Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bước đầu khảo sát sự chuyển đổi chức năng - nghĩa từ vựng trong tiếng việt...

Tài liệu Bước đầu khảo sát sự chuyển đổi chức năng - nghĩa từ vựng trong tiếng việt

.PDF
117
899
99

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------LÊ THỊ LAN ANH BƯỚC ĐẦU KHẢO SÁT SỰ CHUYỂN ĐỔI CHỨC NĂNG-NGHĨA TỪ VỰNG TRONG TIẾNG VIỆT (Trên tư liệu thuật ngữ) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI - 2007 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------LÊ THỊ LAN ANH BƯỚC ĐẦU KHẢO SÁT SỰ CHUYỂN ĐỔI CHỨC NĂNG-NGHĨA TỪ VỰNG TRONG TIẾNG VIỆT (Trên tư liệu thuật ngữ) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC CHUYÊN NGÀNH : NGÔN NGỮ HỌC MÃ SỐ : 60 22 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. LÊ QUANG THIÊM HÀ NỘI - 2007 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 01 2. Đối tượng nghiên cứu 04 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 05 4. Phương pháp nghiên cứu 06 5. Ý nghĩa của luận văn 07 6. Bố cục của luận văn 07 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU SỰ 09 CHUYỂN ĐỔI CHỨC NĂNG-NGHĨA TỪ VỰNG TRONG NGÔN NGỮ 1.1. Chức năng và các phạm vi chức năng trong ngôn ngữ 09 1.2. Chức năng-nghĩa của từ 12 1.3. Sự chuyển đổi chức năng-nghĩa từ vựng 15 1.4. Sơ lược về việc nghiên cứu sự chuyển đổi chức năng-nghĩa 18 CHƢƠNG 2: SỰ CHUYỂN ĐỔI CHỨC NĂNG - NGHĨA TRONG 27 PHẠM VI DANH TỪ 2.1. Về các loại danh từ 27 2.2. Sự kiêm chức năng-nghĩa của danh từ trong các phạm vi khoa học 33 khác nhau 2.3. Kết quả phân tích định lượng 35 2.3.1. Về lĩnh vực khoa học tự nhiên 35 2.3.2. Về lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn 38 2.4. Kết quả phân tích định tính 46 2.4.1. Trƣờng hợp cùng một lĩnh vực chuyên môn, thuật ngữ kiêm 46 nhiều chức năng-nghĩa khác nhau 2.4.1.1. Thuật ngữ kiêm hai nghĩa khác nhau 46 2.4.1.2. Thuật ngữ kiêm ba nghĩa khác nhau 47 2.4.1.3. Thuật ngữ kiêm bốn nghĩa khác nhau 49 2.4.2. Trƣờng hợp một đơn vị ngôn ngữ kiêm những chức năng-nghĩa 50 khác nhau trong những phạm vi chuyên môn khác nhau 2.5. Tiểu kết 52 CHƢƠNG 3: SỰ CHUYỂN ĐỔI CHỨC NĂNG-NGHĨA TRONG 53 PHẠM VI ĐỘNG TỪ VÀ TÍNH TỪ 3.1. Về các loại tính từ và động từ tiếng Việt và sự kiêm chức năng- 53 nghĩa của chúng trong các phạm vi khoa học khác nhau 3.1.1. Các loại động từ và sự kiêm chức năng-nghĩa của động từ trong 53 các phạm vi khoa học khác nhau 3.1.2. Các loại tính từ và sự kiêm chức năng-nghĩa của tính từ trong 57 phạm vi khoa học khác nhau 3.2. Quá trình chuyển đổi chức năng-nghĩa trong phạm vi động từ 61 3.2.1. Kết quả phân tích định lƣợng 61 3.2.1.1. Về lĩnh vực khoa học tự nhiên 61 3.2.1.2. Về lĩnh vực khoa học xã hội 64 3.2.2. Kết quả phân tích định tính 77 3.2.2.1. Trƣờng hợp cùng một lĩnh vực chuyên môn, thuật ngữ kiêm 77 nhiều chức năng-nghĩa khác nhau 3.2.2.2. Trƣờng hợp một đơn vị ngôn ngữ kiêm những chức năng- 79 nghĩa khác nhau trong những phạm vi chuyên môn khác nhau 3.3. Quá trình chuyển đổi chức năng-nghĩa trong phạm vi tính từ 81 3.3.1. Kết quả phân tích định lƣợng 81 3.3.1.1. Về lĩnh vực khoa học tự nhiên 81 3.3.1.2. Về lĩnh vực khoa học xã hội 83 3.3.2. Kết quả phân tích định tính 94 3.3.2.1. Trƣờng hợp cùng một lĩnh vực chuyên môn, thuật ngữ kiêm 94 nhiều chức năng-nghĩa khác nhau 3.3.2.2. Trƣờng hợp một đơn vị ngôn ngữ kiêm những chức năng- 95 nghĩa khác nhau trong những phạm vi chuyên môn khác nhau 3.3.2.3. Phạm vi nghĩa của những đơn vị từ vựng đƣợc khảo sát 96 3.4. Tiểu kết 98 PHẦN KẾT LUẬN 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO TƢ LIỆU NGHIÊN CỨU BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN d. danh từ đg. động từ GT giải thích KHTN khoa học tự nhiên KHXH khoa học xã hội NNH ngôn ngữ học SGK sách giáo khoa t. tính từ TĐ từ điển THPT trung học phổ thông tr. trang Vd ví dụ DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 1. Danh mục các bảng: Trang Bảng 1: Tỉ lệ thuật ngữ danh từ đơn tiết và danh từ đa tiết 45 Bảng 2: Tỉ lệ thuật ngữ động từ đơn tiết và động từ đa tiết 76 Bảng 3: Tỉ lệ thuật ngữ tính từ đơn tiết và tính từ đa tiết 93 2. Danh mục các biểu đồ: Trang Biểu đồ 1: Thuật ngữ danh từ đơn tiết và danh từ đa tiết 46 Biểu đồ 2: Thuật ngữ động từ đơn tiết và động từ đa tiết 77 Biểu đồ 3: Thuật ngữ tính từ đơn tiết và tính từ đa tiết 93 Biểu đồ 4: Tỉ lệ thuật ngữ danh từ, động từ và tính từ trong tư liệu 99 khảo sát PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: 1.1. Cách mạng tháng Tám đã trả lại cho tiếng Việt vị trí xứng đáng của nó, từ chỗ là ngôn ngữ của một dân tộc mất nƣớc, nó đã trở thành ngôn ngữ chính thức của một Nhà nƣớc độc lập có chủ quyền, đƣợc dùng rộng rãi trong mọi lĩnh vực khoa học, chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự, nghệ thuật,... Tiếng Việt đã làm tròn vai trò là công cụ giao tiếp và công cụ tƣ duy của mình. Điều đó chứng tỏ khả năng phát triển phong phú của ngôn ngữ ở mọi cấp độ: ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng-ngữ nghĩa,... Tuy nhiên, sự biến đổi và phát triển của xã hội Việt Nam đƣợc phản ánh rõ nét hơn cả ở cấp độ từ vựng-ngữ nghĩa bởi vì nó là tấm gƣơng phản chiếu đời sống xã hội, bộ phận đƣợc xem là phản ánh trực tiếp nhất trong sự biến đổi và phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ phản ánh thực tại. Bởi vì thực tế thì vô cùng, mọi sự vật hiện tƣợng trong thế giới vật chất luôn luôn vận động và phát triển không ngừng mà chất liệu ngôn ngữ thì có hạn nên ngƣời nói, ngƣời viết có khi đứng trƣớc một sự kiện, một trạng thái chƣa có cách biểu hiện trong ngôn ngữ hay đã có nhƣng không thỏa mãn đƣợc yêu cầu của mình phải tìm cách diễn đạt mới. Do đó nó đòi hỏi từ vựng-ngữ nghĩa phải có những đơn vị từ ngữ mới hay các nghĩa mới cho các từ ngữ cũ để chính xác hoá các khái niệm, để đa dạng hoá cách biểu hiện mà ngôn từ mang chứa nó. Yêu cầu đó của xã hội bắt buộc ngôn ngữ phải tuân theo tiến trình “trí tuệ hoá” mà tiến trình này nổi rõ hơn cả là ở hệ thống thuật ngữ của mỗi ngôn ngữ. 1.2. Trong quá trình tiến triển của một dân tộc, dân tộc đó phát triển mạnh mẽ về lĩnh vực nào thì vốn từ vựng của ngôn ngữ mà dân tộc đó sử dụng sẽ xuất hiện những đơn vị từ ngữ mới trong các lĩnh vực khoa học. Ở 1 nƣớc ta, khoảng đầu thế kỷ XX, những thuật ngữ tiếng Việt xuất hiện lẻ tẻ, cũng chỉ hạn chế trong một vài lĩnh vực rất hẹp và chƣa đƣợc sử dụng phổ biến rộng rãi. Những năm 30 và nhất là sau Cách mạng tháng Tám, với phong trào Cách mạng nêu cao chủ trƣơng đúng đắn "đấu tranh vì tiếng nói, chữ viết, thống nhất và làm giàu tiếng nói", hơn nữa xã hội Việt Nam đã bắt đầu tiếp xúc với nền văn hoá, khoa học kỹ thuật tiên tiến phƣơng Tây nhiều hơn, vốn từ vựng biến đổi, phát triển nhanh chóng, đặc biệt là thuật ngữ. Thuật ngữ đƣợc xem nhƣ bức tranh phản chiếu, là diện mạo toàn cảnh từ ngữ ghi dấu trạng thái tri thức, trạng thái sáng tạo, tiếp biến của một dân tộc trong từng thời kỳ tiến hoá và phát triển ngày càng đi lên, ngày càng tiến bộ của nhân loại. Trải qua gần một thế kỷ, thuật ngữ tiếng Việt đã phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ vô cùng, có sự thay đổi không những về số lƣợng mà cả về chất lƣợng, không chỉ về hình thức mà cả về nội dung. Tuỳ từng giai đoạn lịch sử, tuỳ hoàn cảnh xã hội mà thuật ngữ của ngành này hoặc ngành khác phát triển với tốc độ nhanh. Khoảng những năm 30 trở đi, nhiều thuật ngữ chính trị, triết học đã đƣợc lƣu hành nhƣng thƣờng ở trong điều kiện bí mật. Cách mạng tháng Tám thành công đã tạo điều kiện cho chúng sinh sôi nảy nở. Do chính quyền nhân dân đƣợc thành lập, hàng loạt thuật ngữ về tổ chức, hành chính ra đời. Tiếp đến thời kỳ kháng chiến đã tạo điều kiện cho thuật ngữ quân sự phát triển. Rồi hoà bình lập lại, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, trong công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá khoa học, hàng loạt thuật ngữ của các ngành kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật phát triển mạnh. Trong công cuộc chống Mỹ cứu nƣớc, nhân dân ta đã sáng tạo ra rất nhiều thuật ngữ, không phải chỉ về chiến đấu mà cả về sản xuất. Càng ngày thuật ngữ càng đƣợc sửa đổi, cải tiến, hoàn thiện hơn, vừa đảm bảo đƣợc tính khoa học, vừa tăng thêm tính chất dân tộc và đại chúng. 2 Do cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc mang tính chất nhân dân rộng rãi, toàn dân, toàn diện nên thuật ngữ hiện nay của ngành quân sự chẳng hạn, có tính chất dân tộc, đại chúng hơn trƣớc nhiều. Theo Hoàng Văn Hành, trong bài "Về sự hình thành và phát triển thuật ngữ tiếng Việt" thì nhìn một cách tổng quát, thuật ngữ tiếng Việt cũng nhƣ trong các ngôn ngữ đã phát triển khác hình thành nhờ ba con đƣờng cơ bản là: 1) Thuật ngữ hoá từ ngữ thông thƣờng; 2) Cấu tạo những thuật ngữ tƣơng ứng với thuật ngữ nƣớc ngoài bằng phƣơng thức mô phỏng; 3) Mƣợn nguyên những thuật ngữ nƣớc ngoài (thƣờng là những thuật ngữ có tính quốc tế). Hệ quả của những quá trình hay những phƣơng thức này là hình thành ba lớp thuật ngữ với những đặc trƣng khác nhau về hình thái và ngữ nghĩa trong vốn thuật ngữ tiếng Việt. Đó là: 1) Lớp thuật ngữ thuần Việt; 2) Lớp thuật ngữ vay mƣợn và 3) Lớp thuật ngữ quốc tế. Trong ngôn ngữ, hệ thống những đơn vị từ vựng, nói rộng hơn hệ thống từ vựng-ngữ nghĩa là hệ thống mở, có số lƣợng rất lớn. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất và cũng là công cụ của tƣ duy con ngƣời. Những đơn vị hoạt động càng nhiều, tham gia nhiều chức năng khác nhau (khoa học, nghệ thuật, thi ca,...) thì càng có sự biến đổi và phát triển mạnh về chức năng, ngữ nghĩa. 1.3. Nhiều nhà nghiên cứu nhận thấy rằng quá trình biến đổi, phát triển của hệ thống từ vựng-ngữ nghĩa trong một ngôn ngữ thƣờng đi theo những con đƣờng khác nhau: làm giàu vốn từ vựng bằng con đƣờng vay mƣợn, hay làm giàu vốn từ vựng bằng con đƣờng cấu tạo đơn vị từ ngữ mới. Do số lƣợng các từ trong một ngôn ngữ không thể tăng lên vô hạn tƣơng ứng với các nội dung cần biểu đạt nên việc sử dụng các đơn vị có sẵn của hệ thống để biểu thị cái vô hạn sinh động trong thực tế khách quan đã trở thành một phƣơng thức hữu hiệu của ngôn ngữ, dẫn đến cùng một hình thức ngữ âm có thể dùng để biểu đạt 3 nhiều nội dung khác nhau. Hơn nữa một ngôn ngữ phát triển thƣờng có sự đa dạng về phong cách chức năng, phong phú về loại hình văn bản, cách thức diễn đạt,...dẫn đến sự chuyển đổi từ phạm vi chức năng-nghĩa này qua phạm vi chức năng-nghĩa khác. Chính điều này làm cho sự phân hoá nội dung, sự phân công lại, mở rộng phạm vi hành chức đơn vị, ngữ nghĩa của từ ngữ. Tƣ liệu thuật ngữ tiếng Việt biểu hiện sinh động hiện tƣợng này. Kết quả của quá trình này xét về mặt dung lƣợng nghĩa là sẽ tạo ra những đơn vị có nhiều nghĩa. Đây chính là con đƣờng làm giàu vốn từ vựng ngữ nghĩa một cách tiết kiệm, đồng thời là một hƣớng phát triển theo chiều sâu, sự phát triển bằng cách kiêm chức năng, chuyển đổi chức năng. Nó đảm bảo tính tiết kiệm bởi không dùng vỏ âm thanh mới. Đây là cách phát triển theo chiều sâu bởi nó làm tăng lƣợng nội dung bên trong của tín hiệu. Hệ quả của hiện tƣợng này trong ngữ nghĩa học là sự phát triển đa nghĩa diễn ra không chỉ trong phạm vi đời thƣờng, văn học nghệ thuật mà còn trong lĩnh vực khoa học. Cần thiết khảo sát hiện tƣợng này nhƣ là một phƣơng thức, đồng thời xem nó nhƣ là một kết quả của sự hoạt động ngôn từ. Có thể nói, đây là sự hoạt động chuyển đổi mở rộng chức năng-nghĩa, là biểu hiện của sự hình thành một loại nội dung nghĩa mới. Đề tài "Bƣớc đầu khảo sát sự chuyển đổi chức năng-nghĩa từ vựng trong tiếng Việt" (trên tƣ liệu thuật ngữ) có nhiệm vụ là tìm cách cắt nghĩa, chứng minh sự phát triển nghĩa theo chiều sâu (nội dung bên trong từ ngữ), theo cách hiểu phổ nghĩa với các kiểu nghĩa chức năng từ vựng khác nhau bên trong đơn vị từ vựng tiếng Việt mà những năm gần đây đƣợc nhiều tác giả chú ý khai thác. 2. Đối tƣợng nghiên cứu: 4 - Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là xem xét sự chuyển đổi chức năngnghĩa từ vựng trên tƣ liệu những thuật ngữ (khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên). Nội dung để xem xét gồm hai quá trình, đó là: + Những từ thông thƣờng đƣợc dùng với chức năng là thuật ngữ. + Và ngƣợc lại, những thuật ngữ dần đƣợc dùng phổ biến trong phong cách sinh hoạt (thuật ngữ hoá từ vựng và thông thƣờng hoá thuật ngữ) . - Tƣ liệu nghiên cứu chính của luận văn là những thuật ngữ lấy từ: "Từ điển triết học" - Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơ-va (1986); "Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học"- Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) (2002); "Từ điển kinh tế học"- Nguyễn Văn Ngọc (biên soạn) (2006); sách giáo khoa Toán học lớp 10, 11, 12 (bậc trung học phổ thông) – Nhà xuất bản Giáo dục (2006); từ và văn bản, cách dùng từ trong những phong cách chức năng khác nhau. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, bƣớc đầu chúng tôi chỉ khảo sát quá trình thứ nhất. Đó là quá trình những từ thƣờng dùng đƣợc mở rộng nội dung kiêm chức năng thuật ngữ. Quá trình thứ hai thuật ngữ mở rộng dùng chức năng từ thƣờng sẽ khảo sát trong một dịp khác. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu: Tƣ liệu tập trung khảo sát dựa trên tƣ liệu thuật ngữ thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, những thuật ngữ có chức năng định danh khái niệm khoa học. Khi nói đến khoa học có nghĩa là những đơn vị này ra đời cùng với sự ra đời và phát triển của khoa học. Trên cơ sở xác định những đơn vị từ vựng vốn có, những đơn vị từ vựng tiếng Việt đƣợc dùng trong đời thƣờng trƣớc đây nay đƣợc chuyển đổi thành thuật ngữ để thực hiện chức năng mới: chức năng thuật ngữ trong phong cách khoa học. Nói cách khác, nó đƣợc bao hàm thêm những chức năng biểu hiện mới. Nhiệm vụ của đề tài là thử cắt nghĩa các bƣớc/ thang bậc 5 của sự thay đổi, chuyển đổi chức năng và nghĩa, nội dung của các đơn vị này. Bởi vì chúng ta quan niệm nghĩa không tự nhiên có mà là sản phẩm tinh thần đƣợc cố định trong tín hiệu do ngƣời dùng đƣa ra (dùng tín hiệu đó để hoàn thành chức năng gì?), mỗi phạm vi dùng đều có sự hoàn thành chức năng nhất định và nội dung xác định. Khi đơn vị đó chuyển đổi phạm vi sử dụng, đồng thời chuyển đổi phạm vi chức năng thì sẽ dẫn đến nghĩa mới. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Để đạt đƣợc một cách có hiệu quả mục đích nghiên cứu của mình, chúng tôi áp dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp quan sát: quan sát phạm vi khách thể để phát hiện ra chất liệu liên quan đến đối tƣợng nghiên cứu. Trong trƣờng hợp này là những thuật ngữ (khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên) vốn có nguồn gốc từ đời thƣờng (từ thƣờng) đã đƣợc thuật ngữ hoá. - Phương pháp thống kê định lượng: thống kê những đơn vị đó trong những loại từ điển, sách giáo khoa thuộc các ngành khoa học khác nhau để tính toán các số liệu cần thiết làm cơ sở xác thực cho những kết luận trong quá trình nghiên cứu. Trong ngôn ngữ học, phƣơng pháp thống kê đƣợc sử dụng rất rộng rãi, bởi vì các hiện tƣợng ngôn ngữ ngoài những đặc trƣng về chất còn có những đặc trƣng về lƣợng và trong không ít các trƣờng hợp của ngôn ngữ, sự khác biệt về chất chỉ có thể đƣợc giải thích nhờ khác biệt về lƣợng. Chúng tôi vận dụng các thủ pháp thống kê ngôn ngữ học để thực hiện các thống kê cần thiết về từ vựng, từ đó xác định tỉ lệ của các yếu tố từ thƣờng đƣợc thuật ngữ hoá; phong cách chức năng mà chúng xuất hiện nhiều nhất,... - Phương pháp phân tích nghĩa: giúp nhanh chóng xác định đƣợc các yếu tố cũng nhƣ quy luật cấu tạo của các thuật ngữ bằng sự phát triển nghĩa. Đây là phƣơng pháp giúp phân tích chức năng, phạm vi hoạt động 6 của từ ngữ, từ đó xác định thuộc tính nghĩa liên quan đến phạm vi sử dụng, xác định sự chuyển đổi chức năng-nghĩa theo chiều hƣớng thuật ngữ hoá và hệ quả của nó. - Theo suốt các phƣơng pháp đã nêu trên là hai phƣơng pháp luận cơ bản trong nghiên cứu khoa học diễn dịch và quy nạp. Trong quá trình nghiên cứu, có những kết luận chúng tôi rút ra đƣợc từ những quy luật chung, chẳng hạn, từ thực tế thống kê, biểu hiện khả năng hoạt động của các đơn vị để khái quát sự chuyển đổi chức năng và nghĩa. Ngƣợc lại, từ đơn vị cơ sở xuất phát với hàm lƣợng nghĩa của chúng để xác định hoạt động cụ thể, sự chuyển đổi chức năng-nghĩa của chúng. Nhƣng cũng có kết luận có đƣợc nhờ sự khảo sát, phân tích những trƣờng hợp cụ thể, chẳng hạn: căn cứ vào chức năng khác nhau của ngôn ngữ để xác định sự biểu hiện và các mức độ chuyển đổi của ngôn từ đó. 5. Ý nghĩa của luận văn: - "Bƣớc đầu khảo sát sự chuyển đổi chức năng-nghĩa từ vựng trong tiếng Việt" (trên tƣ liệu thuật ngữ) cho thấy phƣơng thức biến đổi và phát triển nghĩa là một phƣơng thức cơ bản của sự phát triển thuật ngữ tiếng Việt. Phƣơng thức này cho ta thấy rõ sự phát triển của từ vựng-ngữ nghĩa theo chiều sâu, phát triển về chất của các đơn vị từ vựng-ngữ nghĩa tiếng Việt. Đây cũng là một con đƣờng làm giàu vốn từ vựng tiếng Việt một cách tiết kiệm nhất - phát triển nội dung nghĩa mới, hoàn thành chức năng mới trong hình thức đã có, trong các từ thƣờng dùng của vốn từ. - Việc nghiên cứu góp phần làm rõ xu hƣớng biến đổi và phát triển của hệ thuật ngữ tiếng Việt trong thời gian qua, hiện tại và tƣơng lai với yêu cầu công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nƣớc trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Luận văn này nói riêng cũng nhƣ từ vựng-ngữ nghĩa tiếng Việt nói chung góp phần nghiên cứu lịch sử phát triển thuật ngữ tiếng Việt. 7 - Qua việc phân tích, miêu tả dựa trên cứ liệu đã thống kê đƣợc, luận văn phần nào cung cấp nguồn tƣ liệu cho các công trình nghiên cứu sự phát triển của từ vựng-ngữ nghĩa tiếng Việt, bởi hệ thuật ngữ là một bộ phận của vốn từ vựng phản ánh sự biến đổi và phát triển của xã hội Việt Nam trong thế kỷ XX vừa qua và hiện nay. 6. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, tƣ liệu nghiên cứu, luận văn gồm có ba chƣơng đƣợc sắp xếp nhƣ sau: PHẦN MỞ ĐẦU CHƢƠNG 1: Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu sự chuyển đổi chức năng-nghĩa từ vựng trong ngôn ngữ. CHƢƠNG 2: Sự chuyển đổi chức năng-nghĩa trong phạm vi danh từ. CHƢƠNG 3: Sự chuyển đổi chức năng-nghĩa trong phạm vi động từ và tính từ. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO TƢ LIỆU NGHIÊN CỨU 8 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU SỰ CHUYỂN ĐỔI CHỨC NĂNG - NGHĨA TỪ VỰNG TRONG NGÔN NGỮ Nhƣ đầu đề luận văn của chúng tôi chỉ rõ là “Bƣớc đầu khảo sát sự chuyển đổi chức năng-nghĩa từ vựng trong tiếng Việt” (trên tƣ liệu thuật ngữ), vì vậy nội dung của chƣơng này chúng tôi sẽ dành cho việc xác định cơ sở lý luận của sự chuyển đổi chức năng-nghĩa và lịch sử vấn đề này đƣợc đề cập đến trong Việt ngữ học. Những quan niệm và cách hiểu đƣợc nêu lên trong chƣơng này chúng tôi xem nhƣ là chỗ dựa, là luận điểm xuất phát mà chúng tôi sẽ vận dụng, làm rõ trong các phần nội dung tiếp theo. Tuy nhiên với khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, chúng tôi không có khả năng đào sâu, đề xuất điểm mới mà chỉ trình bày lại những hiểu biết chúng tôi chấp nhận để làm việc, để phân tích, giải thích ngữ liệu cụ thể. 1.1. Chức năng và các phạm vi chức năng trong ngôn ngữ: Trƣớc đây cũng nhƣ những năm gần đây, sau thời kỳ ngôn ngữ học quá nhấn mạnh đến cấu trúc, đến hình thức, ngƣời ta nói nhiều đến chức năng, chức năng luận trong nghiên cứu ngôn ngữ. Vậy chúng ta nên hiểu “chức năng là gì” để tiện vận dụng vào ngôn ngữ học. Theo tập thể các tác giả của cuốn “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên, “chức năng là tác dụng, vai trò bình thƣờng hoặc đặc trƣng của một ngƣời nào đó, một cái gì đó” [28, tr.201]. Từ góc độ triết học, ngƣời ta hiểu chức năng một cách chuyên sâu hơn: “chức năng là sự thể hiện ra bên ngoài của một khách thể nào đó trong hệ thống các quan hệ nhất định” [47, tr.96]. Nhƣ vậy với hai nội dung hiểu nông và sâu khác nhau, chúng tôi có thể vận dụng để phân tích, xác định cách hiểu của mình trong ngôn ngữ và ngôn ngữ học. 9 Trong nhà trƣờng, ngay từ những giờ học đầu tiên về ngôn ngữ học, chúng tôi đã đƣợc dạy cách hiểu cách xác định bản chất, chức năng của ngôn ngữ. Ngôn ngữ về bản chất đó là một hiện tƣợng xã hội đặc biệt, tính đặc biệt của nó đƣợc phân biệt với các hiện tƣợng xã hội khác nhƣ nhà nƣớc, pháp luật. Còn về chức năng ngôn ngữ thì cần đƣợc hiểu, đƣợc quán triệt nhiều phạm vi, nhiều bình diện ngày càng sâu sắc và ngày nay đang còn tiếp tục với nhiều khuynh hƣớng nghiên cứu khác nhau. Ở phạm vi chung nhất nhƣ các nhà kinh điển xác định: Ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của con ngƣời. Giao tiếp là sự truyền đạt thông tin từ ngƣời này đến ngƣời khác với một mục đích nhất định nào đó. Sự giao tiếp đƣợc thực hiện nhờ hoạt động giao tiếp giữa hai hoặc hơn hai ngƣời với nhau trong một bối cảnh nhất định và bằng một phƣơng tiện giao tiếp chung là ngôn ngữ. Nhờ nó mà con ngƣời có khả năng hiểu biết lẫn nhau. Nó là một trong những động lực bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội loài ngƣời. Sở dĩ nó quan trọng nhất vì trên góc độ lịch sử và toàn diện mà xét, không một phƣơng tiện giao tiếp nào có thể sánh đƣợc với nó. Trong giao tiếp, ngôn ngữ đƣợc dùng để thực thi một số nhiệm vụ, hoàn thành những chức năng xác định. Trong một chiết đoạn lời nói, mỗi thành phần đều đảm nhiệm chức năng của mình. Vì vậy việc phân tích ngôn ngữ cần thiết xác định mối quan hệ giữa các thành phần. Trong trƣờng hợp nhƣ vậy nếu không tính đến chức năng giao tiếp thì sẽ không thể lý giải hay đánh giá đúng vị trí, vai trò, đặc điểm của các thành phần đó trong biểu đạt ý nghĩa. Mỗi hệ thống ngôn ngữ đều có hệ thống biểu đạt tƣơng ứng với hệ thống nghĩa của nó. Quy cách nói năng cũng chỉ rõ: trƣớc tiên ngƣời nói suy nghĩ xem cần nói gì rồi sau đó tìm cách lựa chọn hình thức biểu đạt, yếu tố ngôn ngữ thích hợp dùng cho điều mình nói ra. Vậy cũng có nghĩa là trƣớc 10 hết là nội dung nghĩa rồi đến chức năng, sau đó mới đến hình thức biểu đạt. Điều này hoàn toàn phù hợp với thứ tự mà ngƣời nói/ngƣời viết tuân thủ, tức cũng phù hợp với chủ thể ngôn ngữ trong nói năng, sáng tạo ngôn ngữ. Ngay trong chiều sâu tƣ duy phản ánh cũng xảy ra quá trình: ngƣời nói cảm nhận, đánh giá sự vật khách quan rồi mới quyết định việc sử dụng ngôn ngữ thích hợp, phong cách chức năng tƣơng thích. Chức năng tín hiệu ngôn ngữ là hiện thực của chính tín hiệu đó và tín hiệu là hiện thực của nghĩa. Chức năng và nghĩa của tín hiệu ngôn ngữ luôn luôn tồn tại với nhau, gắn bó chuyển hoá cho nhau. Giải thích sâu hơn về sự gắn bó giữa nghĩa, tƣ duy và chức năng ngôn ngữ của con ngƣời, chúng ta có thể tìm thấy trong ý kiến của C.Mác. Theo C. Mác, ngôn ngữ không chỉ là phƣơng tiện vật chất để biểu đạt tƣ duy mà còn là công cụ của hoạt động tƣ duy. Nó trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành và phát triển tƣ duy của con ngƣời. Ngôn ngữ còn có một đặc trƣng khác nữa mà C.Mác đã chỉ ra: Ngôn ngữ nhƣ hiện thực trực tiếp của tƣ tƣởng. Ở đây ông nhấn mạnh đến một chức năng khác của ngôn ngữ, cụ thể là chức năng phản ánh: tƣ duy, tức là sự phản ánh thế giới xung quanh bởi con ngƣời, chủ yếu đƣợc thực hiện dƣới hình thức ngôn ngữ. Nói cách khác, chức năng giao tiếp là chức năng thứ nhất, còn chức năng phản ánh là chức năng thứ hai, đồng thời cả hai chức năng này đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và liên quan trực tiếp đến biểu đạt nghĩa trong ngôn ngữ. Ngày nay, hai chức năng này đƣợc đào sâu nghiên cứu hơn: ngôn ngữ không chỉ là phƣơng tiện đƣợc dùng để trao đổi giữa ngƣời này với ngƣời khác trong xã hội mà nó còn là sự tƣơng tác hiện thực trong đời sống xã hội. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tƣ tƣởng đồng thời nó còn có những chức năng khác: lƣu trữ thông tin, thi pháp, dụng học và nhiều chức năng đa dạng khác. 11 Ở phạm vi xác định hơn, khi đi vào các cấp độ tồn tại khác nhau của ngôn ngữ thì chức năng khái quát trên đƣợc thể hiện cụ thể ở từng loại đơn vị, từng phạm vi hoạt động của ngôn ngữ cũng nhƣ các phạm vi giao tiếp, các phong cách chức năng khác nhau. Thông thƣờng đối với từng loại đơn vị cụ thể, chúng có những chức năng khác nhau. Chẳng hạn: âm vị có chức năng khu biệt nghĩa và là đơn vị cấu tạo âm tiết; hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa và mang giá trị ngữ pháp, có chức năng cấu tạo và biến đổi từ; từ là đơn vị biểu thị khái niệm, để định danh,...; câu là đơn vị phán đoán trong lôgíc, thể hiện thông báo,v.v. Về phạm vi hoạt động cũng có sự phân biệt ở những từ thuộc các từ loại khác nhau có chức năng ngữ pháp khác nhau. Chẳng hạn: một từ loại danh từ khi đi vào hoạt động trong câu có vai trò chủ ngữ hoặc bổ ngữ trực tiếp trong câu. Ngay cả một từ mà trong câu nói khác nhau với dụng ý của ngƣời nói, từ đó có thể hoàn thành chức năng-nghĩa khác nhau. Một từ “đi” có thể hoàn thành chức năng biểu thị một vận động, cũng có thể thể hiện mệnh lệnh, thúc giục, nhắc nhở. Đơn vị, biểu thức ngôn ngữ trong hệ thống và trong hoạt động hành chức luôn có chức năng đa dạng. Vì vậy, khi nói đến chức năng ngôn ngữ với một cách hiểu đầy đủ bao gồm: a. Vai trò của ngôn ngữ đối với xã hội nhƣ chức năng làm công cụ giao tiếp và công cụ biểu hiện tƣ duy của con ngƣời. b. Nhiệm vụ, vai trò của các đơn vị ngôn ngữ hoặc các yếu tố ngôn ngữ trong hệ thống-cấu trúc ngôn ngữ. c. Sự cụ thể hoá vai trò của các đơn vị, yếu tố ngôn ngữ trong lời nói cụ thể. d. Tác dụng của các ngôn từ cụ thể trong giao tiếp ... Chính vì có sự phân biệt các phạm vi, các cấp độ chức năng-nghĩa khác nhau nhƣ vậy nên cần thiết đi vào tìm hiểu cụ thể mỗi cấp độ trong đó. 12 1.2. Chức năng-nghĩa của từ: Nghĩa của từ là những liên hệ đƣợc xác lập trong nhận thức của chúng ta giữa từ với những cái mà nó (từ) chỉ ra (những cái mà nó làm tín hiệu cho). Nghĩa của từ tồn tại trong từ, nói rộng ra là trong hệ thống ngôn ngữ. Nghĩa thể hiện trong cách dùng, trong hoạt động thƣờng ngày, trong thực hiện chức năng ngôn ngữ đa dạng trong cuộc sống, trong các mối tƣơng tác xã hội và sự sáng tạo ngôn từ của ngƣời nói, ngƣời viết. Nghĩa bộc lộ qua câu lời, qua cách dùng, văn bản, ngôn bản khi nó hoàn thành những chức năng xác định mà việc tổng hợp xác định nghĩa ta phải bắt đầu từ đó. Nghĩa của các đơn vị, biểu thức ngôn ngữ chính là sự hoàn thành chức năng của đơn vị, biểu thức trong hoạt động hành chức của chúng. Chức năng không phải là nghĩa. Chức năng là cơ sở, biểu hiện của nghĩa. Nghĩa gắn với hoạt động chức năng, nghĩa có mối liên hệ bản chất với giao tiếp, tƣ duy, hoạt động có ý thức của con ngƣời. Nghĩa có mối liên hệ với chức năng của các loại đơn vị, yếu tố, biểu thức của ngôn ngữ trong cấu tạo cũng nhƣ sự hoạt động của chúng thể hiện ở các loại hình phong cách chức năng đa dạng khác nhau. Theo Nguyễn Thiện Giáp, trong các đơn vị ngôn ngữ, từ là đơn vị duy nhất có thể đảm nhiệm nhiều chức năng nhất. Theo quan điểm truyền thống, từ đảm nhiệm những chức năng sau: Chức năng cơ bản của từ là chức năng định danh (gọi tên), chẳng hạn nhƣ danh từ là những từ chỉ ngƣời hay sự vật, động từ là những từ chỉ hoạt động, tính từ là những từ chỉ tính chất,...Tuy nhiên, khi từ thực hiện chức năng gọi tên thì nó không chỉ phân biệt sự vật này với sự vật khác, hành động này với hành động khác, đặc điểm này với đặc điểm khác mà nó còn có chức năng khái quát, trừu tƣợng những thuộc tính của một loại sự vật, đó chính là chức năng biểu thị khái niệm (thông qua 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan