Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn cho tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luậ...

Tài liệu Các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn cho tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật

.DOC
23
309
82

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Trên thế giới, ở tất cả các quốc gia, và các nền kinh tế, vai trò của các tổ chức tín dụng là hết sức quan trọng và đặc biệt. Nắm được yếu tố này nên ngay từ khi nước ta mới giành được độc lập và thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng của chế độ mới. Trong khoảng 20 năm trở lại đây, từ khi đổi mới nền kinh tế (Đại hội Đảng VI năm 1986), nền kinh tế nước ta luôn đạt mức tăng trưởng cao so với khu vực. Với mức tăng trưởng như vậy, nhu cầu về vốn cho nền kinh tế luôn là một bài toán lớn của Chính phủ. Hơn nữa, trong điều kiện nước ta hiện nay, đầu tư nước ngoài chưa đạt mức như kế hoạch, nhiều nơi còn có dấu hiệu giảm sút, thì chủ trương dựa vào nguồn vốn trong nước là hết sức đúng đắn và cần được thực hiện một cách triệt để. Tuy nhiên, các kênh huy động vốn trong nước còn hẹp: thị trường chứng khoán mới được hình thành và chưa thật sự trở thành kênh cung cấp vốn hiệu quả cho nền kinh tế; phần lớn các doanh nghiệp có năng lực tài chính còn yếu kém, hoạt động chủ yếu dựa trên nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng. Từ đó, có thể khẳng định tín dụng ngân hàng đang và sẽ còn tiếp tục là một kênh cung cấp vốn quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam trong tương lai gần. Nhưng làm sao để đảm bảo an toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng trong giai đoạn hiện nay, để có được hệ thống các tổ chức tín dụng vững mạnh, một nền kinh tế ổn định, hướng tới phát triển trong tương lai? Chắc chắn, câu trả lời không thể có được ngày một ngay hai. Vậy, ta hãy xem thực tiễn pháp luật Ngân hàng nước ta đã có những quy định gì về vấn đề đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng, những quy định đó như thế nào, và đã đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng hay chưa? Với đề tài “Các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn cho tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật” chúng em sẽ có cơ hội được tiếp cận với "hành lang pháp lí" cho các tổ chức tín dụng từ đó đánh giá hiệu quả của nó với hoạt động của tổ chức tín dụng nói riêng, và của cả nền kinh tế nói chung. 1 I. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1. Khái niệm: Việc định nghĩa các thuật ngữ quan trọng trong một đạo luật là cần thiết, nhằm tránh tình trạng hiểu và áp dụng sai các quy định của luật. Tuy nhiên, thông lệ quốc tế cho thấy, chỉ nên đưa vào trong luật những định nghĩa về các thuật ngữ được sử dụng thường xuyên, phổ biến và có khả năng gây cách hiểu không thống nhất, hiểu sai trong quá trình thực thi pháp luật. Từ Luật tổ chức tín dụng năm 1997 cho tới lần sửa đổi đầu tiên năm 2004, khái niệm "tổ chức tín dụng" (TCTD )vẫn chưa được đưa ra một cách rõ ràng và chính thức. Phải tới năm 2010, với Luật sửa đổi bổ sung mới, khái niệm này đã được các nhà làm luật quy định một cách rõ ràng và cụ thể hơn. Theo khoản 1 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì: "Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vĩ mô và quỹ tín dụng nhân dân". Dù tới năm 2011, Luật các TCTD mới có hiệu lực, tuy nhiên việc đưa vào một khái niệm rõ ràng cho TCTD phần nào cho thấy sự quan tâm nhất định của các nhà làm luật, và sự cần thiết của chính nó đối với nền kinh tế của nước ta hiện nay. 2. Đặc điểm của TCTD: Có thể nói, tổ chức tín dụng là một loại hình doanh nghiệp, khi nó hội đủ khá nhiều điều kiện của một doanh nghiệp như có tài sản riêng, tên riêng, trụ sở giao dịch ổn định, có văn phòng đại diện Không những vậy, nó còn được ví như một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Tổ chức tín dụng, như ta đã biết, nó được thành lập và hoạt động tuân theo Luật các tổ chức tín dụng, nhưng mặt khác, tùy thuộc vào các loại hình tổ chức tín dụng khác nhau mà tổ chức tín dụng lại tuân theo cả những quy định pháp luật khác có liên quan như Luật Doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, Luật đầu tư Ngoài ra nếu căn cứ điều 12, Luật các tổ chức tín dụng 1997 (tham khảo thêm tại Điều 6 Luật các TCTD 2010), các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động dưới các hình thức pháp lý như TCTD cổ phần, TCTD nhà nước, TCTD hợp tác, TCTD có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã. Theo luật doanh nghiệp các loại hình trên đều có tư cách pháp nhân. TCTD đáp ứng hầu hết các điều kiện theo quy định tại điều 84 Bộ luật dân sự (điều kiện được công nhận pháp nhân), như được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập; có cơ cấu chặt chẽ; có tài sản độc lập; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật. Một đặc điểm nổi bật nữa của TCTD là đối tượng kinh doanh của nó chính là tiền tệ và cung ứng dịch vụ ngân hàng. Có thể khẳng định, đối 2 tượng kinh doanh trực tiếp của các tổ chức tín dụng chính là tiền tệ. Các TCTD hoạt động kinh doanh chủ yếu theo phương thức nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cho vay lại, cung cấp các dịch vụ thanh toán. Đặc điểm cuối cùng. đó chính là việc TCTD chịu sự quản lý của ngân hàng nhà nước Việt Nam. Đồng thời, luật ngân hàng nhà nước Việt Nam còn nêu rõ một trong những nhiệm vụ, quyên hạn của nhân hàng nhà nước Việt Nam là cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các TCTD, trừ trường hợp do thủ tướng Chính phủ quyết định. Ngoài ra, Pháp luật ngân hàng cũng ghi nhận việc cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác cũng thuộc thẩm quyền của ngân hàng nhà nước Việt Nam. II. CÁC HẠN CHẾ NHẰM ĐẢM BẢO AN TOÀN CHO TỔ CHỨC TÍN DỤNG THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 1. Hoạt động huy động vốn a) Khái niệm huy động vốn: Theo nghĩa chung nhất huy động vốn là việc các TCTD tập trung những giá trị tiền tệ từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh. Huy động vốn là hoạt động thường xuyên và luôn gắn liền với kế hoạch kinh doanh của TCTD, bởi lẽ vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu để các TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Theo quy định của pháp luật hiện nay, các TCTD được huy động vốn thông qua bốn hình thức: - Huy động vốn bằng nhận tiền gửi - Huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ có giá - Huy động vốn bằng việc vay vốn của các TCTD khác - Huy động vốn thông qua vay vốn của Ngân hàng Nhà nước. b) Sự cần thiết phải có những hạn chế nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín dụng: Cũng như hàng loạt các quan hệ khác trong xã hội, quan hệ huy động vốn của các TCTD cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật, có những hạn chế được đưa ra để đưa hoạt động của TCTC đi vào hoạt động trơn tru, hiệu quả cho nền kinh tế chung. Thông qua các quy định của pháp luật về hoạt động huy động vốn của TCTD, Nhà nước có thể thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội. Với việc đưa ra những quy định về lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, quy định về bảo hiểm tiền gửi, quy định điều kiện để được vay vốn Ngân hàng Nhà nước Nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động huy động vốn của TCTD bằng cách tạo 3 ra các điều kiện thuận lợi hoặc hạn chế việc huy động vốn của các TCTD. Thêm vào đó, hoạt động huy động vốn của các TCTD là hoạt động chứa đựng nguy cơ rủi ro cao, sự tác động tích cực hoặc tiêu cực của nó thường mang tính phản ứng “dây chuyền” do đó ảnh hưởng đến cả hệ thống TCTD và tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Chẳng hạn, hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi mà không được Nhà nước quản lý chặt chẽ thì có thể dẫn đến việc các TCTD lợi dụng đặc quyền được huy động vốn bằng nhận các loại tiền gửi để lừa đảo dân chúng trên phạm vi rộng, với số lượng lớn. Mặt khác, các TCTD huy động vốn mà không sử dụng vốn đó một cách có hiệu quả, để thất thoát vốn sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả, thanh toán cho người gửi tiền, từ đó gây tâm lý hoang mang cho những người gửi tiền khác khiến họ đồng loạt tới các TCTD rút tiền, đẩy các TCTD khác vào tình trạng thiếu khả năng chi trả. Điều đó dẫn đến sự đổ vỡ toàn bộ hệ thống TCTD, gây ra khủng hoảng về tài chính- tiền tệ, gây mất ổn định kinh tế. Dân chúng mất lòng tin vào các TCTD, nguồn vốn nhàn rỗi không được tập trung cho đầu tư phát triển, nền kinh tế khó mà phát triển được. Bởi vậy, hoạt động huy động vốn cần phải được Nhà nước quản lý chặt chẽ. Ngoài ra, để bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể khác trong hoạt động huy động vốn, đồng thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi, an toàn cho các TCTD trong quá trình huy động vốn cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Mặt khác, thông qua việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động huy động vốn của các TCTD, Nhà nước có thể kiểm soát được tình hình hoạt động kinh doanh của các TCTD, từ đó kịp thời có biện pháp xử lý, giúp TCTD thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính. c) Hạn chế đối với hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam Pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn của các TCTD nói riêng được quy định khá chi tiết, đầy đủ trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Luật các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi bổ sung năm 2004; Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Các văn bản này đã xác định rõ chức năng và nhiệm vụ của từng cơ quan. Việc quản lý hoạt động huy động vốn của các TCTD nhằm xây dựng môi trường pháp lý rõ ràng, thống nhất; tạo ra hành lang pháp lý cho các TCTD hoạt động hiệu quả; tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền; xây dựng hệ thống tài chính- tiền tệ ổn định từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn của các TCTD đạt hiệu quả. Mặt khác, thông qua quản lý hoạt động huy động vốn, Nhà nước có thể kiểm soát được tổng số vốn cũng như việc sử 4 dụng vốn đó của các TCTD nhằm bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo an toàn cho hệ thống TCTD. Chịu sự quản lý của chính phủ, ngân hàng nhà nước có thể vừa được coi là hạn chế mà cũng có thể là một đặc quyền, như đứa trẻ sinh ra được bố mẹ coi sóc chu đáo vậy. Nhà nước thực hiện việc quản lý của mình thông qua những quy định về: điều kiện để một tổ chức được cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng; các quy định về thanh tra, kiểm tra hoạt động của tổ chức tín dụng; tổ chức thu thập, xử lý, cung cấp thông tin và dự báo tình hình thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Ngoài ra, Nhà nước còn quản lý thông qua việc ký kết hoặc tham gia điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng Việt Nam vươn ra thị trường nước ngoài cũng như mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam. Các quy định của pháp luật có liên quan tới quản lý nhà nước đối với hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng được thể hiện cụ thể trong các quy định về quyền được nhận các loại tiền gửi đối với từng loại hình TCTD, các hạn chế pháp định nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh của các TCTD như: quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, trách nhiệm tham gia bảo hiểm tiền gửi, quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD Đặc biệt là trong quy chế kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán, trong các quy định về kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm pháp luật đối với các TCTD trong huy động vốn *Quy định pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam: Nhận tiền gửi là nghiệp vụ huy động vốn đặc thù của các TCTD tạo tiền đề kinh tế để các TCTD thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Nhìn chung các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành quy định về hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD là tương đối đầy đủ và chặt chẽ, cụ thể hoá được các nội dung như: Các loại tiền gửi mà TCTD được phép huy động; giới hạn quyền được nhận các loại tiền gửi đối với từng loại hình TCTD; quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tiền gửi; quy định trách nhiệm của TCTD khi huy động vốn bằng nhận tiền gửi; quy định về quản lý Nhà nước đối với hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi; cùng các nội dung có liên quan khác Về cơ bản Nhà nước đã thiết lập được một hành lang pháp lý tương đối đầy đủ và thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các TCTD trong tiến trình hội nhập. Đồng thời pháp luật cũng hướng tới quyền lợi của mọi người dân, đáp ứng tốt hơn nhu cầu gửi tiền và sử dụng các dịch vụ ngân 5 hàng, lựa chọn hình thức gửi tiền phù hợp với mục đích và yêu cầu của họ, tạo niềm tin cho người gửi tiền; tạo ra cơ sở pháp lý cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. * Các quy định của pháp luật về huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ có giá Trong giai đoạn hiện nay, phát hành giấy tờ có giá là một kênh huy động vốn không kém phần quan trọng đối với các TCTD. Hoạt động này đã được pháp luật quy định tại Điều 46 Luật các tổ chức tín dụng 1997 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng 2004 và một số văn bản pháp luật liên quan. Các quy định về phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn của các TCTD đã tạo ra một hành lang pháp lý cần thiết để các TCTD có thể thực hiện tốt hoạt động này. Chi tiết về vấn đề này, Quyết định số 02/2005/ QĐ-NHNN, cũng đã quy định rõ ràng về mệnh giá, thời hạn, thủ tục phát hành giấy tờ có giá. Ngoài ra còn đưa ra các điều kiện nhất định như: "Tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước" và "Có tình hình tài chính lành mạnh theo đánh giá của Thanh tra Ngân hàng". * Các quy định của pháp luật về huy động vốn bằng việc vay vốn của các Tổ chức tín dụng khác Theo Quy chế vay vốn giữa các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 1310/2001/QĐ-NHNN ngày 15/10/2001 thì “Vay vốn giữa các TCTD là việc cấp tín dụng dưới hình thức cho vay của TCTD (bên cho vay) cho một TCTD khác (bên vay) theo quy định tại Điều 47 Luật các tổ chức tín dụng”. Các TCTD này được thành lập, hoạt động ở Việt Nam theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, bao gồm: Ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng liên doanh, các TCTD phi ngân hàng, Quỹ tín dụng nhân dân. Pháp luật đã có những quy định giới hạn về thời gian cho vay, lãi suất cho vay trong lĩnh vực này. Các TCTD cho nhau vay vốn ngắn hạn (tối đa đến 12 tháng), trung hạn (từ trên 12 tháng đến 60 tháng) hoặc dài hạn (trên 60 tháng), thêm vào đó TCTD còn phải tổng hợp báo cáo Ngân hàng Nhà nước tình hình thực hiện cho vay và đi vay với các TCTD khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. * Các quy định của pháp luật về huy động vốn thông qua việc vay vốn của Ngân hàng Nhà nước Huy động vốn bằng vay vốn Ngân hàng Nhà nước là một hình thức huy động vốn đặc biệt của các TCTD. Khác với các hình thức huy động 6 vốn nêu trên có thể tiến hành thường xuyên nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho TCTD, hình thức vay vốn Ngân hàng Nhà nước lại có liên quan chặt chẽ đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Hoạt động này được pháp luật quy định tại nhiều văn bản khác nhau như Điều 20 Luật Ngân hàng Nhà nước 1997; Điều 48 Luật các TCTD 1997. Tiếp đó là các văn bản cụ thể các điều khoản trên như: Quyết định 1452/2003/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng; Quyết định số 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/08/2003 về việc ban hành quy chế chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng Các văn bản này tập trung quy định hình thức tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước cho các TCTD là ngân hàng. Bao gồm: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác; chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác. Một số hạn chế có thể thấy ở đây, cụ thể tại Điều 11 Quyết định số 898/2003/QĐ-NHNN, đã quy định các trường hợp không chấp nhận chiết khấu của Ngân hàng nhà nước, thêm vào đó là các hạn mức cho vay hay đối tượng cho vay cũng có những quy định giới hạn nhất định. 2. Hoạt động sử dụng vốn (cấp tín dụng) a) Khái niệm: Tham khảo quy định tại khoản 14 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2010 (sẽ có hiệu lực vào năm 2011), cấp tín dụng được giải thích như sau: "Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác" Một trong số những nghiệp vụ quan trọng nhất của cấp tín dụng đó là cho vay. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi một tổ chức hay cá nhân đều phải có hoặc tự tìm kiếm cho mình một nguồn vốn nhất định để tham gia vào các quan hệ mua bán, trao đổi hay đầu tư Cho vay khác với các hình thức cấp tín dụng: chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính. Trong nghiệp vụ cho vay, các ngân hàng giao một khoản tiền nhất định trong một thời gian nhất định cho bên đi vay dùng vào mục đích nhất định và bên đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Điều này có ý nghĩa là đối với hình thức cho vay, khoản tiền vay được chuyển giao trực tiếp hoặc nhập vào tài khoản của bên đi vay. Trong nghiệp vụ chiết khấu khoản tiền vay cũng được chuyển giao tương tự như vậy. Còn đối với hình thức cho thuê tài chính thì khoản tiền vay chính là khoản tiền mà các ngân hàng dùng để mua tài sản để cho thuê. Trong trường hợp bảo lãnh 7 ngân hàng, khoản tiền vay mà bên đi vay (bên được bảo lãnh) nhận được chính là khoản tiền mà ngân hàng (bên bảo lãnh) phải trả cho bên có quyền trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Đây là một hoạt động quan trọng bậc nhất trong việc cấp tín dụng của các TCTD, mà sau đây chúng ta có thể ưu ái đề cập đến nhiều hơn. Tuy nhiên, nói như vậy không phải ta phủ định các nghiệp vụ còn lại trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng. Đó vẫn là những hoạt động cần thiết để đem lại cho nền kinh tế nhiều hơn sự lựa chọn đầu tư hay giải pháp kinh tế hiệu quả. b) Sự cần thiết có những hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dung (đặc biệt là hoạt động cho vay) của TCTD Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, mở của cho các chế định nước ngoài trên thị trường nội địa và tạo ra sân chơi bình đẳng, các TCTD Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ bên ngoài có tiềm lực tài chính mạnh hơn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm hoạt động kinh doanh quốc tế tốt hơn.Đặc biệt,là khi Việt Nam gia nhập WTO thì môi trường cạnh tranh đó lại càng khắc nghiệt hơn,vì đến năm 2020,Việt Nam phải mở cửa hoàn toàn cho các ngân hàng nước ngoài. Trong khi đó quy mô của các TCTD còn nhỏ bé, trình độ quản lý và công nghệ còn hạn chế, nhiều TCTD chưa quen với môi trường kinh doanh quốc tế. Các TCTD luôn có nguy cơ rủi ro đe doạ từ cuộc cạnh tranh không cân sức như vậy. Đồng thời, với tính chất kinh doanh kéo dài của quan hệ tín dụng, tạo ra những khoản vay lâu dài nên khả năng thu hồi vốn khi kết thúc thời hạn vay cũng không chắc chắn. Các TCTD phải luôn đối mặt với những rủi ro trong quá trình kinh doanh. Trong quan hệ cho vay, chủ yếu là dựa vào công tác thẩm định, thu thập xử lý thông tin và dự đoán thị trường. Hiện nay, trình độ nghiệp vụ của các TCTD của các cán bộ còn non yếu cũng như chế độ kiểm soát thông tin chưa thật sự có hiệu quả nên việc quản lý rủi ro cũng thật sự khó khăn. Từ các lý do trên, chúng ta có thể nhận ra rằng hoạt động kinh doanh của các TCTD cũng như hoạt động cho vay luôn chứa đựng những rủi ro. Những rủi ro này rất đa dạng có thể là do tự nhiên, do nền kinh tế cũng như do chính bản thân các chủ thể trong quan hệ tín dụng. Trong số đó, có những rủi ro mang tính khách quan, không thể kiểm soát được, và những rủi ro mang tính chủ quan có thể hạn chế, khắc phục hoặc hạn chế được. Pháp luật được đưa ra với chức năng là nhằm hạn chế tối đa những rủi ro có thể kiểm soát được. Vì vậy,an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD nhằm góp 8 phần ổn định tài chính quốc gia, là cơ sở để phát triển nền kinh tể và hội nhập với kinh tế thế giới. Các TCTD là bộ phận chủ yếu trong các trung gian tài chính, nên đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD sẽ là một nội dung quan trọng để giữ cho nền tài chính quốc gia được ổn định. Nếu các TCTD thật sự phát triển, ổn định và nâng cao hiệu quả hoạt động thì sẽ đóng vai trò then chốt và quan trọng cho việc cung ứng vốn, góp phần tăng trưởng cho nền kinh tế. Chính vì vậy, yêu cầu pháp luật cần phải quy định những biện pháp bảo đảm cần thiết duy trì ổn định cho hoạt động kinh doanh của của các TCTD, góp phần khắc phục hạn chế những hậu quả xấu có thể xảy ra. Đồng thời thông qua các quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm an toàn thể hiện sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động của các TCTD nói riêng và nền kinh tế nói chung. c) Hạn chế nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của TCTD: Cấp tín dụng là hoạt động quan trọng của TCTD, khẳng định vị trí khó có thể thay thế bởi các hình thức doanh nghiệp khác, nhưng để hoạt động này đạt được hiệu quả tốt và kéo theo sự phát triển của cả nền kinh tế thì việc đưa ra một số hạn chế cho hoạt động này cũng là cần thiết. Việc hạn chế hay không, hay hạn chế như thế nào để có một hệ thống TCTD có tiềm lực, mang lại "sức mạnh" cho nền kinh tế chung của quốc gia, ít nhiều cũng được rút ra từ thực tế nhiều năm trở lại đây. Cộng thêm sự tiên liệu về các tình huống trong tương lai của các nhà làm luật, họ đã đưa ra một số hạn chế đối với hoạt động này của TCTD. Chắc chắn nó vẫn chưa hoàn thiện, nhưng phần nào đã vá được những lỗ hổng của luật, giúp nền kinh tế lành mạnh và an toàn hơn. Hạn chế đầu tiên hay cũng có thể nói là một điều kiện, tuy nhỏ thôi nhưng cũng không thể không nhắc tới là việc tuân thủ những nguyên tắc cho vay vốn của các TCTD. Nguyên tắc vay vốn phải được quán triệt trong suốt quá trình cho vay “Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo:Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.”(Điều 6,quyết đinh 1627/2001/QĐ-NHNN).Và TCTD tự chịu trách nhiệm về quyết định trong cho vay của mình. Không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu hồi nợ của TCTD. Ngoài nghiệp vụ cho vay hoạt động của các TCTD còn xoay quanh trong một số nghiệp vụ chi tiết khác .Các nghiệp vụ này cũng đều có những hạn chế nhất định mà các TCTD cần thực hiện theo quy định của pháp luật. 9 Hạn chế thứ hai được đề cập tới đó là đối tượng được các TCTD cấp tín dụng. Theo luật Việt Nam, trong Quy chế cho vay 1627/2001/QĐNHNN, quy định tại điều 7 về điều kiện vay vốn,TCTD xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện: có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật, mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả hoặc dự án đầu tư, phương án sản xuất phục vụ đời sống khả thi kèm theo phương án trả nợ khả thi, thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Quy chế cho vay 1627 đã có bổ sung thêm một loại khách hàng mới so với các quy chế trước kia; đó là các pháp nhân và cá nhân nước ngoài có đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. Đây là một quy định mới theo hướng mở rộng khách hàng vay phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế. Ngoài ra, Điều 19 Quy chế cho vay 1627 xác định rõ những trường hợp mà TCTD không được cho vay đó là: thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc) của TCTD, cán bộ nhân viên của chính TCTD đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định cho vay, bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc).Và các trường hợp hạn chế cho vay tại điều 20 của quy chế này “ Tổ chức tín dụng không được cho vay không có bảo đảm, cho vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, về mức cho vay đối với những đối tượng sau đây: 1. Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm toán tại tổ chức tín dụng cho vay; Thanh tra viên thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại tổ chức tín dụng cho vay; 2. Kế toán trưởng của tổ chức tín dụng cho vay; 3. Các cổ đông lớn của tổ chức tín dụng; 4. Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 77 của Luật Các tổ chức tín dụng sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó”. Ngoài ra nếu nghiên cứu thêm trong Luật các tổ chức tín dụng 2010 mới đây, luật còn hạn chế một số trường hợp không được cấp tín dụng như: "Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà TCTD nắm quyền kiểm soát hay TCTD không được cấp tín dụng trên cơ sở nhận bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng; không được cho vay để góp vốn vào một TCTD khác trên cơ sở nhận tài khoản bằng cổ phiếu của chính 10 tổ chức tín dụng nhận vốn góp" (Khoản 4, 5, 6 Điều 126 Luât các TCTD 2010). Không những vậy đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng cũng được bổ sung thêm tại Điều 127 Luật các TCTD, và luật đã quy định chi tiết hơn về tổng mức dư nợ cấp tín dụng cho các trường hợp bị hạn chế của TCTD và việc phải được thông qua và công khai việc cấp tín dụng đối với những đối tượng này. Mặt khác, ngoài những quy định về đối tượng không được vay vốn hay hạn chế, thì tại Điều 9 tại Quyết định số 1627 còn đưa ra những trường hợp nhu cầu vồn không được cho vay như để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi; thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật cấm; để đáp ứng các nhu cầu chính của các giao dịch mà pháp luật cấm. Các quy định này một mặt nhằm ngăn ngừa những hiện tượng lợi dụng chức vụ quyền hạn, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra; mặt khác các hạn chế góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD,giúp các TCTD hoạt động hiệu quả.Những điều kiện đối với khách hàng là một đảm bảo an toàn đối với hoạt động cho vay.Tuy nhiên,điều đó chỉ có ý nghĩa với khách hàng vay,còn việc cho vay hay không, quyền quyết định thuộc về các TCTD. Những trường hợp mà luật quy định thêm như vậy phần nào "miễn dịch" cho các TCTD trước những hậu qủa pháp lí xấu mai sau, hạn chế bớt rủi ro khi TCTD tiến hành cấp tín dụng cho các chủ thể khác, đồng thời sử dụng nguồn vốn cho vay một cách hợp lí và hiệu quả. Hạn chế tiếp theo mà pháp luật có quy định đối với hoạt động cấp tín dụng của các TCTD đó là việc cho vay trong giới hạn được pháp luật quy định. Theo quy định tại khoản 1, 2 điều 18 Quyết định 1627/2001/QĐNHNN: tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Tại Điều 128 Luật các TCTD 2010, còn quy định thêm về vấn đề này : "Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vĩ mô.". Không những vậy, việc các TCTD cấp tín dụng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng đã có những giới hạn do Ngân hàng nhà nước quy định. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ 11 nhiều nguồn thì các tổ chức tín dụng cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. “Trong trường hợp đặc biệt, tổ chức tín dụng chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn cho vay quy định tại Khoản 1 Điều này khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đối với từng trường hợp cụ thể”. Và theo Luật các TCTD 2010 sẽ có hiệu lực vào năm sau, khoản cấp tín dụng đặc biệt này không được vượt quá bốn lần vốn tự có của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế - quốc tế, các doanh nghiệp trong nước cần phải đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh theo chiều rộng và chiều sâu, để giải quyết nhu cầu vốn đầu tư lớn này cho các doanh nghiệp đồng thời vẫn đảm bảo được giới hạn cho vay tối đa của ngân hàng đối với khách hàng, các ngân hàng đã tiến hành cho vay hợp vốn. Đối với các đối tượng hạn chế cho vay quy định tại Điều 20 Quyết định1627/2001/QĐ-NHNN, tổng dư nợ cho vay không được vượt quá 5% vốn tự có của ngân hàng (xem thêm tại khoản 2 Điều 127 Luật các TCTD 2010). Ngoài ra, để đảm bảo an toàn tiền vay, nâng cao khả năng giám sát đối với các hoạt động tín dụng, pháp luật buộc các ngân hàng phải thực hiện báo cáo Ngân hàng nhà nước (thông qua trung tâm tín dụng của ngân hàng nhà nước) các khách hàng có tổng dư nợ tiền vay từ 5% trở lên so với vốn tự có của ngân hàng. “Tổng dư nợ cho vay đối với các đối tượng quy định tại Điều 20 Quy chế này không được vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng”. Hạn chế cuối cùng cuả pháp luật đó là việc các TCTD phải duy trì tỷ lệ bảo đảm an toàn. Quy định tại điều 81,82,Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2004, đã nêu khá rõ về tỷ lệ bảo đảm an toàn và dự phòng rủi ro. Theo quy định tại khoản 1 điều 81 thì khả năng chi trả của các TCTD được xác định bằng tỷ lệ giữa tài sản "Có" có thể thanh toán ngay so với các loại tài sản "Nợ" phải thanh toán tại một thời điểm nhất định của TCTD. Để hoàn thiện môi trường pháp lý về quy chế hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng, ngày 19 tháng 4 năm 2005, Thống đốc Ngân hàng nhà nước đã ban hành Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN (mà sau này sẽ được thay thế bằng Thông tư số 13/2010/TT-NHNN có hiệu lực từ này 1/10/2010) về các tỷ lệ bảo đảm an toàn mà các TCTD phải duy trì. Theo đó, các TCTD phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản “Có “có thể thanh toán ngay và các tài sản "Nợ" sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian 1 tháng tiếp theo, tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản "Có" có thể thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo và tổng tài sản "Nợ" phải thanh toán trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo. Một loạt các tỷ lệ đảm bảo an toàn như tỷ lệ khả năng chi trả, tỉ lệ 12 an toàn vốn tối thiểu (Tổ chức tín dụng (trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro) tỉ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn, trạng thái ngoại tệ, vàng tối đa, tỷ lệ dư nợ cho vay, tỷ lệ tiền gửi trung, dài hạn, tất cả đều đã có mức tỷ lệ nhất định theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, hạn chế với quỹ dự phòng rủi ro cũng có những vai trò nhất định trong việc đảm bảo an toàn cho hoạt động của TCTD. Được quy định lần đầu tiên trong Luật các Tổ chức tín dụng 1997, các tổ chức tín dụng phải dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Khoản dự phòng rủi ro này phải được hạch toán vào chi phí hoạt động.Việc phân loại tài sản "Có", mức trích, phương pháp lập khoản dự phòng và việc sử dụng khoản dự phòng để xử lý các rủi ro trong hoạt động ngân hàng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ tài chính. Hầu hết các TCTD phải thực hiện việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, đây sẽ là biện pháp hữu hiệu, là cứu cánh trong những tính huống xấu xảy ra bất thường đối với các TCTD. Ngoài hoạt động cho vay ra ta cũng nghiên cứu thêm về các nghiệp vụ khác đã có những hạn chế mang tính tích cực nào từ phía các nhà làm luật. Trong hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của các TCTD, ngoài những nguyên tắc đã nếu ra tại Điều 4 Quyết định số 1325/2004/QĐ- NHNN mà các TCTD cần tuân thủ chặt chẽ, họ còn phải chú ý tới mức chiết khấu, tái chiết khấu đối với khách hàng. Mức này được quy định bằng 15% vốn tự có của TCTD đối với một khách hàng tối đa. Trong trường hợp chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam thì mức chiết khấu, tái chiết khấu đối với một khách hàng tối đa bằng 15% vốn tự có của ngân hàng mẹ. Việc quy định mức chiết khấu này sẽ tránh cho các TCTD những trường hợp rủi ro không đáng có, có thể lạm dụng quan hệ trong kh chiết khấu giấy tờ có giá giữa đại diện TCTD với khách hàng, và đẩy tỷ lệ chiết khấu lên cao nhằm thu lợi bất chính. Tương tự như vậy là hoạt động chiết khấum tái chiết khấu các công cụ chuyển nhượng, quy định của pháp luật đã đưa ra một " hàng rào" pháp luật về nguyên tắc và mức chiết khấu và tái chiết khấu một cách chặt chẽ. Đối với hoạt động bao thanh toán của các TCTD, theo Quyết định số 1096/2004/QĐ - NHNN đã có một số quy định chặt chẽ về điều kiện được hoạt động bao thanh toán, cũng như các trình tự, thủ tục chặt chẽ để được tiến hành bao thanh toán cho các TCTD. Ở đây, xin chỉ đề cập tới hạn chế của hoạt động này diễn ra trên thực tế nhằm đảm bảo an toàn chung cho hoạt động của TCTD. Tại điều 20 của Quyết định 1096, tổng số dư bao thanh toán cho một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của đơn vị bao thanh toán. Đối với chi nhánh ngân hàng nước 13 ngoài, tổng số dư bao thanh toán cho một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài. Trong trường hợp nhu cầu bao thanh toán của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của đơn vị bao thanh toán thì các đơn vị bao thanh toán được thực hiện đồng bao thanh toán cho khách hàng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Hạn chế dù thu hẹp lại tầm hoạt động, bao thanh toán nhưng nó là cần thiết vì
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan