Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Bình giảng bài thuật hoài và chí khí anh hùng...

Tài liệu Bình giảng bài thuật hoài và chí khí anh hùng

.DOC
21
761
148

Mô tả:

Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du THUẬT HOÀI (Phạm Ngũ Lão) Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Bài làm Triều đại nhà Trần (1226 - 1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng... bất tử. Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi ca là "Hào khí Đông A". Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng - thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn, "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão, "Tụng giá hoàn kinh sư" của Trần Quang Khải, "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu, v.v... là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: "Thuật hoài" và "Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương". Bài thơ "Thuật hoài" thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão. Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ "Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu" là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (cáp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở "bình Nguyên" ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cắp ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý. Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du Đội quân "Sát thát" ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thương, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân "Phụ tử chi binh" ấy ào ào ra trận, không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. "Khí thôn Ngưu" nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Biện pháp tu từ thậm xung sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: "Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu". Hình ảnh ẩn dụ so sánh: "Tam quân tì hổ…" trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân "Sát Thát" đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca, tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc: - "Thuyền bè muôn đội, Tinh kỳ phấp phới Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…" (Bạch Đằng giang phú) - "Giang sơn hoành sóc, khí thôn Ngưu" ("Vịnh Phạm Ngũ Lão" - Đặng Minh Khiêm) (1456-1522) - "Nghĩa binh tráng khí thôn Ngưu Đẩu." ("Đăng Sơn" - Hồ Chí Minh). Người chiến sĩ "bình Nguyên" mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! "Phá cường địch, báo hoàng ân" (Trần Quốc Toản) - "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo" (Trần Thủ Độ). "…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng" (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã: Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du "Công danh nam tử còn vương nợ Luống thẹn tai nghe chuyện "Vũ Hầu" "Công danh" mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ "công danh" tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ "luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu", mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu "khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…" để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: "Non sông nghìn thuở vững âu vàng" (Trần Nhân Tông) "Thuật hoài" được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời "hào khí Đông - A". Nguồn: Nhiều tác giả, 108 bài văn 10 chọn lọc, Nxb Tổng hợp TP. HCM Phân tích bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão Bài làm Thơ văn đời Trần có nhiều tác phẩm thật hùng tráng. Một trong những tác phẩm đó là bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão - vị danh tướng đã lập nên nhiều chiến công, được lịch sử ca ngợi. Câu 1: “Múa giáo non sông trải mấy thâu”. Nguyên văn chữ Hán là “Hoành sóc giang san cáp kỉ thu”. Hai chữ “hoành sóc” có nghĩa là cầm ngang ngọn giáo. Vậy dịch “múa giáo” chưa thật đúng. Giáo là vũ khí chiến đấu chủ yếu của thời xưa, dùng để đâm chém kẻ thù. “Cầm ngang ngọn giáo” là hành động của Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du một tráng sĩ sẵn sàng chiến đấu. Hành động đó càng đẹp thêm khi đặt trong không gian bao la của non sông đất nước và thời gian đằng đẵng mấy mùa thu. Ta có cảm tưởng như Phạm Ngũ Lão đã mấy năm không ngừng thao luyện võ nghệ để cứu nước. Và theo thời gian, tầm vóc tráng sĩ cũng vụt lớn lên theo tầm vóc của non sông Tổ quốc. Trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn cũng có một tứ thơ như thế: “Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo”. Thì ra người tráng sĩ đời nào cũng sẵn sàng xông vào nơi nguy hiểm nhất để lập nên những chiến công vang dội. Câu 2: “Ba quân hùng khí át sao Ngưu”. “Ba quân” ở đây chỉ quân đội. “Sao Ngưu” tượng trưng cho thiên nhiên, vũ trụ bao la. Câu thơ dùng biện pháp phóng đại để diễn tả sức mạnh của quân ta - một sức mạnh tưởng có thể làm át cả vũ trụ. Căn cứ vào cảm hứng mạnh mẽ ở câu thơ này, có thể phỏng đoán bài “Thuật hoài” được viết ra sau khi quân ta đã chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất và đang khẩn trương luyện tập trên thao trường ngày đêm để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lần thứ hai chống giặc Nguyên Mông. Tư thế, hành động của tráng sĩ được đặt trong khí thế chung của quân đội nên càng hùng tráng thêm. Đọc hai câu đầu, ta như thấy “hào khí Đông A” đang bừng bừng trong con người Phạm Ngũ Lão cũng như trong toàn thể dân tộc Đại Việt. Câu 3: “Công danh nam tử còn vương nợ”. Câu này giải thích lí do vì sao Phạm Ngũ Lão lại có hành động cao đẹp như trên. Đó là món “nợ công danh”. Người con trai thời xưa có một khát vọng tột bậc là phải lập nên sự nghiệp ở đời. Chưa thực hiện được thì coi như còn “mắc nợ” với quê hương đất nước và phải phấn đấu để trả cho bằng được. Nguyễn Công Trứ - một nhà thơ và cũng là một võ tướng đã viết: “Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông”. Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du Hiểu theo nghĩa ngày nay thì “nợ công danh” chính là nghĩa vụ của người công dân đối với Tổ quốc. Câu thứ 4: “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”. Câu này tăng thêm ý nghĩa cho câu thứ ba. Chưa trả xong món nợ đó thì nghe chuyện Vũ Hầu là hổ thẹn. Vậy Vũ Hầu là ai ? Đó là Gia Cát Lượng bên Trung Quốc, người có tài kinh bang tế thế, từng giúp Lưu Bị làm nên cơ nghiệp nhà Thục. Cái thẹn ở đây không phải là cái thẹn bình thường. Đó là cái thẹn có tác dụng nâng cao tâm hồn người tráng sĩ, làm cho Phạm Ngũ Lão vượt qua mọi gian lao để đạt ước mong. Về sau, trong thế kỷ XX, nhà chí sĩ Phan Bội Châu cũng nhắc lại cái thẹn đó trong “Bài ca chúc tết thanh niên”: “Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng…” Cụ “thẹn” vì hơn hai mươi năm hoạt động cách mạng mà chưa giành lại được độc lập, tự do cho Tổ quốc. Cụ mong con cháu kế tiếp sẽ rửa được cái “thẹn” đó cho mình. Cái “thẹn” của cụ Phan cũng mang tầm vóc lớn lao như cái “thẹn” của tướng quân họ Phạm, trước sau đều vì quê hương, đất nước. Thơ tứ tuyệt rất khó làm, đến nỗi người xưa đã phải kêu lên là “trói voi bỏ bị” - nghĩa là nén chặt một lượng cảm xúc lớn trong một hình thức hạn hẹp. Vậy mà Phạm Ngũ Lão đã vượt qua được cái khó đó. Và chỉ qua bốn câu thơ ông đã dựng lên một cách sinh động hình tượng một tráng sĩ, một danh tướng Đại Việt hồi thế kỉ XIII, từ hành động đến tâm hồn đều thật cao đẹp, làm cho mọi người cảm phục. Qua một Phạm Ngũ Lão mà ta thấy được ý chí “sát Thát” của cả dân tộc. Bọn xâm lược Nguyên Mông đã thất bại thảm hại qua ba lần tiến vào nước ta vì chúng gặp phải những con người anh hùng như tác giả bài thơ “Thuật hoài”. Trong chiến dich Biên giới năm 1950, Hồ Chủ tịch đã lên quan sát mặt trận Đông Khê. Người đã viết một bài thơ tứ tuyệt bằng chữ Hán rất hay: Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du “Chống gậy lên non xem trận địa, Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây. Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu, Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”. (Bản dịch) “Hào kí Đông A” trong bài thơ Phạm Ngũ Lão đã sống lại trong thơ Bác, tiếp tục động viên quân ta đãnh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Phan Bá Hàm Phân Tích, Cảm nhận về Đoạn Trích"Chí Khí Anh Hùng" *Xuất xứ: Kiều bị lừa vào lầu xanh lầnthứ 2, tâm trạng nàng vô cùng đau khổ và tuyệt vọng. May sao Từ Hải độtngột xuất hiện, đã xem Kiều như tri kỉ và chuộc nàng thoát khỏi lầuxanh. Cả 2 đều là những con người thuộc tầng lớp thấp kém (một gái lầuxanh, một tướng giặc), họ đều bị xã hội phong kiến thối nát lúc bấy giờruồng rẫy, coi thường, và họ đã đến với nhau trong 1 tình cảm gắn bócủa đôi tri kỉ. Từ Hải đánh giá cao sự thông minh, khéo léo của Kiều vàngược lại Kiều nhận thấy ở Từ Hải có chí khí anh hùng hiếm có trongthiên hạ, đồng thời cũng là người duy nhất có thể giải oan cho nàng.Nhưng dù yêu thương Từ Hải, Kiều cũng không thể giữ chân bậc anh hùng.Đã đến lúc Kiều để Từ Hải ra đi lập sự anh hùng. Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du I.Mở bài Cuộcsống con người luôn bị đưa đẩy bởi những oan trái của xã hội phong kiếnthối nát. Họ bị chà đạp, bị đẩy đến bước đường cùng nhưng cũng chính vìvậy mà những số phận đó đã gặp được nhau. Thuý Kiều và Từ Hải cũng vậy,họ thuộc những tầng lớp thấp trong xã hội- một kĩ nữ ,một tướng cướpnhưng Từ Hải và Thuý Kều đã đến với nhau, đã gắn kết với nhau bởi tìnhcảm của tri kỉ, tri âm. Từ Hải đánh giá cao sự thông minh, khéoléo của Kiều và ngược lại Kiều nhận thấy ở Từ Hải có chí khí anh hùnghiếm có trong thiên hạ, đồng thời cũng là người duy nhất có thể giảioan cho nàng. Nhưng dù có yêu thương Từ Hải, Kiều cũng không thể giữchân bậc anh hùng. Đã đến lúc Kiều để Từ Hải ra đi lập sự anh hùng. II. Thân bài 1.Bố cục được phân thành 3 đoạn: -Đoạn 1 (4 câu đầu): hoàn cảnh TH -Đoạn 2 (10 câu tiếp): lời từ biệt của Thuý Kiều và TH -Đoạn 3 (còn lại) : hình ảnh TH ra đi 2. Phân tích * Đoạn 1: (Những từ ngữ tiêu biểu: trượng phu, động lòng 4 phương, động từ "thoắt") Tácgiả sử dụng từ "trượng phu" để chỉ đây là người đàn ông có chi khí lớn.Mặc khác có thể thấy cụm từ "động lòng 4 phương" cho thấy TH là ngườianh hùng, là người của đất trời, 4 phương "trượng phu thoắt đã độnglòng 4 phương" : TH là bậc trượng phu anh