BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
ĐÀO THỊ ÁNH LOAN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số cn: 8380104
Người hướng dẫn khoa học : TS. Hoàng Thị Tuệ Phương
Học viên
: Đào Thị Ánh Loan
lớp
: Cao học luật, Khóa 29
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam đoan luận văn “Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội: nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho Việt
Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tác giả, dưới sự giúp đỡ và hướng dẫn
của Ts. Hoàng Thị Tuệ Phương.
Không có sản phẩm/nghiên cứu nào của người khác được sử dụng trong luận
văn này mà không được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm tính xác thực, khách quan thông tin trích dẫn, các
số liệu có nguồn gốc rõ ràng, kết quả nghiên cứu là trung thực.
Tác giả
Đào Thị Ánh Loan
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI .................................................................................. 9
1.1. Quan điểm và mô hình tư pháp người dưới 18 tuổi trên thế giới ......... 9
1.1.1. Quan điểm pháp luật quốc tế về tư pháp hình sự người dưới 18 tuổi .. 9
1.1.2. Các mô hình tư pháp người dưới 18 tuổi trên thế giới....................... 15
1.2. Mô hình tư pháp người chưa thành niên ở Vương Quốc Anh ............ 16
1.2.1. Hệ thống tài phán ở Anh và Xứ Wales ............................................... 16
1.2.2. Hệ thống tư pháp thanh thiếu niên ở của Anh và Xứ Wales .............. 17
1.3. Hệ thống tư pháp người dưới 18 tuổi ở Việt Nam ................................ 21
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................. 28
CHƯƠNG 2. SO SÁNH QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CỦA VƯƠNG QUỐC
ANH VÀ VIỆT NAM VỀ CÁC BIỆN PHÁP GIÁM SÁT GIÁO DỤC ĐỐI
VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ......................................................... 29
2.1. Quy định pháp luật Vương Quốc Anh về các biện pháp giám sát, giáo
dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ....................................................... 29
2.1.1. Phạt cảnh cáo ..................................................................................... 29
2.1.2. Phạt tài chính ...................................................................................... 32
2.1.3. Phạt điều chuyển................................................................................. 32
2.1.4. Phạt cải tạo (hoặc Điều trị phục hồi) ................................................. 33
2.2. Quy định pháp luật Việt Nam về các biện pháp giám sát, giáo dục đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội .................................................................... 42
2.2.1.Nguyên tắc, điều kiện áp và thẩm quyền áp dụng các biện pháp giám
sát giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ........................................ 42
2.2.2. Các biện pháp giám sát, giáo dục ...................................................... 43
2.3. So sánh quy định pháp luật Vương quốc Anh và Việt Nam về các biện
pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .................... 49
2.3.1. Những điểm tương đồng ..................................................................... 49
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................. 52
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN CÁC BIỆN PHÁP GIÁM SÁT GIÁO DỤC ĐỐI
VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ......................................................... 53
3.1. Bài học kinh nghiệm từ Vương Quốc Anh về các biện pháp giám sát
giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội............................................... 53
3.2. Một số đề xuất, kiến nghị giải pháp hoàn thiện quy định liên quan đến
các biện pháp giám sát giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và
nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định này ......................................... 55
3.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về các biện pháp giám
sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ....................................... 55
3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp
giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .............................. 58
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền trẻ em là một trong những vấn đề được nhiều quốc gia trên thế giới
đề cập, quy định trong hệ thống pháp luật đặc biệt là trong pháp luật hình sự.
Ngoài ra, tại các văn kiện quốc tế có liên quan đến quyền trẻ em đều nhất quán tư
tưởng chủ đạo mang tính chất định hướng, chi phối toàn bộ quá trình xử lý người
dưới 18 tuổi đó là vì lợi ích tốt nhất của họ phải được đặt lên hàng đầu. Công ước
của Liên hợp quốc về quyền dân sự, chính trị năm 1966 khẳng định rằng mọi trẻ
em trên thế giới, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo,
nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản hoặc dòng dõi, đều có quyền được hưởng
những biện pháp bảo hộ cần thiết cho người chưa thành niên.1 Từ cơ sở này, Công
ước quốc tế về quyền trẻ em năm 19892 đã cụ thể hóa những chuẩn mực trong
công ước liên hợp quốc về quyền dân sự, chính trị 1966. Trong đó, có thể kể đến
một số quy định mang tính chuẩn mực như: “Không trẻ em nào bị tước quyền tự
do một cách bất hợp pháp hoặc tùy tiện. Việc bắt, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em phải
được tiến hành phù hợp với pháp luật và chỉ được coi là biện pháp cuối cùng và áp
dụng trong thời hạn thích hợp ngắn nhất”.3 Hay “Các quốc gia thành viên công
nhận quyền của mọi trẻ em bị coi là, bị tố cáo hay bị công nhận là đã vi phạm
pháp luật hình sự, được đối xử theo cách thức phù hợp với việc cổ vũ ý thức của
trẻ về phẩm cách và phẩm giá nhằm làm tăng lòng tôn trọng của trẻ em đối với
những quyền con người và tự do cơ bản của người khác và cũng phải tính đến lứa
tuổi của trẻ em và hướng tới thúc đẩy sự tái hoà nhập và việc đảm đương một vai
trò xây dựng của trẻ em trong xã hội”.4
Ở Việt Nam, quyền trẻ em là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà
nước quan tâm, chú trọng thông qua hàng loạt các chính sách nhằm mục đích bảo
vệ tốt nhất cho sự phát triển của họ. Trong lĩnh vực tư pháp, Việt Nam là một trong
những quốc gia đầu tiên trên thế giới phê chuẩn và tham gia Công ước quốc tế về
trẻ em, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 đã có những cách thức quy
định, tiếp cận vấn đề theo định hướng rất tiến bộ, trong đó quy định về trách nhiệm
Xem khoản 1, điều 24 Công ước Liên hợp quốc về quyền dân sự, kinh tế, chính trị năm 1966
Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em có tên tiếng Anh là: Committee on the Right of the Child (viết tắt: CRC) là
một công ước quốc tế do Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989 và có hiệu lực từ
ngày 02 tháng 09 năm 1990, quy định các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của trẻ em.
3
Article 37, Committee on the Right of the Child (CRC)
4
Article 40, Committee on the Right of the Child (CRC)
1
2
2
hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội được chú trọng rất nhiều. Tuy
nhiên, nhìn nhận từ thực tiễn thấy rằng tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội
trong những năm gần đây xu hướng không giảm, việc áp dụng hình phạt tù vẫn
chiếm đa số, các biện pháp giám sát giáo dục chưa tương xứng để mang lại hiệu
quả như mong muốn.
Đồng thời, xuất phát từ điểm chung giữa Việt Nam và Vương Quốc Anh như
đều là thành viên của Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989, tình hình người
dưới 18 tuổi phạm tội của hai nước còn diễn biến nhiều và phức tạp; trong khi đó
pháp luật về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội của
Vương Quốc anh có nhiều điểm tiến bộ mà Việt Nam có thể tiếp thu, học hỏi kinh
nghiệm trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Tình hình nghiên cứu dưới góc độ luật học so sánh về các biện pháp giám sát
giáo dục người dưới 18 tuổi nói riêng và các biện pháp thay thế hình phạt nói
chung ở Việt Nam hiện nay chưa có nhiều. Vì vậy, cần có những nghiên cứu tổng
thể, phân tích, đánh giá những quy định hiện hành về việc giám sát, giáo dục đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội trong mối quan hệ tương quan với pháp luật quốc
tế. Trên cơ sở đó có những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp
luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Các biện pháp giám
sát, giáo dục áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: nghiên cứu so sánh
và kinh nghiệm cho Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội được nghiên cứu qua các công trình như sau:
2.1. Hệ thống giáo trình, sách
- Các giáo trình: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần chung của Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh;5 Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – phần chung của
Đại học Luật Hà Nội;6 Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung) của Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội do GS.TSKH Lê Văn Cảm (chủ biên).7 Giáo trình
Luật Hình sự Việt Nam - Phần chung của Trường Đại học Luật, Đại học Huế do
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB Hồng
Đức, Hà Nội.
6
Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB Công an nhân
Dân, Hà Nội.
7
Lê Văn Cảm (2021), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
5
3
TS. Nguyễn Ngọc Kiện (chủ biên).8 Các giáo trình này đã tập trung làm rõ các vấn
đề về mặt lý luận có liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội từ cơ sở của
nguyên tắc, các nguyên tắc chung đến các biện pháp giáo dục, giám sát; từ đó, tạo
một nền tảng về mặt lý luận, nhận thức đối với việc nghiên cứu những vấn đề mà
đề tài đang tập trung làm rõ về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới
18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam.
- Các sách, bình luận khoa học có các công trình như sau: Bình luận khoa
học Những điểm mới của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) của
PGS.TS Nguyễn Thị Phương Hoa, TS. Phan Anh Tuấn (chủ biên).9 Bình luận
Khoa học Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) của GS.TS Nguyễn Ngọc
Hòa.10 Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 – Phần thứ nhất, những quy định
chung của tác giả Đinh Văn Quế.11
Các tác giả đã phân tích chuyên sâu về những quy định pháp luật hình sự
cũng như đã nêu ra những điểm mới trong quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
so với trước đây. Trong đó, tập trung vào những biện pháp giám sát, giáo dục dành
riêng cho người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm: khiển trách, hòa giải tại cộng đồng
và giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Các tác giả đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể,
rõ ràng từ các Báo cáo Tòa án, báo cáo của Ban soạn thảo Bộ luật hình sự để làm
rõ những vấn đề mà đề tài đang tập trung nghiên cứu.
2.2. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật học
- Đối với luận án tiến sĩ luật học: “Chính sách hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hoàng Minh Đức.12 Tác
giả đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội và triển khai thực hiện các chính sách này đối với
người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay. Qua luận án này, chúng tôi
có cái nhìn tổng quát về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm
tội ở Việt Nam hiện nay; từ đó làm cơ sở để kiến nghị hoàn thiện các quy định
pháp luật.
Nguyễn Ngọc Kiện (2020), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB Tư Pháp, Hà Nội.
Nguyễn Thị Phương Hoa, Phan Anh Tuấn (chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật
Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017), NXB Hồng Đức, Hà Nội.
10
Nguyễn Ngọc Hòa (2017), Bình luận Khoa học Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), NXB Tư Pháp,
Hà Nội.
11
Đinh Văn Quế (2017), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 – Phần thứ nhất, những quy định chung, NXB
Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
12
Hoàng Minh Đức (2016), Chính sách đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay, Luận án
tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
8
9
4
- Nhóm luận văn thạc sĩ có thể kể đến các tác giả như: Trần Ngọc Lan Trang
(2017)13; Nguyễn Văn Hoàn (2018);14 Trần Hồng Nhung (2017);15 Lê Ngọc Cảnh
(2010);16…Trong đó:
+ Tác giả Trần Ngọc Lan Trang (2017) đã đề cập đến các biện pháp thay thế
cho hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình
sự 2015. Tác giả đã nêu ra và phân tích, làm rõ các biện pháp thay thế hình phạt
trong đó tập trung vào các biện pháp giáo dục, giám sát đối với người chưa thành
niên phạm tội.
+ Tác giả Nguyễn Văn Hoàn (2018) đã có nghiên cứu so sánh về các biện
pháp thay thế cho hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội –
nghiên cứu so sánh pháp luật Newzealand và Việt Nam. Tác giả đã khái quát về
các quy định pháp luật của Newzealand và Việt Nam về các biện pháp thay thế
hình phạt, trên cơ sở so sánh giữa pháp luật của hai quốc gia, tác giả đã nêu ra một
số kinh nghiệm cho Việt Nam.
+ Tác giả Trần Hồng Nhung (2017) đã tập trung nêu lên các biện pháp giáo
dục, giám sát và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy
định của pháp luật Việt Nam. Tác giả nêu lên nguyên nhân, điều kiện, thực tiễn
áp dụng pháp luật tại Việt Nam đối với việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội.
Từ đó, tác giả nêu ra 3 nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho việc áp dụng
các biện pháp giám sát giáo dục, các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.
2.3. Nhóm công trình nghiên cứu khoa học, tạp chí
- Nhóm về các công trình, bài viết có liên quan đề đề tài. Đó là các công
trình của Bộ Tư pháp và Unicef (2019); Các biện pháp giám sát, giáo dục áp
dụng cho người chưa thành niên phạm tội: Nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm
cho Việt Nam. Công trình dự thi nghiên cứu khoa học sinh viên cấp trường lần
thứ XXI năm học 2018 – 2019 của nhóm tác giả Trần Thị Thu Thủy và các thành
Trần Ngọc Lan Trang (2017), Các biện pháp thay thế cho hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học luật TP.
Hồ Chí Minh.
14
Nguyễn Văn Hoàn (2018), Các biện pháp thay thế cho hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội – nghiên cứu so sánh pháp luật Newzealand và Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học luật TP.
Hồ Chí Minh.
15
Trần Hồng Nhung (2017), Các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
16
Lưu Ngọc Cảnh (2010), Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
13
5
viên khác;17 Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về các
biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng dẫn của Liên
Hợp quốc về Tư pháp phục hồi của tác giả Lê Huỳnh Tấn Duy;18 Thực thi Công
ước Quyền trẻ em ở Việt Nam:Tuổi chịu trách nhiệm hình sự và chế tài đối với
người chưa thành niên phạm tội của tác giả Phạm Thị Thanh Nga;19 Đào Thị Thu
An;20 Mô hình tư pháp người chưa thành niên theo định hướng của Liên Hợp
Quốc của tác giả Lê Huỳnh Tấn Duy21…Trong đó:
+ Trần Thị Thuy Thủy và nhóm các thành viên khác với công trình nghiên
cứu: Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng cho người chưa thành niên phạm
tội: Nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho Việt Nam. Nhóm tác giả ngoài việc
khai quát về hệ thống quy định pháp luật, các nguồn pháp luật quốc tế cũng như
các quy định pháp luật các quốc gia về các biện pháp giám sát giáo dục áp dụng
cho người chưa thành niên. Nhóm tác giả đã đưa ra những so sánh, từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
+ Báo cáo nghiên cứu pháp luật về phòng ngừa, xử lý, phục hồi, tái hòa nhập
cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật và tình hình người
chưa thành niên vi phạm pháp luật tại Việt Nam do Bộ Tư Pháp và Quỹ Nhi Đồng
Liên Hợp quốc (UNICEF) thực hiện ngoài phần tổng quan và các chuẩn mực quốc
tế về tư pháp người chưa thành niên đã nêu ra những quy định pháp luật về giám
sát, giáo dục, phòng ngừa, xử lý, phục hồi người chưa thành niên vi phạm pháp
luật. Báo cáo cũng chỉ ra thực trạng và có những đánh giá, nhận xét về vấn đề này.
Đồng thời, từ những kết quả nghiên cứu đưa ra 9 nhóm khuyến nghị cho Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tác giả trên cơ sở nghiên cứu và so sánh các quy định
về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp
Trần Thị Thu Thủy và các thành viên khác (2018), Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng cho người chưa
thành niên phạm tội: Nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho Việt Nam. Công trình dự thi nghiên cứu khoa học
sinh viên cấp trường lần thứ XXI năm học 2018 – 2019. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
18
Lê Huỳnh Tấn Duy (2017), Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về các biện pháp giám
sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng dẫn của Liên Hợp quốc về Tư pháp phục hồi, Tạp chí Khoa
học pháp lý số 06/2015.
19
Phạm Thị Thanh Nga (2014), Thực thi Công ước Quyền trẻ em ở Việt Nam:Tuổi chịu trách nhiệm hình sự và
chế tài đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 18 (274).
20
Đào Thị Thu An. “Pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên và việc thực thi
các công ước quốc tế mà Việt Nam đã phê chuẩn”. https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/118/823 (truy
cập 27/4/2021)
21
Lê Huỳnh Tấn Duy (2014), Mô hình tư pháp người chưa thành niên theo định hướng của Liên Hợp Quốc,
Tạp chí Khoa học pháp lý số 05/2014.
17
6
luật Hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự của Vương quốc Anh. Từ đó, đưa ra
những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hình sự Việt Nam về các vấn đề mà
đề tài trọng tâm nghiên cứu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài tập trung vào những
nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
- Nghiên cứu về mặt lý luận tư pháp hình sự đối với người dưới 18 tuổi trên
thế giới, mô hình tư pháp hình sự người chưa thành niên của Vương Quốc Anh và
Việt Nam để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt trong mục đích tư
pháp hình sự đối với người chưa thành niên của hai quốc gia.
- Làm sáng tỏ nội dung các quy định hiện hành của pháp luật hình sự Việt
Nam và Vương Quốc Anh về các biện pháp giám sát giáo dục đối với người dưới
18 tuổi phạm tội; từ đó so sánh để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt,
rút ra một số kinh nghiệm và đề xuất hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về các biện pháp giám
sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong hệ thống pháp luật của
Vương Quốc Anh và Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu những quy định về các biện pháp giám sát, giáo dục
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017). Đối chiếu so sánh với các quy định tại Đạo luật Tội phạm và
Hành vi gây rối 1998 (Crime & Disorder Act 1998); Đạo luật Nhập cư và Tư pháp
hình sự 2008 (Criminal Justice and Immigration Act 2008); Đạo luật hỗ trợ pháp
lý kết án và trường phạt kẻ vi phạm 2012 (Legal Aid, Sentencing and Punishment
of Offenders Act 2012).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu với các phương pháp so sánh, phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê. Cụ thể:
Chương 1: Tác giả sử dụng phương pháp liệt kê, phân tích tài liệu, thống kê,
tổng hợp để làm rõ những vấn đề lý luận về tư pháp người chưa thành niên theo
7
pháp luật quốc tế, mô hình tư pháp đối với người dưới 18 tuổi theo pháp luật của
Vương Quốc Anh và Việt Nam.
Chương 2: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích tài liệu, so sánh, tổng hợp
để nhằm làm rõ những quy định pháp luật của Vương Quốc Anh và Việt Nam về
các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; đồng thời, so
sánh những điểm tương đồng và khác biệt trong tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
Chương 3: Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích hệ thống để
đưa ra những hướng giải pháp cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự
Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Luận văn đã khái quát và hệ thống hóa được các quy định pháp luật của
Vương Quốc Anh và Việt Nam về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Từ đó, rút ra được những kinh nghiệm từ pháp luật của
Vương Quốc Anh, làm tư liệu cho việc hoạch định, xây dựng và hoàn thiện quy
định pháp luật hình sự ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Luận văn góp phần phục vụ cho việc nghiên cứu lý luận, quy định trong
pháp luật công tác áp dụng các quy định pháp luật trong thực tiễn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Đồng thời, luận văn cũng được hy vọng sẽ là nguồn tài liệu
tham khảo phục vụ cho quá trình nghiên cứu học tập của sinh viên, học viên cũng
như những người làm thực tiễn (luật sư, thẩm phán, kiểm sát viên…)
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và các phụ lục. Luận văn
được kết cấu 03 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
1.1. Quan điểm và mô hình tư pháp người dưới 18 tuổi trên thế giới
1.2. Mô hình tư pháp người dưới 18 tuổi ở Vương Quốc Anh
1.3. Mô hình tư pháp người dưới 18 tuổi ở Việt Nam
8
Chương 2. So sánh quy định pháp luật của Vương Quốc Anh và Việt
Nam về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
2.1. Quy định pháp luật của Vương Quốc Anh đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
2.2. Quy định pháp luật của Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
2.3. So sánh quy định pháp luật Vương quốc Anh và Việt Nam về các biện
pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 3. Một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện các quy định liên quan
đến các biện pháp giám sát giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
9
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƯ PHÁP
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Quan điểm và mô hình tư pháp người dưới 18 tuổi trên thế giới
1.1.1. Quan điểm pháp luật quốc tế về tư pháp hình sự người dưới 18 tuổi
Bộ luật nhân quyền quốc tế (the International Bill of Human Rights) là cốt
lõi của văn kiện quốc tế về quyền con người. Trong đó, Công ước quốc tế về các
quyền chính trị, dân sự năm 1966 (ICCPR)22 có vai trò rất quan trọng đối với việc
ràng buộc tính pháp lý đối với những quốc gia tham gia vào công ước về việc tôn
trọng cũng như phải bảo đảm các quyền dân sự và chính trị của con người.23 Đến
năm 1989, Công ước quốc tế về Quyền trẻ em năm 198924 ra đời nhằm đảm bảo
cho sự phát triển tốt nhất cho trẻ em.25 Theo đó, hai văn kiện quốc tế này hướng
đến việc trẻ em được hưởng tất cả các quyền trong mà Công ước đã quy định.
Ngoài ra, còn có các văn kiện quốc tế khác quy định về tư pháp đối với người dưới
18 tuổi như Quy tắc Bắc Kinh, Hướng dẫn làm việc với trẻ em trong hệ thống tư
pháp hình sự (Nghị quyết 1997/30 của Liên Hợp quốc).
1.1.1.1. Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự năm 1966 (ICCPR)
Theo quy định của ICCPR thì “tố tụng áp dụng đối với những người chưa
thành niên phải xem xét tới độ tuổi của họ và mục đích thúc đẩy sự phục hồi nhân
cách của họ”.26 Theo quy định này, trong các vụ án có bị can, bị cáo là người chưa
thành niên, các thủ tục tố tụng cần xem xét đến độ tuổi của họ và thúc đẩy sự tái
hoà nhập của họ. Đồng thời, Ủy ban nhân quyền cũng đưa ra khuyến nghị tại Bình
luận chung số 32, kêu gọi các quốc gia phải thành lập một hệ thống tư pháp người
chưa thành niên thích hợp để đảm bảo rằng người chưa thành niên được đối xử một
cách phù hợp với độ tuổi của họ, phải căn cứ vào mức độ trưởng thành về thể chất
và tinh thần của người chưa thành niên để xác lập một độ tuổi tối thiểu mà dưới
tuổi đó thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.27 Và cũng tại Bình luận chung số
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị có tên tiếng Anh là International Convenant on Civil and
Political Rights, viết tắt là “ICCPR”
23
Việt Nam tham gia công ước năm 1982
24
Công ước quốc tế về Quyền trẻ em có tên tiếng Anh là Convention on the Rights of the Child, viết tắt là “CRC”.
25
Việt Nam tham gia vào năm 1990 và là quốc gia thứ hai trên thế giới và đầu tiên của Châu Á phê chuẩn Công
ước này
26
Khoản 4, điều 14 ICCPR.
27
Xem: General Comment No. 32, CCPR/C/GC/32, 23 August 2007, para. 43,
Nguồn: https://www.refworld.org/docid/478b2b2f2.html (truy cập lần cuối vào 12/9/2021)
22
10
32 này, Ủy ban nhân quyền cũng đưa ra khuyến nghị các quốc gia áp dụng những
biện pháp xử lý thay thế cho biện pháp tố tụng hình sự để giải quyết các vụ phạm
pháp của người chưa thành niên.28 Theo đó, các biện pháp gợi ý được Ủy ban nhân
quyền nêu ra là:29
- Hoà giải giữa người vi phạm và người bị hại;
- Hội ý với gia đình của người vi phạm;
- Tư vấn hoặc cung cấp những dịch vụ cộng đồng hoặc các chương trình
giáo dục người vi phạm,...
Và các biện pháp phải tuân thủ điều kiện là tương thích với các yêu cầu của
ICCPR và các tiêu chuẩn quốc tế khác về quyền con người.
Như vậy, ICCPR ghi nhận rằng vấn đề tư pháp người chưa thành niên phải
xem xét dựa vào độ tuổi của họ và việc xử lý họ phải nhằm mục đích thúc đẩy sự
phục hồi nhân cách. Bên cạnh đó, Uỷ ban nhân quyền cũng khuyến nghị các quốc
gia phải thành lập một hệ thống tư pháp phù hợp cho người chưa thành niên đồng
thời khi giải quyết các vụ phạm pháp của đối tượng này cần áp dụng những biện
pháp xử lý thay thế cho biện pháp tố tụng hình sự30.
1.1.1.2. Công ước Liên Hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 - CRC
Đây là văn kiện được xem là có ảnh hưởng trực tiếp và lớn nhất đến các
quyền dân sự và chính trị của trẻ em. Có nhiều điều khoản điều chỉnh đến tư pháp
hình sự đối với người dưới 18 tuổi dựa trên nguyên tắc chung được văn kiện nêu
ra, bao gồm:
Thứ nhất, nguyên tắc trẻ em không bị phân biệt đối xử (điều 2)31. Theo đó, các
quốc gia thành viên phải tôn trọng và bảo đảm những quyền được nêu ra trong công
ước này đối với mọi trẻ em thuộc quyền tài phán của họ mà không có bất cứ sự phân
biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính
28
Xem thêm: General Comment No. 32, CCPR/C/GC/32, 23 August 2007, para. 44,
Nguồn: https://www.refworld.org/docid/478b2b2f2.html (truy cập lần cuối vào 12/9/2021)
29
Xem thêm General Comment No. 32, CCPR/C/GC/32, 23 August 2007, para. 44,
Nguồn: https://www.refworld.org/docid/478b2b2f2.html (truy cập lần cuối vào 12/9/2021)
30
Trần Ngọc Lan Trang (2017), tlđd (13), tr18.
31
Article 2 CRC 1989: “1. States Parties shall respect and ensure the rights set forth in the present Convention
to each child within their jurisdiction without discrimination of any kind, irrespective of the child's or his or her
parent's or legal guardian's race, colour, sex, language, religion, political or other opinion, national, ethnic or
social origin, property, disability, birth or other status. 2. States Parties shall take all appropriate measures to
ensure that the child is protected against all forms of discrimination or punishment on the basis of the status,
activities, expressed opinions, or beliefs of the child's parents, legal guardians, or family members”.
11
trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc, sắc tộc hay xã hội, tài sản, khuyết tật,
thành phần xuất thân hay địa vị khác của trẻ em hoặc cha mẹ hay người giám hộ hợp
pháp của trẻ em đó. Các Quốc gia thành viên phải thi hành mọi biện pháp thích hợp
để bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ trước mọi hình thức phân biệt đối xử hoặc trừng
phạt vì các lý do địa vị, hoạt động, những ý kiến phát biểu hoặc tín ngưỡng của cha
mẹ, người giám hộ pháp lý hoặc những thành viên khác trong gia đình của trẻ em.
Thứ hai, nguyên tắc đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ em (Điều 3). Theo đó,
“trong tất cả những hành động liên quan đến trẻ em, dù do các cơ quan phúc lợi xã
hội công cộng hay tư nhân, toà án, các nhà chức trách hành chính hay các cơ quan
lập pháp tiến hành thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu”32.
Đây là nguyên tắc được xem là mang tính định hướng cho việc ghi nhận và áp
dụng các quyền đối với trẻ em trong công ước, mặc dù không thể hiện hay nêu ra,
giải thích “lợi ích tốt nhất”. Về bản chất nguyên tắc cho thấy mang tính chất chủ
đạo đối với việc áp dụng quyền của trẻ em một cách có lợi ích tốt nhất và bao hàm
trong đó là những quyền tư pháp đối với trẻ em.
Thứ ba, nguyên tắc về quyền tồn tại và phát triển cuộc sống (điều 6).
Nguyên tắc này ghi nhận quyền sống là quyền vốn có, các quốc gia phải bảo đảm
đến mức tối đa có thể được sự sống còn và phát triển của trẻ em33. Theo nguyên tắc
này, việc bảo đảm quyền sống, quyền phát triển là việc bắt buộc đối với mỗi quốc
gia, trong đó cũng liên quan đến tư pháp hình sự đối với trẻ em đặc biệt là trong
chế định về hình phạt.
Thứ tư, nguyên tắc về quyền được tham gia của trẻ em (điều 12). Theo nguyên
tắc này, trẻ em có quyền được tự do biểu đạt và phát biểu quan điểm của mình về mọi
vấn đề có liên quan đến trẻ em. Khi thực hiện quyền này, trẻ em phải được tôn trọng
và không có bất kì một cản trở nào. Từ đó, “trẻ em phải được đặc biệt trao cơ hội nói
lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có liên
quan đến trẻ, trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp,
theo cách thức phù hợp với những quy tắc thủ tục trong pháp luật quốc gia”34.
Article 3 CRC 1989: “1. In all actions concerning children, whether undertaken by public or private social
welfare institutions, courts of law, administrative authorities or legislative bodies, the best interests of the child
shall be a primary consideration”.
33
Article 6 CRC 1989: “1. States Parties recognize that every child has the inherent right to life. 2. States
Parties shall ensure to the maximum extent possible the survival and development of the child.”
34
Article 12 CRC 1989: “2. For this purpose, the child shall in particular be provided the opportunity to be
heard in any judicial and administrative proceedings affecting the child, either directly, or through a
representative or an appropriate body, in a manner consistent with the procedural rules of national law”.
32
12
Ngoài những nguyên tắc chung, CRC còn quy định trực tiếp đến các vấn đề
về tư pháp đối với người chưa thành niên. Cụ thể, điều 37, CRC quy định:
“Người chưa thành niên chỉ bị bắt, giam giữ hoặc phạt tù khi đó là giải pháp cuối
cùng”35 hay “những người dưới 18 tuổi nếu gây ra những hành động phạm pháp
sẽ không bị áp dụng hình phạt tử hình hoặc tù chung thân mà không có khả năng
được phóng thích”36. Tại khoản 1, điều 40, CRC cũng quy định: “Các quốc gia
thành viên công nhận quyền của mọi trẻ em bị coi là, bị tố cáo hay bị công nhận
là đã vi phạm pháp luật hình sự, được đối xử theo cách thức phù hợp với việc cổ
vũ ý thức của trẻ về phẩm cách và phẩm giá nhằm làm tăng lòng tôn trọng của trẻ
em đối với những quyền con người và tự do cơ bản của người khác và cũng phải
tính đến lứa tuổi của trẻ em và hướng tới thúc đẩy sự tái hoà nhập và việc đảm
đương một vai trò xây dựng của trẻ em trong xã hội”37. Đồng thời, CRC cũng đưa
ra các quy định đảm bảo tố tụng tối thiểu cho người chưa thành niên vào thời
điểm bị bắt giữ, xét xử và kết án và yêu cầu các quốc gia thành viên quy định độ
tuổi tối thiểu chịu trách nhiệm hình sự và các biện pháp xử lý người chưa thành
niên vi phạm pháp luật hình sự mà không phải áp dụng thủ tục tố tụng tư pháp
chính thức.
1.1.1.3. Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa vi phạm pháp luật của
người chưa thành niên (Hướng dẫn Riyadh)38
Trong hướng dẫn này cũng ghi nhận những quy tắc nhằm phòng ngừa vi
phạm pháp luật của người chưa thành niên. Trong đó, quy tắc số 52 quy định: “Các
chính phủ cần ban hành và thực hiện những đạo luật và thủ tục đặc biệt nhằm thúc
đẩy, bảo vệ các quyền và phúc lợi của mọi người chưa thành niên”.39 Ngoài ra, tại
quy tắc số 58 cũng quy định: “Cán bộ thi hành pháp luật và những người liên quan
khác, cả nam và nữ, cần được huấn luyện để đáp ứng các nhu cầu của người chưa
Article 37 CRC 1989: “(b). No child shall be deprived of his or her liberty unlawfully or arbitrarily. The
arrest, detention or imprisonment of a child shall be in conformity with the law and shall be used only as a
measure of last resort and for the shortest appropriate period of time”
36
Article 37 CRC 1989: “(a)...Neither capital punishment nor life imprisonment without possibility of release
shall be imposed for offences committed by persons below eighteen years of age”
37
Article 40 CRC 1989: “1. States Parties recognize the right of every child alleged as, accused of, or
recognized as having infringed the penal law to be treated in a manner consistent with the promotion of the
child's sense of dignity and worth, which reinforces the child's respect for the human rights and fundamental
freedoms of others and which takes into account the child's age and the desirability of promoting the child's
reintegration and the child's assuming a constructive role in society”.
38
Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa vi phạm pháp luật của người chưa thành niên có tên tiếng Anh
là United Nations Guidelines for the Prevention of Juvenile delinquency sau đây gọi là Hướng dẫn Riyadh
39
Rule 52 Riyadh 1990: “Governments should enact and enforce specific laws and procedures topromote and
protect the rights and well-being of all young persons”.
35
13
thành niên và cần được làm quen, sử dụng tới mức tối đa các chương trình và các
khả năng có thể trung chuyển họ cho cơ quan khác xử lý để tránh sự can thiệp của
hệ thống tư pháp”.40
Những quy tắc được ghi nhận trong hướng dẫn này nhằm bảo vệ quyền lợi
của người chưa thành niên cũng như chuyển hướng xử lý đối với trường hợp
những trẻ em vi phạm pháp luật hình sự (xử lý chuyển hướng).
1.1.1.4. Quy tắc Bắc Kinh
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật
với người chưa thành niên - Quy tắc Bắc Kinh41 là một trong những văn kiện rất
quan trọng và không thể không nhắc tới khi nghiên cứu về tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi. Trong nhiều khuyến nghị mà BR đưa ra trong bộ quy tắc thì
có những quy tắc khuyến nghị các quốc gia áp dụng việc chuyển hướng trogn
xử lý hình sự đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Đặc biệt là đối
với các tội danh ít nghiêm trọng42 bằng việc khuyến nghị đề xuất thay thế bằng
một số biện pháp như: yêu cầu về chăm sóc, hướng dẫn và giám sát, hình thức
quản chế, yêu cầu về sự giúp đỡ của các tổ chức cộng đồng, yhững hình phạt về
tài chính, bồi thường và hoàn trả; yêu cầu xử lý qua trung gian hay những cách
xử lý khác43,…
Ngoài ra, BR đề ra mục tiêu của áp dụng tư pháp đối với người chưa thành
niên tại Quy tắc 5 là: “Áp dụng tư pháp đối với người chưa thành niên cần chú
trọng đến phúc lợi của người chưa thành niên, và phải bảo đảm rằng bất cứ việc xét
xử nào đối với người chưa thành niên phạm tội phải luôn xem xét hoàn cảnh của
người phạm tội cũng như hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội”44
Theo đó, mục tiêu đưa ra phải chú trọng đến phúc lợi cho người chưa thành
niên khi tiến hành áp dụng các biện pháp tư pháp và việc xét xử phải được xem xét
Rule 58 Riyadh 1990: “58. Law enforcement and other relevant personnel, of both sexes, should be
trained to respond to the special needs of young persons and should be fam iliar with and use, to the
maximum extent possible, programmes and referral possibilities for the diversion of young persons from
the justice system”.
41
Quy tắc Bắc Kinh có tên tiếng Anh là The Beijing Rules, sau đây gọi tắt là “BR”, là tập hợp các quy tắc tiêu
chuẩn tối thiểu, toàn diện về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên, đượcthông qua theo Nghị
quyết 40/33 ngày 29/11/1985 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc
42
Xem thêm Rule 11, BR 1985.
43
Xem thêm Rule 18, BR 1985.
44
Rule 5, BR 1985: “The juvenile justice system shall emphasize the well-being of the juvenile and shall ensure
that any reaction to juvenile offenders shall always be in proportion to the circumstances of both the offenders
and the offence”.
40
14
đến hoàn cảnh của người chưa thành niên phạm tội, đồng thời xem xét đến haonf
cảnh dẫn đến hành vi phạm tội (tính tương xứng).
1.1.1.5. Hướng dẫn làm việc với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự (Nghị
quyết 1997/30 của Liên Hợp quốc)45
Trong hướng dẫn này thể hiện mục đích bảo vệ về quyền trẻ em và đạt được
các mục tiêu đã đề ra trong công ước mà liên quan đến trẻ em trong bối cảnh tư
pháp người chưa thành niên, cũng như để sử dụng và áp dụng các quy tắc và tiêu
chuẩn của Liên Hợp Quốc về tư pháp người chưa thành niên và những văn kiện
khác có liên quan. Trong đó, tại điều 11 nhấn mạnh: “Các nguyên tắc và quy định
của Công ước về quyền trẻ em cũng như các quy tắc và tiêu chuẩn của Liên Hợp
Quốc về tư pháp người chưa thành niên cần phải được phản ánh đầy đủ trong hệ
thống pháp luật và thực tiễn của quốc gia và địa phương, đặc biệt là thông qua việc
thiết lập một hệ thống tư pháp người chưa thành niên hướng tới trẻ em, mà có thể
bảo đảm các quyền của trẻ em, ngăn chặn sự vi phạm các quyền của trẻ em, thúc
đẩy ý thức về nhân phẩm và giá trị của trẻ em, và tôn trọng đầy đủ các yếu tố về độ
tuổi, giai đoạn phát triển, quyền được tham gia thực sự và sự đóng góp của trẻ em
với xã hội”.46
Ngoài ra, việc khuyến khích các quốc gia thành lập tòa án chuyên biệt để xét
xử người chưa thành niên tại điều 14 như sau: “Các quốc gia cần thiết lập các tòa
án xét xử tội phạm vị thành niên với thẩm quyền xét xử chủ yếu đối với những
người chưa thành niên phạm tội hình sự, và các thủ tục đặc biệt cần được xây dựng
để đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của trẻ em. Các tòa án thông thường cần áp
dụng các thủ tục đó như một biện pháp thay thế nếu thích hợp. Trong trường hợp
cần thiết, các biện pháp lập pháp và các biện pháp khác cần được xem xét để hài
hòa với tất cả các quyền của trẻ em và để bảo vệ trẻ em khi bị đưa ra xét xử trước
một tòa án mà không phải là một tòa án xét xử tội phạm vị thành niên, phù hợp với
các điều 3, 37 và 40 của Công ước về quyền trẻ em”.47
Tên tiếng Anh là Guidelines for Action on Children in the Criminal Justice System được thông qua ngày
21/7/1997
46
Xem thêm Article 11, Guidelines for Action on Children in the Criminal Justice System
Nguồn: https://www.ohchr.org/EN/Professionalinterest/Pages/CriminalJusticeSystem.aspx (truy cập ngày
14/9/2021).
47
Article 14, Guidelines for Action on Children in the Criminal Justice System: “(d) States should establish
juvenile courts with primary jurisdiction over juveniles who commit criminal acts and special procedures
should be designed to take into account the specific needs of children. As an alternative, regular courts should
incorporate such procedures, as appropriate. Wherever necessary, national legislative and other measures
should be considered to accord all the rights of and protection for the child, where the child is brought before a
court other than a juvenile court, in accordance with articles 3, 37 and 40 of the Convention”.
45
15
1.1.2. Các mô hình tư pháp người dưới 18 tuổi trên thế giới
1.1.2.1. Mô hình tư pháp an sinh phúc lợi
Mô hình hệ thống tư pháp riêng cho người chưa thành niên được xây dựng
lần đầu tiên tại Cook Country, bang IIIinois (Mỹ) vào năm 1899. Mô hình tư pháp
cho người chưa thành niên mới mẻ này quan tâm đến ba nhóm người chưa thành
niên: người chưa thành niên bị cáo buộc phạm tội; người chưa thành niên bị xâm
hại, xao nhãng hoặc bị bóc lột; và người chưa thành niên không còn sự chăm sóc
của cha mẹ đã mất, bị khuyết tật hoặc vì các lý do khác. Lý do để đưa tất cả những
đối tượng người chưa thành niên này vào phạm vi tài phán của một hệ thống toà án
chuyên biệt dựa trên quan điểm nhìn nhận tất cả những người chưa thành niên đó
là những đối tượng có nguy cơ cao, dễ bị tổn hại do độ tuổi và hoàn cảnh của các
em. Do đó, cần phải có sự can thiệp của Nhà nước để bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
và hướng dẫn các em.
Hướng tiếp cận này trong việc xử lý những hành vi vi phạm của thanh thiếu
niên thường được gọi là mô hình “phục hồi” hay mô hình “an sinh phúc lợi”. Mô
hình này tập trung chủ yếu vào việc “chẩn đoán” và “điều trị” cho thanh thiếu niên
vi phạm pháp luật. Các phiên toà luôn được xét xử kín để bảo vệ thông tin nhận
diện của trẻ em và cho phép những trẻ em này khi trưởng thành có một “lý lịch
sạch”. Toà án người chưa thành niên hoạt động mang tính không chính thức hơn so
với toà án dành cho người đã trưởng thành rất nhiều, trong đó thẩm phán đóng vai
trò của một “vị phụ huynh nghiêm khắc” hơn là vai trò người bảo vệ quyền năng tố
tụng. Ban đầu mô hình toà án này phát huy tác dụng rất lớn và được nhiều nước áp
dụng. Nhưng do xu hướng trẻ em phạm tội ngày càng gia tăng nên nhiều nước đã
chuyển sang mô hình thứ hai, tức mô hình “trừng phạt”48
1.1.2.2. Mô hình công lý (Mô hình trừng phạt)
Vào đầu những năm 1970 của thế kỷ trước, một số nước phương Tây bắt đầu
chuyển dần từ mô hình “an sinh phúc lợi” - sang thay thế bằng những hướng tiếp
cận mang tính trừng phạt đối với tội phạm do người chưa thành niên thực hiện, tức
là giảm sự tập trung vào nhu cầu của người chưa thành niên và tăng tập trung vào
bản chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.49
Nguyễn Hữu Thế Trạch, “Một số ý kiến về thành lập toà án cho người chưa thành niên ở Việt Nam” Nguồn:
http://www.hcmcbar.org/NewsDetail.aspx?CatPK=2&NewsPK=161 (truy cập ngày 18/10/2021)
49
Nguyễn Hữu Thế Trạch, tlđd (48)
48
- Xem thêm -