Đại học quốc gia Hà Nội
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
*****
Nguyễn Thị Phương Trà
Bước đầu khảo sát phạm trù "có thể"
trên bình diện tình thái nhận thức và tình thái căn bản
(qua cứ liệu tiếng Pháp, so sánh với tiếng việt)
Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn
Hà Nội – 2005
Đại học quốc gia Hà Nội
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
*****
Nguyễn Thị Phương Trà
Bước đầu khảo sát phạm trù "có thể"
trên bình diện tình thái nhận thức và tình thái căn bản
(qua cứ liệu tiếng Pháp, so sánh với tiếng việt)
Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học
Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ
Mã số:
5.04.08
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Văn Hiệp
Hà Nội – 2005
Mục lục
Phần mở đầu ....................................................................................................... 1
I.
Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 1
II.
Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 2
III. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 4
IV. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................... 4
V.
Bố cục luận văn....................................................................................... 5
Chương 1
Xác định cách hiểu phạm trù “có thể” với tư cách là một nội dung
của tình thái nhận thức và tình thái căn bản cùng các vấn đề liên
quan.............................................................................................................. 6
1.1. Phân biệt tình thái và nội dung mệnh đề .................................................... 6
1.2. Tình thái của hành động phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn ......... 9
1.2.1. Tình thái của hành động phát ngôn .................................................... 9
1.2.2. Tình thái của lời phát ngôn .............................................................. 10
1.3. Tình thái khách quan và tình thái chủ quan ............................................ 11
1.3.1. Tình thái khách quan ........................................................................ 11
1.3.2. Tình thái chủ quan ............................................................................ 13
1.4. Tình thái căn bản và tình thái nhận thức ................................................. 17
1.4.1. Tình thái căn bản .............................................................................. 17
1.4.2. Tình thái nhận thức .......................................................................... 19
1.5. Phạm trù ”có thể” trong tình thái nhận thức và tình thái căn bản ........ 21
1.6. Hiện tượng mơ hồ về tình thái .................................................................. 22
1.7. Các phương tiện ngôn ngữ biểu đạt tình thái .......................................... 26
1.7.1. Các phương tiện biểu đạt tình thái trong tiếng Pháp........................ 26
1.7.2. Các phương tiện biểu đạt tình thái trong tiếng Việt ......................... 29
1.7.3. Sự ảnh hưởng của các đặc điểm loại hình đến việc lựa chọn các
phương tiện biểu hiện ...................................................................... 30
1.8. Tiểu kết ....................................................................................................... 31
Chương 2
Các phương tiện biểu thị phạm trù “có thể” trong tiếng Pháp và
các cách biểu đạt tương ứng trong tiếng Việt .......................................... 32
2.1. Về định hướng đối chiếu............................................................................ 32
2.2. Các phương tiện biểu thị phạm trù “có thể” trong tình thái nhận thức . 32
2.2.1. Các thức của động từ ........................................................................ 32
2.2.1.1. Thức trực thái – indicatif .................................................... 33
2.2.1.2. Thức điều kiện – conditionnel ............................................ 34
2.2.1.3. Thức giả định – subjonctif.................................................. 36
2.2.2. Một số động từ tình thái (không đi cùng với thức giả định):
sembler, paraợtre, devoir, penser, croire... ...................................... 38
2.2.2.1. Sembler ............................................................................... 38
2.2.2.2. Paraợtre............................................................................... 39
2.2.2.3. Devoir ................................................................................. 41
2.2.2.4. Penser và croire .................................................................. 42
2.2.3. Các trạng từ: peut-être, sans doute .................................................. 43
2.2.3.1. Peut-être.............................................................................. 43
2.2.3.2. Sans doute ........................................................................... 45
2.2.4. Các tính từ trong cấu trúc vô nhân xưng :Il est possible que, il
est probable que ............................................................................... 46
2.2.5. Một số danh từ trong các cấu trúc câu ............................................. 47
2.2.5.1. Avoir l’air ........................................................................... 47
2.2.5.2. Avoir l’impression .............................................................. 48
2.2.6. Một số kiểu câu ................................................................................ 48
2.2.6.1. Qui sait................................................................................ 48
2.2.6.2. N’est-ce pas ........................................................................ 49
2.2.6.3. Câu nghi vấn ....................................................................... 49
2.2.6.4. On dirait que, on eÛt dit que ............................................... 50
2.2.6.4. Comme ............................................................................... 51
2.3. Các phương tiện biểu thị phạm trù “có thể” trong tình thái căn bản .... 52
2.3.1. Phương tiện hiển ngôn ..................................................................... 52
2.3.2. Phương tiện hàm ngôn ..................................................................... 53
2.4. Động từ pouvoir và hiện tượng mơ hồ tình thái ....................................... 54
2.4.1. Động từ pouvoir trong tình thái căn bản và tình thái nhận thức ...... 54
2.4.2. Một số tiêu chí phân biệt pouvoir trong tình thái căn bản và
pouvoir trong tình thái nhận thức .................................................... 57
2.4.2.1. Câu phủ định ...................................................................... 57
2.4.2.2. Câu hỏi................................................................................ 58
2.4.2.3. Câu nguyên thể ................................................................... 59
2.4.2.4. Tính chất động – tĩnh của sự việc....................................... 59
2.4.2.5. Ngữ cảnh ............................................................................ 60
2.4.3. Phân tích ví dụ dựa trên các tiêu chí và một vài nhận xét về
cách chuyển dịch sang tiếng Việt .................................................... 61
2.5. Tổng kết và nhận xét về các phương tiện biểu thị phạm trù “có thể”..... 67
2.5.1. Bảng tổng kết ................................................................................... 67
2.5.2. Một số nhận xét ................................................................................ 69
2.6. Tiểu kết ....................................................................................................... 70
Chương 3
Một số ứng dụng vào giảng dạy tiếng Pháp ............................................. 72
3.1. ứng dụng vào giảng dạy ............................................................................. 72
3.1.1. Hiện trạng dạy và học các phương tiện biểu thị phạm trù “có
thể” trong tiếng Pháp ....................................................................... 72
3.1.1.1. Về giáo viên ........................................................................ 72
3.1.1.2. Về học sinh ......................................................................... 76
3.1.1.3. Về giáo trình ....................................................................... 78
3.1.2. Đề xuất một số giải pháp .................................................................. 81
3.1.2.1. Một số đề xuất về người dạy và người học ........................ 81
3.1.2.2. Một số kiểu bài tập đề nghị ................................................ 83
3.2. Tiểu kết ....................................................................................................... 86
Phần kết luận .................................................................................................... 88
Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................... 91
Danh mục nguồn tư liệu trích dẫn .................................................................. 97
Phụ lục ............................................................................................................. 102
Phần Mở đầu
I. Lí do chọn đề tài
Khi giao tiếp, người ta không chỉ truyền cho nhau thông tin miêu tả
mà còn muốn bày tỏ quan điểm, thái độ của mình trước thông tin đó. Trước
một sự việc nào đó, người này còn nghi ngờ về tính hiện thực của nó, người
kia lại hoàn toàn có thể tin chắc là nó tồn tại. Không chỉ quan tâm đến hiện
tượng này, chúng tôi còn muốn được nghiên cứu sâu về nó và biết rằng
trong ngôn ngữ, có một phạm trù ngữ nghĩa thể hiện thái độ hoặc ý kiến
của người nói đối với điều được nói đến trong câu, gọi là tình thái.
Trong quá trình học tập và giảng dạy hai ngôn ngữ là tiếng Việt và
tiếng Pháp, chúng tôi lại nhận thấy rằng "có thể" là một phạm trù tình thái
rất thú vị, ở chỗ nó có mặt trong cả hai loại tình thái là tình thái nhận thức
và tình thái căn bản1 nhưng lại có nội dung biểu đạt không giống nhau. Nếu
như "có thể" trong tình thái nhận thức là phạm trù tình thái thể hiện thái độ
không cam kết tuyệt đối của người nói đối với tính chân thực của điều mình
nói ra thì trong tình thái căn bản, "có thể" lại được hiểu là một sự cho phép
người nghe quyền thực hiện hành động được nêu trong phát ngôn. Hơn
nữa, chúng tôi còn thấy rằng phạm trù này được hai ngôn ngữ thể hiện bằng
những phương tiện đặc trưng của từng ngôn ngữ. Vì vậy, chúng tôi quyết
định chọn đề tài này để nghiên cứu, với mong muốn nó sẽ có ý nghĩa khoa
học về lí luận và thực tiễn.
a. Giá trị về lí luận:
Trước hết, luận văn của chúng tôi mong muốn được góp phần làm
sáng rõ một phạm trù nội dung ngữ nghĩa quan trọng là phạm trù tình thái,
mà cụ thể hơn nữa là đưa ra sự phân biệt giữa hai loại tình thái quan trọng
1
Chúng tôi sẽ giải thích nội hàm của hai thuật ngữ này trong chương 1,
chương cơ sở lí thuyết.
1
là tình thái nhận thức và tình thái căn bản. Tình thái nhận thức đã từng
được nghiên cứu ở một số công trình gần đây, còn tình thái căn bản thì
được biết đến chưa nhiều. Vì vậy, chúng tôi càng cố gắng tìm hiểu về nó
sao cho có thể phát hiện được điều gì đấy mới mẻ.
Sau nữa, luận văn cũng muốn góp phần làm thấy rõ những khác biệt
về loại hình của hai ngôn ngữ trên. Những khác biệt này thể hiện ở các kiểu
phương tiện biểu đạt phạm trù "có thể". Chẳng hạn, ở tiếng Pháp, thời và
thức của động từ là những phương tiện đắc lực, trong khi đó, ở tiếng Việt,
vai trò này lại phải nhường cho các phương tiện từ vựng.
b. Giá trị về thực tiễn:
Là giáo viên dạy tiếng Pháp, chúng tôi nhận thấy rằng học sinh khi
giao tiếp thường quan tâm đến nội dung thông tin được truyền đạt mà nhiều
khi bỏ quên yếu tố quan điểm, thái độ của người nói trước thông tin ấy.
Hiện tượng này xuất phát từ việc các em ít được học các kiến thức về tình
thái và các phương tiện biểu đạt tình thái. Vậy thì người giáo viên lại càng
phải nắm vững những kiến thức này để kịp thời trang bị cho học sinh, giúp
các em tự tin và thành công hơn trong giao tiếp bằng ngoại ngữ nói chung,
bằng tiếng Pháp nói riêng. Chính vì vậy, qua nghiên cứu của luận văn,
chúng tôi còn mong muốn những kiến thức thu được sẽ giúp ích cho công
tác giảng dạy tiếng Việt và tiếng Pháp, công tác biên soạn giáo trình. Ngoài
ra, nó còn hữu ích cho hoạt động dịch thuật Pháp - Việt và Việt - Pháp bởi
người dịch luôn phải nắm bắt được thái độ của các chủ ngôn trước các sự
kiện đặng có thể tìm cách chuyển dịch sang thứ tiếng khác sao cho phù hợp
nhất.
II. Lịch sử vấn đề
Trong các thập niên trước đây, các nhà ngôn ngữ học quan tâm nhiều
đến ngôn ngữ ở phương diện cấu trúc tĩnh, họ chỉ chú ý đến hình thức mà
chưa đi sâu nghiên cứu mặt nội dung biểu đạt, đặc biệt là ít quan tâm đến
2
những sự kiện lời nói. Gần đây, các nhà ngôn ngữ học đã và đang có những
nghiên cứu nhằm bổ khuyết những thiếu sót đó. Có thể nói, chưa bao giờ
vấn đề ngữ nghĩa, ngữ dụng lại lôi kéo sự chú ý của giới ngôn ngữ học như
hiện nay. Nghiên cứu những hiện tượng tình thái và các phương tiện biểu
hiện chúng chính là nằm trong xu hướng chung này.
ở Việt Nam, bắt đầu từ Cao Xuân Hạo với cuốn sách Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Quyển 1 (1991), một số nhà Việt ngữ học
cũng chọn con đường đi mới mẻ này để nghiên cứu. Tuy nhiên, hiện vẫn có
chưa nhiều các công trình chuyên sâu về ngữ nghĩa, tình thái, đặc biệt là
các công trình nghiên cứu so sánh đối chiếu giữa các ngôn ngữ, nhất là giữa
các ngôn ngữ khác xa nhau về loại hình.
Xét riêng về các công trình so sánh đối chiếu hai ngôn ngữ, trong
những năm gần đầy, đã có một số công trình nghiên cứu về tình thái nhận
thức trong tiếng Anh và tiếng Việt. Đó là Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị
Cẩm Thanh khảo sát các phương tiện từ vựng, ngữ pháp biểu thị tình thái
không thực hữu; là Luận án Tiến sĩ của Ngũ Thiện Hùng tìm hiểu các
phương tiện từ vựng, ngữ pháp biểu đạt tính tình thái nhận thức, Luận án
Tiến sĩ của Phạm Thị Ly nghiên cứu thức trong tiếng Anh và các tiểu từ
tình thái trong tiếng Việt...
Về tiếng Pháp, các công trình nghiên cứu tình thái còn thưa thớt
hơn. Hiện chúng tôi mới biết đến Luận án Tiến sĩ của Trần Thị Mỹ đi sâu
tìm hiểu các yếu tố biểu thị tình thái nhận thức trong câu tiếng Pháp, có so
sánh với tiếng Việt.
Có thể thấy rằng hướng nghiên cứu về tình thái nói chung trong sự so
sánh với hai thứ tiếng là một hướng đi với nhiều cái mới để khám phá,
nhưng cũng chính vì thế mà lại đặt ra nhiều thử thách cần phải vượt qua.
Công trình của chúng tôi, bên cạnh việc nghiên cứu ý nghĩa tình thái nhận
3
thức, còn phải tìm hiểu về tình thái căn bản. Đây chính là thử thách mà
chúng tôi đặt ra trong luận văn của mình.
III. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một luận văn cao học, chúng tôi không có điều
kiện khảo sát chi tiết đầy đủ các phương tiện biểu thị phạm trù có thể trong
tình thái nhận thức và tình thái căn bản. Công trình của chúng tôi chỉ dừng
lại ở giới hạn "bước đầu khảo sát" mà thôi. Bên cạnh đó, do điều kiện làm
việc cụ thể (là một giáo viên tiếng Pháp) chúng tôi chú trọng nhiều đến việc
khảo sát các phương tiện bằng tiếng Pháp hơn là các phương tiện bằng
tiếng Việt. Các phương tiện bằng tiếng Việt chỉ được đưa ra trong sự so
sánh với các phương tiện bằng tiếng Pháp.
IV. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đầu tiên, luận văn tìm hiểu những vấn đề lí thuyết chung về tình thái,
về tình thái nhận thức, tình thái căn bản, đặc biệt về phạm trù "có thể" trong
hai loại tình thái trên. Trên cơ sở những lí thuyết chung đó, luận văn tìm
hiểu một số phương tiện biểu đạt phạm trù "có thể" trong tiếng Pháp, có so
sánh với tiếng Việt. Từ đó, luận văn có một số phân tích ứng dụng trong
dịch thuật và dạy học tiếng Pháp, đặc biệt trong việc xử lí những trường
hợp mơ hồ tình thái có liên quan đến phạm trù "có thể".
2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ trên, luận văn sử dụng những phương
pháp nghiên cứu sau:
a. Phương pháp chung: diễn dịch và quy nạp.
4
+ Diễn dịch: xuất phát từ một phạm trù ngữ nghĩa chung thuộc tình
thái nhận thức và tình thái căn bản để đi đến phân tích hiện tượng cụ thể là
các cách biểu đạt phạm trù "có thể".
+ Quy nạp: từ những biểu hiện cụ thể trong tiếng Pháp (có so sánh
với tiếng Việt), xây dựng các mô hình, cấu trúc và tiến hành các thao tác
phân loại, đối chiếu.
b. Phương pháp đặc thù: so sánh đối chiếu
Do đối tượng nghiên cứu liên quan đến cả hai thứ tiếng nên cần sử
dụng phương pháp này để rút ra các nét tương đồng và dị biệt về cách thể
hiện phạm trù "có thể".
c. Các thủ pháp ngôn ngữ học: những thủ pháp ngôn ngữ học quen
thuộc như khúc giải, miêu tả, phân tích ngữ cảnh... cũng sẽ được vận dụng
một cách linh hoạt để làm sáng rõ nội dung của các hiện tượng ngôn ngữ.
V. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu (5 trang), Kết luận (3 trang), luận văn được
chia thành ba chương như sau:
+ Chương 1: Xác định cách hiểu phạm trù "có thể"với tư cách là một
nội dung của tình thái nhận thức và tình thái căn bản cùng các vấn đề liên
quan.
+ Chương 2: Các phương tiện biểu thị phạm trù "có thể" trong tiếng
Pháp và các cách biểu đạt tương ứng trong tiếng Việt.
+ Chương 3: Một số ứng dụng vào giảng dạy tiếng Pháp.
Bên cạnh đó, luận văn cũng cung cấp một danh mục Tài liệu tham
khảo gồm 67 đơn vị, một danh mục Nguồn tư liệu trích dẫn gồm 54 đơn
vị và ba Phụ lục gồm 34 trang.
5
Chương 1
Xác định cách hiểu phạm trù "có thể" với tư cách là một nội
dung của tình thái nhận thức và tình thái căn bản cùng các
vấn đề liên quan
1.1. Phân biệt tình thái và nội dung mệnh đề
Tình thái và nội dung mệnh đề là hai thành phần cơ bản trong cấu
trúc ngữ nghĩa của phát ngôn. Sự đối lập giữa hai thành phần này là một
trong những đối lập cơ bản, làm cơ sở cho lý thuyết tình thái và được thừa
nhận rộng rãi trong ngôn ngữ học. Vậy tình thái và nội dung mệnh đề là gì?
Trong ngôn ngữ học, có lẽ Charles Bally được coi là người đầu tiên
chủ trưong phân biệt hai thành phần này. Theo ông, trong câu có hai yếu tố
cần được phân biệt là dictum và modus. Dictum là bộ phận biểu hiện một
nội dung sự tình ở dạng tiềm năng nào đó. Do đó, dictum tương ứng với
chức năng thông tin, miêu tả, giao tiếp của ngôn ngữ. Trong lúc đó, modus
lại hướng đến sự phân tích, mổ xẻ về mặt tâm lí, thể hiện những nhân tố
thuộc phạm vi cảm xúc, ý chí, thái độ, sự đánh giá của người nói đối với
điều được nói ra, xét trong mối quan hệ với thực tế, với người đối thoại và
với hoàn cảnh giao tiếp. Modus tham gia vào quá trình thực tại hóa, biến
nội dung sự tình còn ở dạng tiềm năng thành phát ngôn hiện thực. Nó cho
biết, chẳng hạn, sự tình nêu trong phát ngôn là khả năng hay hiện thực,
khẳng định hay phủ định, mức độ cam kết của người nói đối với độ tin cậy
của thông tin đến đâu, sự đánh giá, tình cảm, ý chí, mong muốn, ý đồ của
người nói khi phát ngôn là thế nào v.v... Xét các phát ngôn sau:
(1a). An đi du học nước ngoài.
(1b). An không đi du học nước ngoài.
(1c). Nghe đâu An đi du học nước ngoài.
(1d). Có lẽ An đi du học nước ngoài rồi.
6
(1e). Té ra là An đi du học nước ngoài.
(1g). Làm như thể An đi du học nước ngoài ấy!
(1h). Mừng một cái là An lại đi du học nước ngoài.
Các phát ngôn trên đây đều có chung một nội dung mệnh đề là nói về
việc An đi du học nước ngoài. Nhưng các phát ngôn này lại không giống
nhau về các khía cạnh của tình thái. Nếu như phát ngôn (1a) khẳng định
việc An đi du học nước ngoài là có thật, là chính xác, thì phát ngôn (1b) lại
phủ nhận điều đó, tức đối với người nói, An chắc chắn không đi du học ở
nước ngoài. ở phát ngôn (1c), (1d), người nói lại không khẳng đinh hay phủ
định hoàn toàn sự tình trên, mà chỉ "dám" đưa ra một lời đoán định không
chắc chắn, hoặc là dựa trên sự suy lí của bản thân (phát ngôn 1d), hoặc là
dựa trên tin đồn (phát ngôn 1c). Như vậy, sự tình được truyền đạt là có thể
đúng, có thể sai và người nói không đảm bảo về tính chân thực của nó. Phát
ngôn (1e) cho thấy người nói nghĩ là sự tình này đã xảy ra, đã là hiện thực,
chỉ có điều bây giờ anh ta mới biết, mới vỡ lẽ. Phát ngôn (1g), cũng giống
(1b) ở chỗ người nói quả quyết rằng An không đi du học, nhưng sự quả
quyết này dường như không trung tính như (1b), mà còn kèm theo sự đánh
giá của người nói. Phát ngôn (1h) biểu thị sự đánh giá tích cực của người
nói đối với một sự tình hiện thực, xem đó là một điều đáng mong muốn.
Hai thành phần dictum và modus trong cấu trúc ngữ nghĩa của phát
ngôn còn được quan tâm bởi nhiều nhà ngôn ngữ học khác. Palmer phân
biệt trong câu "những yếu tố biểu thị tình thái và những yếu tố biểu thị
mệnh đề". Còn theo Searle, sự phân biệt giữa nội dung mệnh đề và tình thái
rất gần gũi với sự khác biệt giữa hành vi tạo lời và hành vi tại lời. Cao
Xuân Hạo cho rằng, dictum là một tập hợp gồm sở thuyết (vị ngữ lô gích)
và các tham tố của nó, được xem xét như một mối liên hệ tiềm năng, còn
modus là cách thực hiện mối liên hệ ấy, cho biết mối liên hệ ấy là có thật
(hiện thực) hay là không có thật (phủ định nó, coi nó là phi hiện thực), là tất
7
yếu hay là không tất yếu, là có thể hay là không thể có được. Ch.Bally nhận
thấy rằng modus là thành phần luôn có mặt trong câu, có thể hòa trộn với
nội dung mệnh đề, và trong một số trường hợp là không được đánh dấu
(unmarked). Chẳng hạn Trời mưa trên thực tế là tương ứng với khúc giải :
(Tôi nhận thấy là) trời mưa.
Hai thành phần này còn được gọi tên bằng những thuật ngữ khác
nhau, tùy theo từng tác giả. Ngoài modus / dictum, người ta còn thấy các
cặp thuật ngữ khác như tình thái / ngôn liệu, tình thái / cơ sở mệnh đề, tình
thái / mệnh đề, tình thái / propo... Chúng ta có thể tìm hiểu kĩ hơn quan
niệm của một số tác giả trong việc lựa chọn các cặp thuật ngữ như vậy.
Theo Fillmore (1968, tr 23. Dẫn theo 9:15), cấu trúc nghĩa của câu
bao gồm hai thành phần: "mệnh đề" đối lập với "tình thái". Mệnh đề được
hiểu như là tập hợp những quan hệ có tính phi thời (tenseless) giữa các
động từ và danh từ, còn tình thái gồm các loại ý nghĩa có liên quan đến toàn
bộ câu (the sentence - as - a - whole) như phủ định, thì, thức và thể . Công
thức Câu = tình thái + mệnh đề được thể hiện như sau: S = M + P.
Culioli không dùng thuật ngữ "mệnh đề" (proposition), bởi theo ông,
thuật ngữ này khiến người ta băn khoăn, không biết nên hiểu nó theo nghĩa
lô gích hay theo một nghĩa nào khác. Thêm nữa, thuật ngữ mode / mood
(thức) có thể được hiểu theo nghĩa rất hẹp, chỉ như là một phạm trù ngữ
pháp gắn với động từ trong những ngôn ngữ biến hình. Trong khi đó, tình
thái không chỉ được thể hiện bằng thức và không đồng nhất với thức theo
nghĩa hẹp, mặc dù trong ngôn ngữ học, cũng có những tác giả gắn tình thái
với phạm trù thức của động từ, chẳng hạn như thức subjonctif - một cách
thức biểu thị sự không chắc chắn. Chính vì vậy, Culioli chọn thuật ngữ
ngôn liệu (lexis) với mục đích nhấn mạnh tính chất nguyên liệu, tiềm tàng,
phi tình thái, chưa có tư cách là một phát ngôn về một sự tình nào đó. Về
thực chất, ngôn liệu tương đương với dictum của Ch. Bally. Như vậy, với
8
Culioli, sự đối lập giữa hai thành phần nội dung cơ bản trong câu là sự phân
biệt giữa tình thái và ngôn liệu.
Cặp thuật ngữ propo (viết tắt của proposition) và tình thái được
Pottier chọn dùng cũng với tinh thần như vậy.
Theo quan sát của chúng tôi, trong số các thuật ngữ được sử dụng,
cặp thuật ngữ tình thái / nội dung mệnh đề là phổ biến và hợp lí hơn cả.
Không nghi ngờ gì nữa, đó là vì thuật ngữ tình thái tỏ ra bao quát hơn và
quen thuộc hơn các thuật ngữ khác. Còn thuật ngữ nội dung mệnh đề , một
mặt cho thấy tính tiềm năng của sự tình được biểu hiện, mặt khác lại không
hoàn toàn trùng với cách hiểu của lô gich học. Cặp thuật ngữ này cũng tạo
điều kiện cho việc cấu tạo các thuật ngữ khác như khung tình thái (theo cái
nghĩa, trong câu có thể có nhiều yếu tố tham gia biểu thị tình thái, cùng
tương tác với nội dung mệnh đề), nội dung mệnh đề của hành vi ngôn ngữ
v.v...
Như vậy, khái niệm tình thái được định nghĩa xuất phát từ sự đối lập
giữa hai thành phần cơ bản trong cấu trúc ngữ nghĩa của câu (là tình thái và
nội dung mệnh đề). Đây là một phạm trù rất cơ bản, có mặt trong tất cả các
ngôn ngữ và hiện diện ở mọi câu nói. Về vai trò của nó trong câu, đã có
một cách diễn đạt rất chính xác và sinh động “Tình thái là linh hồn của câu
nói” (Ch. Bally, dẫn theo 28). Tuy nhiên, khái niệm tình thái là một khái
niệm rất phức tạp, trong những mục tiếp theo, chúng tôi sẽ tiếp tục làm rõ
nội hàm của khái niệm này. Theo đó, tình thái của câu nói được chia ra
thành hai phạm trù lớn, đó là tình thái của hành động phát ngôn (về cơ bản,
thuộc về dụng học) và tình thái của lời phát ngôn (về cơ bản, thuộc nghĩa
học).
1.2. Tình thái của hành động phát ngôn và tình thái của lời
phát ngôn
9
1.2.1. Tình thái của hành động phát ngôn
Tình thái của hành động phát ngôn (modalité d'énonciation) liên
quan đến chủ thể của hành động phát ngôn, thể hiện thái độ tường thuật của
chủ thể trong mối quan hệ với người nghe (57: 580). Tình thái này được thể
hiện bằng nhiều kiểu câu: trần thuật (khẳng định hoặc phủ đinh), nghi vấn,
cầu khiến, cảm thán... Chẳng hạn cùng một nội dung sự việc (việc Mai
đến), có thể có các kiểu tình thái khác nhau được thể hiện bằng những kiểu
câu khác nhau: khẳng định (Mai đến.), phủ định (Mai không đến), cầu
khiến (Đến đi Mai!), nghi vấn (Mai đến phải không?)
1.2.2. Tình thái của lời phát ngôn
Tình thái của lời phát ngôn (modalité d'énoncé) cũng liên quan đến
chủ thể của hành động phát ngôn, nhưng là sự thể hiện thái độ của người
nói đối với nội dung phát ngôn (kiểu tình thái này thực hiện chức năng biểu
cảm (fonction expressive) trong số sáu chức năng của lời nói (fonctions du
langage) mà Jakobson phân biệt). Nó thể hiện cách người phát ngôn đánh
giá khả năng chân thực của nội dung phát ngôn. Bên cạnh những đánh giá
của lô gich học cổ điển - giới hạn ở tính chân thực (la vérité), tính có thể (la
possibilité), tính cần thiết (la nécessité) và ngược lại - còn có nhiều kiểu
đánh giá khác: mệnh đề phát ngôn có thể là chắc chắn (certaine), bắt buộc
(obligatoire), cho phép (permis), hoặc là được đánh giá từ góc độ tình cảm:
có ích (utile), sung sướng (heureuse), dễ chịu, thoải mái (agréable), mong
muốn (souhaitable). Theo cách hiểu như vậy, nói đến tình thái cũng là nói
đến tính chủ quan trong phát ngôn.
Theo C. Kerbrat - Orecchioni (50:120), tính chủ quan (la
subjectivité) được chia ra làm hai mặt:
+ Khía cạnh tình cảm (l'affectif): liên quan đến tất cả các cách biểu
đạt tình cảm của người nói.
10
+ Khía cạnh đánh giá (l'évaluatif): tương ứng với tất cả các kiểu đánh
giá, nhận định của người nói. Sự đánh giá theo cái tốt (le bon), cái xấu (le
mauvais) (thuộc về đạo nghĩa: axiologique) và sự đánh giá theo cái đúng
(le vrai), cái sai (le faux) và cái không chắc chắn (l'incertain) (thuộc về
nhận thức: épistémique).
D. Maingueneau (55:112) chỉ ra rằng tình thái của lời phát ngôn
không liên quan đến mối quan hệ giữa người nói và người nghe, mà đặc
trưng cho cách thức mà người nói đặt phát ngôn trong sự so sánh với cái
đúng, cái sai, cái khả năng, cái chắc chắn, hoặc so với những đánh giá như
điều sung sướng, điều buồn bã...
Trong cuốn Tiếng Việt - sơ thảo ngữ pháp chức năng, quyển 1 , Cao
Xuân Hạo cũng đề cập đến tình thái của lời phát ngôn khi nói rằng cấp độ
tình thái này liên quan đến thái độ của người nói đối với điều được nói ra.
Tác giả còn nói thêm, trong câu trần thuật, tình thái được phân ra thành hai
loại: a) Tình thái của câu nói (modalité de la phrase): phản ánh thái độ của
người nói đối với điều mình nói ra. Và b) Tình thái của cấu trúc vị ngữ hạt
nhân (modalité de la prédiction): phản ánh những dạng thức thể hiện của
hành động, quá trình, trạng thái hay tình cảm do phần thuyết hay vị ngữ
biểu thị.
Đề tài của chúng tôi không đi sâu nghiên cứu cấp độ tình thái của
hành động phát ngôn (vốn là địa hạt riêng của dụng học), mà tập trung vào
tình thái của lời phát ngôn bằng cách tiếp tục phân biệt trong cấp độ này hai
loại tình thái khách quan và tình thái chủ quan, tức chủ yếu dừng lại trên
địa hạt nghĩa học và cú pháp.
1.3. Tình thái khách quan và tình thái chủ quan
1.3.1. Tình thái khách quan
11
Các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước đều có chung quan điểm
coi đây là phạm trù tình thái thể hiện những mối quan hệ giữa nội dung
được miêu tả trong phát ngôn với hiện thực cuộc sống.
Con người nhận thức về thế giới khách quan thông qua các phán
đoán. Mỗi đối tượng trong thế giới khách quan đều có những thuộc tính
nhất định. Chúng ta nhận thức được rằng đối tượng S có thuộc tính P khi
nghĩ rằng "S thì P". Và khi nhận thức ấy được thể hiện ra bằng ngôn từ thì
nó sẽ là, chẳng hạn, "Con đường này rộng" hay "Cái bút này không viết
được". Đó là những phán đoán. Trong lô gích, người ta thường quan tâm
tới giá trị chân lí của các phán đoán, tới mức độ phù hợp của phán đoán với
thực tế. Từ đó, các phán đoán được phân loại thành ba nhóm lớn: khả năng,
tất yếu và hiện thực. Phán đoán khả năng phản ánh xác suất có mặt hay
vắng mặt của một đặc trưng nào đó ở đối tượng (tức là đối tượng có thể
mang đặc trưng đó ít nhất là trong một thế giới khả năng (possible world)
nào đó), khi đó cấu trúc của phán đoán là S có lẽ là P (Hôm nay có lẽ là
trời nắng to). Phán đoán tất yếu thể hiện những nội dung nhận thức mà đặc
trưng nêu ở vị từ có ở đối tượng trong mọi điều kiện (đối tượng mang đặc
trưng được nêu trong mọi thê giới khả năng): S tất yếu là P (Trái đất tất
nhiên quay quanh mặt trời). Còn phán đoán hiện thực thì xác nhận sự có
mặt hay vắng mặt của đặc trưng nào đó ở đối tượng như là một hiện thực
(Ngày mai là mồng 1 Tết). Trong lô gic học, các phán đoán có thể được
phân loại theo các tiêu chí khác nhau, cách phân loại phán đoán trên đây là
dựa theo các tham số tình thái (hay là theo mức độ nhận thức). Trong lô
gích học truyền thống, khái niệm tình thái, hay modus, được sử dụng từ rất
lâu, gắn với sự phân loại các phán đoán, các mệnh đề lô gích dựa trên
những đặc trưng cơ bản của mối liên hệ giữa hai thành phần chủ từ và vị từ.
Như vậy, đúng như nhiều nhà ngôn ngữ học đã nhận xét, khái niệm tình
thái của lô gích chỉ nhằm vào một số kiểu quan hệ chung nhất của phán
đoán với hiện thực, mang tính chất khách quan, bản thể, và xem đó như
12
một đặc trưng nội tại của bản thân cấu trúc chủ từ - vị từ lô gích. Tình thái,
hiểu theo nghĩa như vậy, tách khỏi những nhân tố thuộc về thái độ, tình
cảm, đánh giá, mục đích, nhu cầu, ý chí của con người nói chung và của
từng chủ thể phát ngôn nói riêng. Người ta gọi tình thái của lô gích là tình
thái khách quan chính là vì lí do như vậy.
1.3.2. Tình thái chủ quan
Đối lập với tình thái khách quan là tình thái chủ quan, là loại tình thái
được ngôn ngữ học quan tâm và coi đó là một bộ phận thuộc nội dung ngữ
nghĩa của câu.
Tình thái là một phạm trù cơ bản của ngôn ngữ, tập hợp những hiện
tượng ngữ nghĩa - chức năng mà đặc trưng của chúng là thể hiện không chỉ
những mối quan hệ giữa nội dung được miêu tả trong phát ngôn với hiện
thực cuộc sống (là đặc trưng của tình thái khách quan, như đã nói ở trên)
mà còn thể hiện những thái độ, quan điểm đánh giá của người nói đối với
nội dung miêu tả trong câu. Đặc trưng này chính là thuộc về tình thái chủ
quan.
Nhiều nhà ngôn ngữ học đã đưa ra các định nghĩa về tình thái nói
chung và tình thái chủ quan nói riêng. Vinogradov (1977) cho rằng tính
tình thái được xác lập theo quan điểm của người nói, nhưng quan điểm đó
lại được xác định bởi vị trí của người nói vào thời điểm phát ngôn đối với
người đối thoại và với cái phân đoạn thực tế được phản ánh, được thể hiện
trong câu.
Phạm trù tính tình thái phản ánh mối quan hệ của người nói đối với
nội dung phát ngôn và nội dung phát ngôn đối với thực tế. Đó là cách định
nghĩa của Gak (1986).
Benveniste không đưa ra một lời định nghĩa cụ thể về tính tình thái,
nhưng theo các nhận xét của ông, có thể hiểu phạm trù này gắn với những
chờ đợi, mong muốn, đánh giá, thái độ của người nói đối với nội dung phát
13
ngôn, với người đối thoại, với những kiểu mục đích phát ngôn... và được
thể hiện bằng nhiều loại phương tiện (1966).
Liapol (1990) thì định nghĩa tình thái là phạm trù ngữ nghĩa chức
năng thể hiện các dạng quan hệ khác nhau của phát ngôn với thực tế cũng
như các dạng đánh giá chủ quan khác nhau đối với điều được thông báo.
Theo Lyons (1977), tình thái là thái độ của người nói đối với nội
dung mệnh đề mà câu biểu thị hay cái sự tình mà mệnh đề đó miêu tả.
J.Gardes-Tamine, M-A. Pelliza (1998) cũng đưa ra quan điểm của
mình về phạm trù này khi nói rằng tình thái là phạm trù đánh dấu thái độ
của người nói đối với phát ngôn và đối với hành động phát ngôn của anh ta.
Khái niệm tình thái trong quan điểm của Palmer (1986) là thông tin
ngữ nghĩa của câu, nó thể hiện thái độ hoặc ý kiến của người nói đối với
điều được nói đến trong câu.
Còn Bybee lại hiểu tình thái theo một nghĩa rộng hơn, là tất cả những
gì mà người nói thực hiện cùng với toàn bộ nội dung mệnh đề.
ở Việt Nam, các nhà ngôn ngữ học cũng đã có sự quan tâm đến phạm
trù này. Cao Xuân Hạo (10:50), khi so sánh với tình thái trong lô gích học,
cho rằng "các tình thái của phát ngôn làm thành một bảng màu cực kỳ đa
dạng, trong đó phần lớn đều có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến tính
hiện thực, tính tất yếu và tính khả năng, nhưng dưới nhiều sắc thái khác
nhau và có nhiều cách biểu hiện khác nhau".
Hoàng Trọng Phiến (20:30), đề nghị một cách hiểu về tính tình thái
như là một phạm trù ngữ pháp của câu. "Nó có tác dụng thông báo một điều
gì mới mẻ. Qua câu người nhận hiểu rõ người nói có thái độ như thế nào
đối với hiện thực, người nói trình bày hiện thực với sự đánh giá của mình".
Hoàng Tuệ (28:742) lại gắn tình thái với sự phân tích về mặt ngữ
nghĩa của câu, "sự phân tích theo cách nhìn tìm đến thái độ của người nói
14
- Xem thêm -