuất phát từ những vấn đề cấp thiết nêu trên, chúng tôi đã
quyết định nghiên cứu đề tài “Các tội phạm về môi trường theo luật hình
sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm luận
văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước đang tích cực đẩy mạnh
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước hội nhập sâu rộng và
toàn diện với quốc tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh những lợi
ích to lớn đạt được như thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ để
phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức cho công tác
bảo vệ môi trường do tình trạng ô nhiễm và huỷ hoại môi trường ngày càng
gia tăng. Tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường đang có
những diễn biến phức tạp và ngày càng nghiên trọng trên hầu hết các lĩnh vực
kinh tế, xã hội. Trong đó, tập trung tại các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xuất
nhập khẩu, làng nghề, quản lý chất thải nguy hại, khai thác tài nguyên khoáng
sản, an toàn vệ sinh thực phẩm, đa dạng sinh học, quản lý môi trường đô thị.
Phương thức thủ đoạn của tội phạm môi trường cũng ngày càng tinh vi nhằm
che giấu và đối phó với các cơ quan chức năng.
Tình hình nghiên cứu về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và
vi phạm pháp luật về môi trường trong thời gian qua có thể phân chia thành
các nội dung chủ yếu như sau:
* Dưới góc độ đề tài nghiên cứu có một số công trình như: 1) Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước năm 2004: “Tội phạm về môi trường Giải pháp phòng, chống” của GS. TS. Nguyễn Duy Hùng - Học viện Cảnh
sát nhân dân; 2) Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước năm 2006:
“Những vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và giải pháp phòng, chống”
4
của GS.TS. Nguyễn Duy Hùng, Học viện Cảnh sát nhân dân làm chủ nhiệm;
3) Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2006 “Tội phạm về môi trường Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do PGS. TS. Phạm Văn Lợi làm chủ
nhiệm, Bộ Tư pháp; v.v...
* Dưới góc độ sách chuyên khảo, tham khảo có một số công trình như:
1) “Tội phạm về môi trường - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn” do PGS.
TS Phạm Văn Lợi chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2007; 2)
“Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự” do PGS.TS
Trịnh Quốc Toản biên soạn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2011; 3)
Các Chương “Các tội phạm về môi trường” trong những Giáo trình luật hình
sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội năm 2007 và của Trường Đại học Luật
Hà Nội, 2010; 4) Bình luận khoa học BLHS, Phần các tội phạm, Tập 5, Nxb
Thành phố Hồ Chi Minh năm 2002; v.v...
* Ngoài ra, còn có các bài viết đăng tải trên các tạp chí như: 1) “Lực
lượng Công an nhân dân nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong công tác
bảo vệ môi trường” của Trung tướng Đặng Văn Hiếu, Ủy viên Trung ương
Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an tháng 6 năm 2007); 2) “Công tác phòng,
chống tội phạm về môi trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế” của TS.
Đại tá, Nguyễn Xuân Lý, Cục trưởng Cục Cảnh sát môi trường (7/2007); 3)
“Tăng cường đấu tranh phòng chống tội phạm về môi trường trong thời kỳ
hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế” của Trung tướng Lê Thành, Phó Tổng
Cục trưởng Tổng cục Cảnh sát tháng 7/2007; v.v...
Bên cạnh đó, còn nhiều công trình, báo cáo về vấn đề tội phạm và vi
phạm pháp luật về môi trường được đăng tải khác như: 1) “Vấn đề tội phạm
hóa một số hành vi xâm hại môi trường trong pháp luật hình sự Việt Nam
hiện hành” của GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
5
7/2001; 2) “Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không?” của
PGS.TS. Phạm Hồng Hải, Tạp chí Luật học, số 6/1999; 3) “Những cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc quy định các tội phạm về môi trường trong BLHS
năm 1999”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4 năm 2002; 4) “Tội phạm
môi trường trong pháp luật hình sự của một số nước Đông Nam Á”, Tạp chí
Môi trường, số 8 năm 2009; 5) “Nhận thức chung đối với tội phạm vê môi
trường và một số vấn đề liên quan”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4 năm
2001 của TS. Trần Lê Hồng; v.v...
Trong các công trình nghiên cứu trên đây, trên cơ sở phân tích lý luận
và thực tiễn có liên quan, các tác giả mới giới thiệu, phân tích, đánh giá ở một
số khía cạnh, một số lĩnh vực về pháp luật bảo vệ môi trường chứ không đề
cập tổng quan về thực trạng xét xử các tội phạm môi trường, cũng như chưa
đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này. Do vậy, luận văn
sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề này nhằm cung cấp các luận cứ khoa học và
thực tiễn xét xử cho việc hoàn thiện pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường
trong thời gian tới. Như vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Các tội phạm về môi
trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành
phố Hà Nội” càng trở nên cấp bách đáp ứng được tính lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu hệ thống hóa một số nhận thức
chung về tội phạm môi trường; nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng BLHS
năm 1999 qua công tác xét xử các tội phạm về môi trường, qua đó xác định
những ưu điểm, tồn tại, thiếu sót và nguyên nhân của những quy phạm pháp
luật hình sự về các tội phạm môi trường trong BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ
sung 2009 từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện, tăng khả năng
áp dụng trên thực tiễn.
6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, cần phải giải quyết những nhiệm vụ
chính sau đây:
1) Đánh giá tình hình vi phạm pháp luật và các tội phạm về môi trường
giai đoạn 2008 - 2013 trên địa bàn thành phố Hà Nội;
2) Đánh giá kết quả đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và các
tội phạm về môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội, những tồn tại, vướng
mắc và các nguyên nhân cơ bản;
3) Phân tích pháp luật hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới
về các tội phạm về môi trường, trong đó chỉ ra khái niệm, cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc quy định các tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam;
4) Chỉ ra những chủ trương, định hướng cơ bản trong việc bảo vệ môi
trường và hoàn thiện BLHS Việt Nam về các tội phạm về môi trường;
5) Trên cơ sở đó, kiến nghị hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam
về các tội phạm về môi trường, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng quy định của BLHS nước ta về các tội phạm về môi trường.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Các tội
phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về các tội phạm về môi
trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành
phố Hà Nội trong giai đoạn 2008 - 2013, từ đó chỉ ra những chủ trương,
định hướng cơ bản trong việc bảo vệ môi trường và hoàn thiện BLHS Việt
Nam về các tội phạm về môi trường, kiến nghị hoàn thiện, cũng như đề
7
xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS nước
ta về các tội phạm này.
5. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học
luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê xã hội
học, điều tra… để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng
các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn này.
6. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn là công trình khoa học ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học
nghiên cứu về đề tài này và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Do đó, những điểm mới về mặt khoa học của đề tài bao gồm:
1) Đánh giá bức tranh tình hình vi phạm pháp luật và các tội phạm về
môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội;
2) Đánh giá kết quả đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và các
tội phạm về môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội, những tồn tại, vướng
mắc và các nguyên nhân cơ bản;
3) Phân tích pháp luật hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới
về các tội phạm về môi trường, trong đó chỉ ra khái niệm, cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc quy định các tội phạm về môi trường;
4) Chỉ ra những chủ trương, định hướng cơ bản trong việc bảo vệ môi
trường và hoàn thiện BLHS Việt Nam về các tội phạm về môi trường;
5) Trên cơ sở đó, kiến nghị hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam
8
về các tội phạm về môi trường, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng quy định của BLHS Việt Nam về các tội phạm này.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo
và Phụ lục, luận văn bao gồm ba chương và 9 mục có kết cấu như sau:
Chương 1: Tình hình vi phạm pháp luật và thực tiễn xét xử tội phạm về
môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 2: Pháp luật hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới về
các tội phạm về môi trường.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội phạm về môi trường.
9
Chƣơng 1
TÌNH HÌNH VI PHẠM PHÁP LUẬT
VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƢỜNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Tình hình vi phạm pháp luật về môi trƣờng trên địa bàn thành
phố Hà Nội trong những năm gần đây
Hà Nội có vị trí địa lý nằm ở đồng bằng sông Hồng, phí Bắc tiếp giáp
với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc; phía Nam tiếp giáp với các tỉnh Hà
Nam, Hòa Bình; phía Đông tiếp giáp với các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và
Hưng Yên; phía tây tiếp giáp với tỉnh Phú Thọ. Tháng 8 năm 2008, sau khi
sát nhập Hà Nội có diện tích 3.345,0km2, dân số 6.700.000 người gồm 10
quận, 01 thị xã và 18 huyện ngoại thành [4].
Hiện nay, thành phố Hà Nội có: 01 khu công nghệ cao, 01 khu chế xuất,
08 khu công nghiệp, 41 cụm công nghiệp, 1350 làng nghề (244 làng nghề
truyền thống); 11.041 doanh nghiệp có chức năng xuất, nhập khẩu (trong đó có
30 doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu, 249 doanh nghiệp nhập khẩu máy móc,
phương tiện chuyên dùng); 538 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thương
mại, siêu thị, chợ (20 trung tâm thương mại, 110 siêu thị, 408 chợ); 615 cơ sở
lưu trú (11 khách sạn 5 sao, 10 khách sạn 4 sao, 26 khách sạn 3 sao, còn lại là 2
sao); 265 doanh nghiệp kinh doanh vận tải (113 doanh nghiệp kinh doanh taxi,
139 doanh nghiệp kinh doanh vận tải liên tỉnh, 13 doanh nghiệp kinh doanh xe
ôtô); 251 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hóa chất (139 doanh nghiệp sản
xuất sơn, 112 doanh nghiệp kinh doanh hóa chất). Có 05 nhà mạng, 33 đơn vị
kinh doanh viễn thông với tổng số 1.291 trạm BTS. Có 04 kho chứa xăng dầu,
430 cửa hàng bán lẻ xăng dầu, 21 cơ sở sang triết Gas. Có 2.592 bệnh viện, cơ
sở y tế (bệnh viện TW: 21, bệnh viện quân đội: 10, bệnh viện Hà Nội: 49, bệnh
10
viện tư nhân: 23, phòng khám đa khoa: 212, phòng khám chuyên khoa: 1.292,
dịch vụ y tế: 265, phòng khám y học cổ truyền: 708); 3.821 cơ sở hành nghề
dược (100 cơ sở sản xuất thuốc, 3.721 cơ sở kinh doanh thuốc); 318 cơ sở kinh
doanh mĩ phẩm (268 cơ sở kinh doanh mỹ phẩm nhập khẩu). Có 47.840 cơ sở
sản xuất, kinh doanh dịch vụ ăn uống (thành phố quản lý: 1.806 cơ sở; cấp
huyện quản lý: 7.000 cơ sở, cấp xã quản lý: 38.989 cơ sở); 1.191 trường có bếp
ăn tập thể; 17.657 cơ sở dịch vụ thức ăn đường phố. Có gần 5.000.000 phương
tiện giao thông cơ giới đường bộ, đường sắt; 02 nhà máy sản xuất xi măng; 35
cơ sở sản xuất gạch nung tuynel quy mô lớn, công nghệ tiên tiến với công xuất
thiết kế 937 triệu viên/năm; khoảng 1.250 vỏ lò thủ công với công suất 963
triệu viên/năm. Có 11 đơn vị có giấy phép khai thác tài nguyên cát (chủ yếu
được khai thác tại sông Hồng, sông Đuống, sông Công, sông Cầu, sông Cà Lồ);
3.732 cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm (6 cơ sở giết mổ tập trung); 224 cơ sở sản
xuất rau an toàn; 893 cơ sở sản xuất, gia công, kinh doanh thuốc bảo vệ thực
vật; 34 cơ sở sản xuất, chế biến, nuôi trồng thủy sản; 188.365 ha đất nông
nghiệp; 1.116 trại chăn nuôi, (có 56 trại chăn nuôi có quy mô từ 1000 con trở
lên) nằm chủ yếu ở một số huyện ngoại thành như Ba Vì, Sơn Tây, Thạch Thất,
Chương Mỹ…(94 trại chăn nuôi trâu bò; 268 trang trại chăn nuôi lợn; 754
trang trại chăn nuôi gia cầm)[4].
Tóm lại, từ những đặc điểm cơ bản về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh trật tự của thành phố Hà Nội, có thể chỉ ra các vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực môi trường như sau.
1.1.1. Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và môi trường đô thị
Từ khi thành phố Hà Nội mở rộng từ năm 2008, tốc độ xây dựng công
trình công cộng cũng như hạng mục xây dựng công trình xây dựng dân dụng
diễn ra một cách ồ ạt nên hầu hết các công trình không tránh khỏi các vi phạm
về bảo vệ môi trường. Công tác thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường còn
11
mang tính hình thức, đối phó; quá trình thi công không tuân thủ các yêu cầu
của cơ quan nhà nước trong các quyết định phê duyệt đánh giá tác động môi
trường, cam kết bảo vệ môi trường như: Không niêm yết công khai bản tóm
tắt đánh giá tác động môi trường, vận chuyển chôn lấp chất thải rắn theo đúng
quy định… Tình trạng đổ trộm bùn đất, phế thải, vật liệu xây dựng tại các địa
bàn giáp danh, trên các tuyến đường ngoại ô diễn ra thường xuyên gây ô
nhiễm môi trường, cản trở giao thông công cộng.
1.1.2. Trong lĩnh vực khai thác tài nguyên, kháng sản, đa dạng sinh
học, nông nghiệp nông thôn, làng nghề
Trong những năm gần đây, tình hình buôn bán động vật hoang dã, lâm
sản trái phép diễn ra phức tạp rất khó khăn cho công tác quản lý. Các hoạt
động khai thác, vận chuyển, buôn bán giết mổ động vật hoang dã một phần
được thực hiện từ các khu rừng tự nhiên trong nước, còn lại phần lớn được
vận chuyển từ nước ngoài về Việt Nam qua cảng hàng không (Nội Bài, Tân
Sơn Nhất…), cảng biển (Hải Phòng, Quảng Ninh…), sau đó được tập kết tại
các tỉnh lân cận, chia nhỏ vận chuyển tiêu thụ chủ yếu vào các thành phố lớn
như Hà Nội… Ngoài ra, một số đối tượng còn lợi dụng cơ chế chính sách của
Nhà nước là xin phép nuôi nhốt động vật sinh trưởng, sinh sản động vật
hoang dã để hợp thức hóa thủ tục giấy tờ nhằm che dấu hành vi buôn bán
hoặc giết mổ động vật hoang dã.
Tình hình buôn bán thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thuốc trừ sâu
không rõ nguồn gốc, thuốc cấm có xuất xứ từ Trung Quốc không qua công tác
kiểm định diễn ra rất phức tạp. Hầu hết các cơ sở kinh doanh đều mang tính
chất nhỏ lẻ nên chưa tiến hành làm các thủ tục pháp lý theo quy định về bảo
vệ môi trường như: Lập bản cam kết về bảo vệ môi trường, không đăng ký
chủ nguồn chất thải nguy hại… lạm dụng trong sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
đối với cây trồng dấn đến hàm lượng dư thừa chất bảo vệ thực vật trong nông
12
sản, trong đất, trong nguồn nước, gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng rất lớn
đến sức khỏe con người; các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhập
khẩu, sản xuất, kinh doanh thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi vấn lén lút sử dụng
các loại chất cấm; hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm bộc lộ nhiều vi phạm
về việc xử lý chất thải, nước thải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng [10].
Hoạt động khai thác trái phép tài nguyên thiên nhiên là cát, sỏi vẫn diễn
ra thường xuyên, phức tạp tập trung chủ yếu vào địa bàn là sông Hồng, sông
Đuống, sông Cà Lồ… Khai thác nguồn nước ngầm ở các khu công nghiệp và
cơ sở sản xuất đá lạnh sinh hoạt ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái, biến
đổi dòng chảy, sạt nở đê điều, sụt lún cơ sở hạ tầng.
1.1.3. Trong lĩnh vực thương mại, xuất nhập khẩu, du lịch
Hầu hết các cơ sở kinh doanh thương mại như siêu thị đều đặt trong các
tòa nhà, khu liên hợp, mặt bằng đi thuê, do vậy không có hệ thống xử lý nước
thải (nước thải được thải chung cùng hệ thống tòa nhà). Bên cạnh đó, trong
các hợp đồng thuê địa điểm không xác định rõ trách nhiệm bảo vệ môi trường
thuộc về bên nào do vậy dấn tới tình trạng các đơn vị này trốn tránh việc thực
hiện các quy định về bảo vệ môi trường, gây khó khăn cho cơ quan chức năng
trong việc quản lý, kiểm tra và xử lý vi phạm. Ngoài ra, hệ thống chợ truyền
thống hầu hết không có hệ thống xử lý môi trường, trong khi đó khu chợ
thường xuyên diễn ra các hoạt động giết mổ gia cầm, sử dụng chất tẩy rửa có
tính chất độc hại, gây ô nhiễm cho nguồn nước ngầm.
Các cơ sở kinh doanh dịch vụ, lưu trú chưa ý thức được công tác bảo
vệ môi trường. Hầu hết các cơ sở này chưa đăng ký cam kết về bảo vệ môi
trường, đề án bảo vệ môi trường, chưa có giấy phép xả thải, xử lý thu gom
chất thải, khi hoạt động của các cơ sở lưu trú này nước xả thải vượt tiêu
chuẩn vào môi trường.
13
- Xem thêm -