hùng, Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du chính vì thế dù đanghạnh phúc bên TK nhưng TH vẫn "thoắt" nhớ đến mục đích, chí hướng củađời mình và đã sẵn sàng "lên đường thẳng rong" (Đoạn văn tham khảo về phân tích 4 đoạn đầu THxuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu độitrời, chân đạp đất. Khi cứu K ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, là vìtrọng K như một tri kỉ. Nhưng khi kết duyên cùng K, TH thực sự là ngườiđa tình. Song dẫu đa tình, TH không quên mình là 1 tráng sĩ, 1 người cóchí khí mạnh mẽ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải cóchí vùng vẫy giữa đất trời cao rộng. TH quả là 1 bậc anh hùng có chílớn và có nghị lực để đạt mục đích cao đẹp của bản thân. Chính vì thế,trong khi đang sống với K những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh phúcnhưng TH không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc,chợt "động lòng 4 phươg", thế là toàn bộ tâm trí hướng về "trời bể mênhmông, với "thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong". Đây là đoạn văn trích từ sách, chỉ tham khảo ) * Đoạn 2,3 (Tham khảo đoạn 2) Chữ"tòng" trong đoạn trích ko chỉ có nghĩa "xuất giá tòng phu" mà nó cònhàm ý K muốn chia sẽ những khó khăn thử thách cùng TH, đồng lòng tiếpsức cho TH. "Từ rằng.... nữ nhi thường tình" TH nói rằng sao Kchưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình ko có ý than phiền K là gánhnặng mà chỉ là mong K cứng rắn hơn. Chàng vừa mong K hiểu mình, đã làtri kỉ thì chia sẽ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Ksẽ vượt qua bịn rịn của 1 nữ nhi thường tình để làm vợ 1 người anh hùng "bao giờ 10 vạn tinh bình... sẽ rước nàng nghi gia" Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du quảlà lời bi liệt của 1 người anh hùng có chí lớn, ko bịn rịn 1 cách yêúđuối như khi "K chia tay Thúc Sinh". sự nghiệp anh hùng đối với TH là ýnghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có thể làm như vật mới đáng vớisự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của TK (TK đoạn 3) 2chữ "dứt áo" trong cụm từ "quyết lời dứt áo ra đi" thể hiện được phongcách mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong lúc li biệt "giómây = đã đến kì dặm khơi": là 1 hình ảnh so sánh thật đẹp đẽ và đầy ýnghĩa. Tác giả muốn ví TH như chim cỡi gió bay ngoài biển khơi . ko chỉthế , trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của con người khi thoảchí tung hoành III. Kết bài Cảm nghĩ về đoạn trích Tìm hiểu chung: Cuộc đời kiều tưởng như bế tắc hoàn toàan khi lần thứ 2 rơi vào lầu xanh thì Từ Hải bỗng xuất hiện và đưa kiều thóat khỏi cảnh ô nhục. hai người sống hạnh phúc “trai anh hung, gái thuyền quyên-phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”. Nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc sống êm đềm bên cạnh nàng Kiều tài sắc, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm đã từ biệt Kiều ra đi. Đọan trích (từ câu 2213-2230) bao gồm ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đối thọai cho thấy chí khí của Từ Hải. Tìm hiểu văn bản: Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du So với những cuộc chia tay khác trong tác phẫm, ở cuộc chia tay này, giữa kiều và từ hải, ta không thấy những lời dặn dò, những băn khoăn lo lắng, những bịn rịn lưu luyến vốn là tâm trạng phổ quát của kẻ ở, người đi. Đọan trích tập trung khắc họa từ hải ở vẻ đẹp của chí khí anh hung. Chí là mục đích cao cả, khí là nội lực mạnh mẽ của quyết tâm, nghị lực bên trong. Có lẽ vì vậy mà dường như Từ xem việc lên đường lập nghiệp lớn là tất yếu, không nghĩ đến việc cần có một cuộc chia tay với Thúy Kiều. Chỉ đến khi Từ đã lên ngựa, Kiều bày tỏ ước nguyện một lòng xin đi cho vẹn chữ tong, Từ Hải mới có dịp bày tỏ suy nghĩ của m2inh. 1/ Hình ảnh Từ Hải: a. Con người có chí khí, khát vọng lớn lao: • Thể hiện ở thờ iđiểm ra đi lập nghiệp lớn: “Nửa năm hương lửa đương nồng,…” Từ dứt áo ra đi khi tình “trai anh hung-gái thuyền quy6en” đang vào độ mặn nồng nhất. (So sánh với Kim Trọng, Thúc Sinh). • Qua hành động và lời nói: Hành động nhanh chóng, dứt khóat, mạnh mẽ, không chút phân vân do dự. Đang “hương lửa” mặn nồng, vậy mà “thoắt” cái là sự giục giã của “lòng bốn phương”. Và ngay lập tức Từ ở tư thế lên đường “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” và sau những lời bày tỏ suy nghĩ là “Quyết lời dứt áo ra đi”. Thẳng rong là đi liền một mạch, chỉ một hướng, không bị chi phối bởi điều gì, đã “quyết lời” là “dứt áo” ra đi không chút vướng bận. • Lời nói: khi Kiều bày tỏ mong muốn được “xin theo” để trọn đạo vợ chồng, cùng chia sẻ với Từ, Từ trách “tâm phúc tương tri,… sao chưa thóat khỏi nữ nhi thường tình”. Trong lời trách còn bao hàm sự động viên, khích lệ Kiều hãy vựot lên sự thường tình của một nhi nữ để làm vợ một anh hung. Trong lời chàng còn Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du là một ước hẹn chắc chắn, vẽ ra một viễn cảnh hào hung, vẻ vang, một sự nghiệp xứng đáng với một anh hung. Nhưng tiếng gọi của sự nghiệp, hoài bão ấy không phải chỉ là lẽ sống của Từ Hải, mà hơn nữa đó là khao khát múôn có một sự nghiệp rỡ rạng để đón Kiều “nghi gia” trong vẻ vang. • Qua hình ảnh không gian: hình ảnh không gian mênh mông, khóang đạt: không igan của biể rộng, trời cao, của bốn phương lồng lộng, của bể Sở sông Ngô tung hòanh. Không gian ấy nâng tầm vóc người anh hung, chắp cánh cho những ước mơ, hòai bão phi thường. Hình ảnh “gió mây bằng…” càng khẳng định tầm vóc Từ Hải: chàng như con chim bằng bay cao, bay xa ngoài biển lớn được thỏa chí tung hoành. b. Thái độ, tình cảm của nhà thơ đối với nhân vật: - Với Nguyễn Du, Từ Hải là “đấng trượng phu” ( chỉ duy nhất từ Hải được Ng Du gọi như thế), là “mặt phi thường”, là cánh chim bằng vượt gió. Từ là ước mơ của Ng Du về tự do, công bằn, công lý. - Khắc họa chân dung Từ Hải, Ng Du dùng hình tượng ước lệ quen thuộc của văn học trung đại khi miêu tả người anh hùng ( lòng bốn phương, thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong, gió mây bằng…) và hình tượng vũ trụ ( đặt nhân vật trong không gian vũ trụ mênh mộng rộng lớn: trời bể mênh mông, tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường…) suy ra: Từ Hải là nhân vật được Ng Du xây dựng theo khuynh hướng lý tưởng hóa. Trong đời Kiều có nhiều cuộc chia tay, chia tay đột ngột với Kim Trọng khi mối tình đầu chớm hé; chia tay Thúc Sinh trong tâm trạng cô đơn, đầy dự cảm không Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du lành. Trong đoạn trích này tác giả tái hiện cảnh Kiều chia tay Từ Hải để chàng ra đi thực hiện nghiệp lớn. Nhưng tại sao người soạn sách lại đặt tên cho đoạn trích này là “Chí khí anh hùng” mà không phải “Từ Hải chia tay Thuý Kiều”? Đó là vì đoạn trích này không tập trung khắc hoạ cảnh chia tay mà muốn khắc hoạ Từ Hải ở vẻ đẹp, tầm vóc và quyết tâm đạt đến khát vọng. I/ Vị trí đoạn trích Vị trí đoạn trích từ câu 2213 tới 2230. Đoạn trích này là sáng tạo riêng của Nguyễn Du so với cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Trong “Kim Vân Kiều truyện” không có cảnh tiễn biệt của hai người và những nhớ mong, chờ đợi của Thuý Kiều sau đó. II/ Đọc hiểu văn bản 1. Ý nghĩa nhan đề đoạn trích: “Chí”: mục đích cao cần hướng tới. “Khí”: nghị lực để đạt tới mục đích. “Chí khí anh hùng” là: lí tưởng, mục đích cao và nghị lực lớn của người anh hùng. 2. Chân dung Từ Hải Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du a. Dáng vẻ, hành động - “Nửa năm hương lửa đương nồng Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.” Sống với Kiều được nửa năm, cuộc sống đang lúc đằm thắm, nồng nàn nhất thì Từ Hải muốn ra đi thực hiện nghiệp lớn. Tâm trí Từ Hải luôn suy nghĩ về những việc lớn lao. Vì thế, việc “động lòng bốn phương” là hợp lí. Từ “bốn phương” chỉ công việc và chí lớn của người nam nhi thời xưa. “Động lòng” nhấn mạnh việc Từ Hải nung nấu những ý chí lớn lao. ý chí đó đã có sẵn trong con người chàng, nó chỉ tạm lui đi trong thời gian sống cùng Kiều, giờ là lúc chàng thể hiện. Từ “thoắt” diễn tả sự mau chóng trong việc thay đổi tâm trạng, dáng vẻ của Từ Hải. ở đây, Nguyễn Du đã gọi Từ Hải là “trượng phu”. Đó là cách nói vô cùng trân trọng với các vị anh hùng. Nó dựng lên dáng vẻ bệ vệ, oai nghiêm, đĩnh đạc của một vị tướng võ. - “Trông vời trời bể mênh mang Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.” Câu thơ miêu tả hành động nhìn ra xa, đồng thời khắc hoạ dáng vẻ phóng khoáng của Từ Hải. Nguyễn Du đã xây dựng hình ảnh Từ Hải song song, sánh ngang với hình ảnh trời đất. Nhắc đến Từ Hải là thấy hình ảnh cao rộng của trời đất, vũ trụ. Những từ láy, từ biểu cảm chỉ độ rộng, độ cao càng khắc hoạ rõ hơn tư thế của Từ Hải. Cái nhìn của chàng không phải là trông hay nhìn bình thường mà là “trông vời” - cái nhìn ẩn chứa sự sáng suốt và suy nghĩ phi thường. Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du Từ Hải một mình ra đi thực hiện ý nguyện của mình. Việc xây dựng Từ Hải độc lập một mình không làm chân dung chàng đơn độc mà càng cho thấy sự dũng mãnh của chàng. Hành động được miêu tả đầy sự dứt khoát, nhanh nhẹn. Đã nghĩ là làm, Từ Hải không bao giờ chần chừ, do dự, suy tính lâu. “Thoắt đã động lòng bốn phương” là “lên đường thẳng rong” ngay. - “Quyết lời dứt áo ra đi, Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.” Tác giả để Từ Hải “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.” rồi mới để Kiều nói xin đi theo nói lên việc chàng ra đi là quyết định chắc chắn, không thể lay chuyển nổi. Thuý Kiều muốn theo Từ Hải, nhưng với chàng đã làm là dứt khoát. Dặn dò xong Kiều, Từ Hải ra đi ngay. Từ “quyết” và “dứt” cùng xuất hiện trong một câu thơ cho thấy sự quyết đoán của Từ. Câu thơ cuối đoạn dựng lên hình ảnh phóng khoáng, kì vĩ về Từ Hải. Nguyễn Du đã so sánh Từ Hải với chim bằng để nhấn mạnh bản lĩnh phi thường của chàng. Cảnh chàng ra đi thực hiện sự nghiệp hùng tráng như cảnh chim bằng tung bay giữa gió mây. => Dáng vẻ, hành động của Từ Hải đầy phóng khoáng, kì vĩ, dứt khoát, nhanh nhẹn và oai nghiêm . b. Lời nói - Từ Hải ra đi không lưu luyến, bịn rịn tình cảm như thường thấy ở mọi người. Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du Dù yêu thương Thuý Kiều, coi nàng là “tâm phúc tương tri” song nàng quyết tâm ra đi một mình. Câu hỏi “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?” khẳng định chàng là bậc nam nhi sự nghiệp và tình cảm rạch ròi. -Từ Hải có lí tưởng công danh lớn lao. Điều đó thể hiện qua lời hứa với Thuý Kiều. Những khát vọng của chàng đều phi thường. Đó là việc phải có được “Mười vạn tinh binh,/ Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời.”. Từ đó để mọi người thấy được tài năng xuất chúng của Từ Hải: “Làm cho rõ mặt phi thường./ Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”. Từ “mặt phi thường” dùng rất trúng. Nó cho thấy sự tự tin, kiêu hãnh của Từ Hải. Đây không chỉ là lời của riêng Từ Hải mà ẩn dấu sau đó còn có cái nhìn trân trọng, tự hào của Nguyễn Du. -Từ Hải hẹn ước chắc nịnh. Chàng hẹn khi thành công sẽ cưới Thuý Kiều. Đó là khi nào? Chàng không nói vu vơ mà hẹn ước chắc chắn: “Đành lòng chờ đó ít lâu,/ Chầy chăng là một năm vội gì!”. Xác định rõ mục tiêu và thời gian phấn đấu, Từ Hải đã vẽ ra con đường đi cụ thể cho mình. Do vậy, những gì chàng nói đều chắc như đinh đóng cột. => Từ Hải là người có lí tưởng công danh lớn, rạch ròi giữa sự nghiệp và tình cảm, có cách phấn đấu cụ thể chứ không chung chung. : Với chí khí anh hùng, hoài bão lớn lao và niềm tin chắc chắn như vậy, Từ Hải đem đến cho cuộc đời Kiều không phải cái rung động chớm hé của buổi yêu đầu, không phải cuộc sống bình thường mà thức dậy ở Kiều những điều người khác không có được: đó là khát vọng về công bằng, chính nghĩa. Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du c. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Từ Hải -Từ Hải được miêu tả bằng những từ ngữ trang trọng: “trượng phu”, “mặt phi thường. Bên cạnh đó là những hình ảnh ước lệ mang tính vũ trụ: “động lòng bốn phương”, “Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời”, “Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”. Những từ ngữ, hình ảnh này nhằm nhấn mạnh chân dung tiêu biểu của một vị anh hùng đồng thời thể hiện cái nhìn trân trọng của Nguyễn Du với Từ Hải. -Tác giả chủ yếu miêu tả những hành động và lời nói của Từ Hải, ít đi sâu vào nội tâm. Nguyễn Du đã sử dụng cách miêu tả lí tưởng hoá để nâng cao tầm vóc của Từ Hải. 3. Thái độ và ước mơ của N.Du qua Từ Hải Có giai thoại như sau: vua Tự Đức khi đọc đến đoạn Nguyễn Du viết về Từ Hải đã đòi phạt tác giả 300 roi. Tại sao lại vậy? Vì theo giai cấp phong kiến, Từ Hải chỉ là một tên giặc cỏ (VD: Cao Bá Quát, Nguyễn Huệ). Trong “Kim Vân Kiều truyện”, Từ Hải cũng được miêu tả là một tên có nét tướng cướp. Nhưng khi bước vào “Truyện Kiều”, con người dám chống lại triều đình ấy được miêu tả như một anh hùng. Nguyễn Du đã dùng những hình ảnh đẹp nhất để miêu tả Từ. Từ Hải là bóng dáng của những người anh hùng nông dân khởi nghĩa với bao phen thay đổi sơn hà. -Thái độ của tác giả với Từ Hải: yêu quý, cảm phục. Nguyễn Du đã dồn nén giấc Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du mơ về tự do và công lí của mình trong con người Từ Hải. -Quan điểm về người anh hùng của tác giả: người anh hùng phải làm được những việc lớn lao, dám nghĩ dám làm, có dáng vẻ phóng khoáng, dứt khoát, oai nghiêm. III/ Tổng kết - Từ Hải là một vị anh hùng đầy phóng khoáng, dứt khoát, nhanh nhẹn và oai nghiêm, có lí tưởng công danh lớn, rạch ròi giữa sự nghiệp và tình cảm. - Nguyễn Du đã sử dụng cách miêu tả lí tưởng hoá để nâng cao tầm vóc của Từ Hải. - Từ Hải là hiện thân cho giấc mơ tự do, công lí của Nguyễn Du. Tính cách anh hùng của Từ Hải Con người này như một thứ sức mạnh của thiên nhiên , vẫy vùng giữa trời cao đất rộng, không có sức gì kiềm giữ được, kể cả sức mạnh của tình yêu. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa chợt động lòng bốn phương thế là một mình dứt áo ra đi, Kiều xin theo không được. Bởi vì con người này không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du là người của trời đất, của bốn phương. Bao nhiêu oan khuất đã chồng chất lên cuộc đời Kiều, tiếng kêu trời đã bao lần vút lên vô ích. Bọn gian ác cứ lộng hành, bao nhiêu dơ dáy cứ bày ra trước mắt Chưa biết làm thế nào để thoát khỏi cảnh đời tù túng thối tha. Yêu cầu của câu chuyện, yêu cầu của người đọc chuyện cũng như của mọi người trong xã hội đương thời là phải có một cách gì đấy đẻ giải thoát. Hình ảnh Từ Hải đã đáp ứng đúng sự khao khát ấy của người ta. Nó có giá trị như một giấc mơ tuyệt đẹp. Trước hết là một giấc mơ tung hoành cho phỉ sức, phỉ chí. Cái khổ của Kiều và của mọi người trong khuôn khổ chật chội của xã hội đương thời là tưởng chừng như cựa về bên nào cũng vấp, luôn luôn bị dồn ép, xô đẩy, không sao làm chủ được mình. TỪ Hải trái laik, thong dong đi lại đó đây, như mây baym, như gió lượn, tưởng chừng như không bị vướng vì một thứ vật cản nào: Giang hồ quen thói vẫy vùng Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.. Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du ... Kiều luôn nơm nớp, không dám tin ở mình, không dám tin ở tương lai. Từ Hải trái lại, tự tin vô cùng. Ngay trong cảnh trần ai, Từ Hải đã ngang nhiên xem mình là anh hùng, tất cả sự nghiệp sau này như đã nắm chắc trong tay. Mà quả nhiên Từ Hải cứ muốn là được. Thúc Sinh muốn đưa Kiều ra khỏi lầu xanh còn phải qua bao nhiêu chật vật. Từ Hải chỉ nói một tiếng là xong. Từ Hải hứa với kiều cùng hưởng cảnh muôn chung nghìn tứ, thé là có muôn chung nghìn tứ. Từ Hải muốn 10 vạn tinh binh là có 10 vạn tinh binh. Từ Hải hứa báo ân báo oán là báo ân báo oán. Con người này như một thứ sức mạnh của thiên nhiên , vẫy vùng giữa trời cao đất rộng, không có sức gì kiềm giữ được, kể cả sức mạnh của tình yêu. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa chợt động lòng bốn phương thế là một mình dứt áo ra đi, Kiều xin theo không được. Bởi vì con người này không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương. ..... Bình giảng bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão Và “Chí khí anh hùng “ của Nguyễn Du NHưng Từ Hải không phải chỉ thẻ hiện giấc mơ tung hoành. Cái khao khát của những lớp người bị áp bức trong thời phong kiến không phải chỉ là khao khát tung hoành, khao khát tự do tuyệt đối. Một cái khao khát cũng rất khẩn thiết, có khi lại khẩn thiết hơn nữa là khao khát CÔNG LÝ. NGười bị oan phải được giải oan. Những người có tội phải đền tội. bao nhiêu dơ dáy phải được quét đi....... Với Thanh Tâm Tài nhân, Từ Hải tuy anh hùng nhưng vẫn là một nhân vật Tiểu thuyết. Với Nguyễn DU, Từ Hải đã trở nên một nhân vật anh hùng ca. Nguyễn Du đã bỏ hết những chi tiết có thể khiển người ta nghĩ TH cũng là một người như mọi người. Thanh Tâm Tài Nhân muốn tô điểm cho Từ Hải đã biến cái nhà sư phá giới của Dư Hoài thành một nhà nho đi thi không đỗ, bỏ ra đi buôn. Với Nguyễn Du chúng ta không cần biết TH tung tích như thế nào: Lần thâu gió mát trăng thanh Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan