Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Biện pháp sử dụng có hiệu quả một số kỹ thuật dạy học trong dạy học theo nhóm mô...

Tài liệu Biện pháp sử dụng có hiệu quả một số kỹ thuật dạy học trong dạy học theo nhóm môn sinh học lớp 9 ở trường thcs lâm xa

.PDF
24
70
124

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp sử dụng có hiệu quả một số kỹ thuật dạy học trong dạy học theo nhóm môn Sinh học 9 ở trường THCS Lâm Xa Người thực hiện: Nguyễn Văn Toàn Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Lâm Xa SKKN thuộc lĩnh vực : Sinh Học THANH HÓA, NĂM 2018 MỤC LỤC STT NỘI DUNG TRANG 1 1.Mở đầu. 2 2 1.1. Lí do chọn đề tài. 2 3 1.2. Mục đích nghiên cứu. 3 4 1.3. Đối tượng nghiên cứu 3 5 1.4. Phương pháp nghiên cứu 3 6 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 4 7 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. 4 8 2.2. Thực trạng của vấn đề . 7 9 2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện. 10 10 2.4. Kết quả đạt được. 20 11 3.Kết luận,kiến nghị. 21 12 Tài liệu tham khảo 22 1 1.Mở đầu. 1.1. Lí do chọn đề tài. Đại hội Đang lần thứ XI đã nêu rõ tám phương hướng cơ bản để phat triển đất nước. Trong đó có nội dung “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức”. Muốn thực hiện được điều đó thì điều không thể thiếu là phải nhanh chóng tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật của thế giới, nhất là vào thời điểm ngày nay công nghệ phát triển như vũ bão và nước ta đã và đang tích cực hội nhập quốc tế. “ Dạy học là một nghệ thuật” nghĩa là thực hiện một tiết dạy trên lớp không chỉ đơn thuần là truyền thụ đầy đủ kiến thức SGK, hoàn thành kế hoạch bài giảng. Bài giảng dù dễ hay khó, dù đơn giản hay phức tạp thì luôn cần một tấm lòng của thầy đối với học sinh thân yêu.Thực tế cho thấy đôi khi kết thúc một tiết học HS cảm thấy căng thẳng, nặng nề mà bản thân mỗi giáo viên cũng cảm thấy mệt mỏi không kém .Yêu cầu giáo dục ngaỳ nay phải ‘ Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” nghĩa là GV chỉ là người hướng dẫn, theo dõi, dẫn dắt , HS phaỉ là người chủ động chiếm lĩnh tri thức. Nhằm đào tạo ra những con người năng động, độc lập, sáng tạo, biết hợp tác giúp đỡ nhau cùng tìm ra tri thức. Biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống cho bản thân cũng như xã hội. Vậy để hoạt động giáo dục có hiệu quả và đạt chất lượng cao thì việc đổi mới nội dung và phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh là rất cần thiết. “ Dạy học là một nghệ thuật” nghĩa là thực hiện một tiết dạy trên lớp không chỉ đơn thuần là truyền thụ đầy đủ kiến thức SGK, hoàn thành kế hoạch bài giảng. Bài giảng dù dễ hay khó, dù đơn giản hay phức tạp thì luôn cần một tấm lòng của thầy đối với học sinh thân yêu.Thực tế cho thấy đôi khi kết thúc một tiết học HS cảm thấy căng thẳng, nặng nề mà bản thân mỗi giáo viên cũng cảm thấy mệt mỏi không kém .Yêu cầu giáo dục ngaỳ nay phải ‘ Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” nghĩa là GV chỉ là người hướng dẫn, theo dõi, dẫn dắt , HS phaỉ là người chủ động chiếm lĩnh tri thức. Nhằm đào tạo ra những con người năng động, độc lập, sáng tạo, biết hợp tác giúp đỡ nhau cùng tìm ra tri thức. Biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống cho bản thân cũng như xã hội. Một trong những phương pháp dạy học tích cực đang các trường trung học cơ sở (THCS) đánh giá mang lại hiệu quả cao là phương pháp thảo luận nhóm (hay còn có tên khác là dạy học hợp tác hoặc dạy học theo nhóm). Hiện nay, học tập theo nhóm vừa là một yêu cầu vừa là một phương pháp học được khuyến khích áp dụng rộng rãi. Trong xu thế hội nhập của đất nước, vai trò của phương pháp học này càng trở nên quan trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả học tập của người học và phát triển năng lực giao tiếp, làm việc hợp tác. Dạy học theo nhóm là một phương pháp giảng dạy trong đó người dạy sẽ tổ chức người học thành những nhóm nhỏ để thực hiện các hoạt động như: thảo luận, 2 đóng vai, giải quyết vấn đề,... Mỗi thành viên không chỉ có trách nhiệm thực hiện các hoạt động của nhóm mà còn phải có trách nhiệm hợp tác, giúp đỡ các thành viên trong nhóm hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Đây là một phương pháp giảng dạy khá ưu việt (sẽ được đề cập đầy đủ trong phần cơ sở lí luận), cho phép rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm cho học sinh hiện đang được áp dụng rộng rãi cho nhiều môn học và trong nhiều trường, không chỉ ở cấp THCS mà còn được áp dụng ở nhiều cấp học khác. Thế nhưng trong thưc tế giảng dạy khi áp dụng phương pháp này cũng gặp không ít những hạn chế đó là: - Còn có một số học sinh ỷ lại vào những người giỏi hơn vì nghĩ họ sẽ giúp mình hoàn thành công việc được giao mà không cần tham gia hoạt động. - Có thể đi lệch hướng thảo luận do tác động của một vài cá nhân - Có một số HS khá, giỏi quyết định quá trình, kết quả thảo luận nhóm nên chưa đề cao sự tương tác bình đẳng và tầm quan trọng của từng thành viên trong nhóm. - Nếu lấy kết quả thảo luận chung của nhóm làm kết quả học tập cho từng cá nhân thì chưa công bằng và chưa đánh giá đúng thực chất được sự nỗ lực của từng cá nhân trong nhóm. - Sự áp dụng cứng nhắc và quá thường xuyên, thiếu sáng tạo của GV sẽ gây nhàm chán và giảm hiệu quả trong hoạt động học tập của các em. - Điều hành không tốt dễ dẫn đến mất trật tự trong học tập, tốn thời gian không cần thiết . Bắt đầu từ năm học 2017-2018 việc đánh giá xếp loại giờ dạy của giáo viên THCS được thực hiện theo công văn số 5555/BGĐT-GDTrH ngày 08/10/2014 và theo hướng dẫn số 572/HD-SGĐT Thanh Hóa ngày 29 tháng 03 năm 2017. Việc đánh giá giờ dạy của giaó viên theo các nội dung “Kế hoạch và tài liệu dạy học,tổ chức hoạt động học cho học sinh,hoạt động học của học sinh”[2]. Vậy làm thế nào để vẫn áp dung phương pháp hoạt động nhóm nhưng phải khắc phục được cơ bản những hạn chế nêu trên. Đó là lý do tôi viết sáng kiến "Biện pháp sử dụng có hiệu quả một số kỹ thuật dạy học trong dạy học theo nhóm môn sinh học 9 ở trường THCS Lâm Xa" . 1.2. Mục đích nghiên cứu. Việc sử dụng kết hợp có hiệu quả một số kỹ thuật dạy học trong dạy học theo nhóm trong dạy học môn sinh học 9 ở trường THCS Lâm Xa qua các tiết học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng kết hợp các kỹ thuật dạy học với các phương pháp dạy học tích cực như vấn đáp gợi mở, có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH. Sau mỗi mỗi tiết mỗi chương hoặc mỗi phần nếu sử dụng bản 3 đồ tư duy để hệ thống hóa kiến thức thì HS sẽ khắc sâu được những kiến thức đó một cách khoa học và giúp các em ôn tập một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Việc sử dụng có hiệu quả một số kỹ thuật dạy học trong giảng dạy Sinh học 9 để nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, đáp ứng được mục tiêu của giáo dục hiện nay,đúng tinh thần công văn 572 ngày 29/03/2017 của SGDĐT Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tham khảo, nghiên cứu tài liệu hướng dẫn về phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực nói chung và phương pháp, kỹ thuật dạy học sử dụng bản đồ tư duy. Tham khảo SGK, SGV, sách chuẩn kiến thức kĩ năng bộ môn Sinh học. Sử dụng phần mềm mindmap thiết kế bản đồ tư duy. - Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát thái độ, mức độ hứng thú học tập của học sinh. - Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm dạy và học: Tích lũy các giờ dạy trên lớp, dự giờ đồng nghiệp, đồng nghiệp dự giờ góp ý. - Phương pháp thực nghiệm: Lựa chọn lớp thực nghiệm và lớp đối chứng; áp dụng dạy thử nghiệm trên lớp. - Phương pháp phân tích: So sánh chất lượng giờ dạy, lực học, mức độ tích cực của học sinh khi chưa áp dụng SKKN với khi đã áp dụng SKKN. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. 2.1.1. Phương pháp dạy học Phương pháp dạy học theo quan niệm hiện nay là cách thức hướng dẫn và chỉ đạo của giáo viên nhằm tổ chức họat động nhận thức và hoạt động thực hành của học sinh, dẫn tới việc học sinh lĩnh hội vững chắc nội dung học vấn, hình thành thế giới quan và phát triển năng lực nhận thức. Theo đó vai trò của học sinh trong quá trình dạy học là quá trình chủ động. Như vậy việc dạy học theo những phương pháp dạy học tích cực là vấn đề thật cần thiết. Phương pháp dạy học tích cực là một hệ thống những phương pháp sau: Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề; Phương pháp hoạt động nhóm (hay Phương pháp dạy học hợp tác); Phương pháp kích thích tư duy; Phương pháp Thí nghiệm nghiên cứu; Phương pháp giao tiếp; Phương pháp phỏng vấn hay Phương pháp vấn đáp; Phương pháp trực quan; Ngoài ra còn có một số phương pháp hiện đại khác.Trong lí luận về phương pháp day học thì không có phương pháp nào là tối ưu, mỗi phương pháp có ưu và nhược điểm riêng và phù hợp với từng kiểu bài khác nhau. Nhưng trong thực tế dạy học tôi thường hay sử dụng nhất là Phương pháp hoạt động nhóm. 4 2.1.2. Phương pháp dạy học theo nhóm 2.1.2.1. Khái niệm phương pháp dạy học theo nhóm Theo tài liệu dạy và học tích cực thì dạy và học hợp tác là: “Giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động trong những nhóm nhỏ để hoc sinh cùng thực hiện một nhiệm vụ nhất định. Trong nhóm, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của nhóm trưởng học sinh kết hợp giữa làm việc cá nhân, làm việc theo cặp, chia sẽ kinh nghiệm và hợp tác cùng nhau để giải quyết nhiệm vụ được giao”[1]. Theo đó khi học theo nhóm mỗi thành viên trong nhóm không chỉ có trách nhiệm tự học tập, mà còn có trách nhiệm giúp đỡ các thành viên trong nhóm để cùng hoàn thành mục đích học tập chung của cả nhóm. 2.1.2. 2. Đặc điểm dạy học theo nhóm Dạy học theo nhóm có một số đặc điểm sau - Hoạt động dạy học vẫn được tiến hành trên quy mô cả lớp, như mô hình giờ học truyền thống. - Việc phân chia nhóm học sinh vừa tuân theo đặc điểm tâm lý lứa tuổi, nhận thức của học sinh, vừa phụ thuộc vào nhiệm vụ học tập học sinh cần phải giải quyết. - Trong mỗi nhóm phải có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng thành viên, phải cùng hợp tác, trao đổi giải quyết nhiệm vụ chung của nhóm. - Học sinh phải trực tiếp tham gia các hoạt động, giải quyết các nhiệm vụ học tập được đặt ra cho mỗi nhóm. - Giáo viên là người thiết kế các nhiệm vụ học tập và đưa ra các hoạt động cụ thể cho từng nhóm. Giáo viên chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn chứ không lam thay. - Học sinh là chủ thể tích cực chủ động sáng tạo của hoạt động học tập. Dạy học theo nhóm có sự tương tác trực tiếp giữa học sinh với nhau, cùng nhau thảo luận và cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ học tập. Mỗi cá nhân phải có ý thức tự hoàn thành nhiệm vụ của mình. Thành công của cá nhân là thành công chung của cả nhóm. - Giáo viên là người thức tỉnh tổ chức và đạo diễn. Trong giờ học theo nhóm, giáo viên dẫn dắt học sinh khám phá, lĩnh hội kiến thức qua từng bước. Các nhóm học sinh tự tiến hành các hoạt động, qua đó có thể rút ra các tri thức, kiến thức cần thiết cho mình. Giáo viên là người tổ chức, điều khiển học sinh tự tiến hành các hoạt động nghiên cứu, tìm tòi kiến thức 2.1.2. 3. Ưu và nhươc điểm của dạy học theo nhóm a. Ưu điểm : 5 - Tăng cường sự tham gia tích cực của học sinh. Học sinh được chủ động tham gia, được bày tỏ ý kiến quan điểm của mình và được tôn trọng.... - Nâng cao kết quả học tập - Ngoài ra còn phát triển năng lực lãnh đạo, tổ chức, năng lực hợp tác của học sinh, tăng cường đánh giá đồng đẳng và tự đánh giá trong nhóm. b. Nhược điểm: - Có một số thành viên ỷ lại không làm việc vì nghĩ có những người giỏi hơn sẽ giúp mình hoàn thành công việc được giao mà không tham gia hoạt động. - Việc thảo luận có thể đi lệch hướng do tác động của một vài cá nhân (hiện tượng chi phối, tách nhóm). - Có một số HS khá, giỏi quyết định quá trình, kết quả thảo luận nhóm nên chưa đề cao sự tương tác bình đẳng và tầm quan trọng của từng thành viên trong nhóm. - Nếu lấy kết quả thảo luận chung của nhóm làm kết quả học tập cho từng cá nhân thì chưa công bằng và chưa đánh giá đúng thực chất được sự nỗ lực của từng cá nhân trong nhóm. - Sự áp dụng cứng nhắc và quá thường xuyên, thiếu sáng tạo của giáo viên sẽ gây nhàm chán và giảm hiệu quả trong hoạt động học tập của các em. Như đã nói ở trên phương pháp này tuy còn một số nhược điểm nhưng vẫn là phương pháp mà được tôi và rất nhiều đồng nghiệp khác sử dụng thường xuyên nhất trong các phương pháp dạy học tích cực. Để khắc phục căn bản những hạn chế nêu trên, tôi đã sử dụng kết hợp phương pháp hoạt động nhóm với một số kỹ thuật dạy học trong quá trình tổ chức dạy học. Kết quả: đã có những chuyển biến tích cực đến bất ngờ trong nhận thức và tư duy của học sinh (sẽ được chứng minh ở phần thực trạng và kết quả). Vậy kỹ thuật dạy học là gì? Những kỹ thuật dạy học nào có thể kết hợp thường xuyên và có hiệu quả nhất với Phương pháp dạy học theo nhóm? 2.1.3. Kĩ thuật dạy học “Kỹ thuật dạy học là biện pháp, cách thức tiến hành các hoạt động dạy học dựa vào các phương tiện thiết bị nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả giảng dạy và giáo dưỡng hay có thể nói cách khác đó là cách thức hoạt động dạy học, tổ chức hoạt động giáo dưỡng để bảo đảm hiệu quả, chất lượng giảng dạy”[1]. Kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực của học sinh vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của học sinh. Có nhiều kỹ thuật dạy học khác nhau mà giáo viên có thẻ áp dụng trong quá trình dạy học. Có thể kể tới 19 kỹ thuật dạy học tiêu biểu, có ưu thế cao trong việc 6 phát huy tính tích cực của học sinh gồm: Kĩ thuật động não; Kĩ thuật chia nhóm; Kĩ thuật giao nhiệm vụ; Kĩ thuật đặt câu hỏi; Kĩ thuật “khăn trải bàn”; Kĩ thuật “ phòng tranh”; Kĩ thuật “ công đoạn”; Kĩ thuật các “mảnh ghép”; Kĩ thuật “ trình bày một phút”; Kĩ thuật “ chúng em biết 3”; Kĩ thuật “ hỏi và trả lời”; Kĩ thuật “ hỏi chuyên gia”; Kĩ thuật “ bản đồ tư duy”; Kĩ thuật “ hoàn tất một nhiệm vụ” ; Kĩ thuật “ viết tích cực”; Kĩ thuật “ đọc hợp tác”; Kĩ thuật “ nói cách khác”; Kĩ thuật “ phân tích phim”; Kĩ thuật “ tóm tắt nội dung tài liệu theo nhóm”. Trong phạm vi của sáng kiến này, Tôi chỉ đề cập đến một số kỹ thuật dạy học tích cực mà tôi thường xuyên sử dụng và có hiệu quả nhất trong dạy học hợp tác môn sinh hoc 9, đó là: Kỹ thật mảnh ghép, kỹ thuật khăn phủ bàn, sử dụng sơ đồ tư duy 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.2.1 Thuận lợi: Có rất nhiều kỹ thuật dạy học khác nhau mà giáo viên có thể sử dụng trong quá trình giảng dạy. Trong những năm gần đây cùng với sự quan tâm phát triền kinh tế của đất nước thì giáo dục cũng đang được sự quan tâm lớn của chính phủ và toàn xã hội. Vậy để nâng cao chất lượng giáo dục, thì việc đổi mới về nội dung, phương pháp dạy học, trong đó đổi mới phương pháp nhằm phát huy tích tích cực, chủ động sáng của học sinh là rất cần thiết. điều này đã được xác định rõ trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (01/1993) và Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12/1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (2005) - Các giáo viên được Sở GD & ĐT và Phòng GD & ĐT cho đi tập huấn về đổ mới phương pháp và kỹ thuật dạy học từ năm 2012. Do vây nhiều giáo viên đã tích cực vận dụng phương pháp học tập theo nhóm cho học sinh trong quá trình giảng dạy tạo ra sự đồng bộ trong dạy học của nhiều môn học. Bắt đầu từ năm học 2017-2018 việc đánh giá xếp loại giờ dạy của giáo viên THCS được thực hiện theo công văn số 5555/BGĐT-GDTrH ngày 08/10/2014 và theo hướng dẫn số 572/HD-SGĐT Thanh Hóa.Việc đánh giá giờ dạy của giaó viên theo các nội dung “Kế hoạch và tài liệu dạy học, tổ chức hoạt động học cho học sinh, hoạt động học của học sinh”[2] - Được sự quan tâm tạo điều kiện tối đa của Ban giám hiệu đã mua 1 máy chiếu Projecte phục vụ công tác giảng dạy. Đây là phương tiện dạy học rất cần thiết cho việc tổ chức dạy học tích cực, nhất là hoạt động nhóm. - Phần lớn học sinh đã nhận thấy được vai trò và ý nghĩa của phương pháp học tập theo nhóm đối với việc học tập của học sinh. 2.2.2. Khó khăn. 7 - Do tay nghề của giáo viên không đồng đều nên hiệu quả của hoạt động nhóm đôi lúc còn chưa cao. Học sinh còn chú trọng tạo ra sản phẩm để nộp thầy cô mà ít chú trọng đến quá trình hợp tác nhóm để tạo ra sản phẩm nhóm đúng nghĩa. - Nhiều học sinh còn thiếu và yếu về các kỹ năng làm việc nhóm, đặc biệt là kỹ năng chia sẻ trách nhiệm, kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá hoạt động nhóm. - Ý thức tham gia, đóng góp ý kiến của một bộ phận học sinh còn chưa cao, còn mang tâm lý trông chờ, ỷ lại. - Đa số nhóm trưởng còn thiếu kỹ năng trong điều hành và quản lý hoạt động của nhóm. - Dạy học tích cực cần nhiều thời gian chuẩn bị và còn tốn kém, trong khi lương giáo viên còn thấp và phải tham gia rất nhiều hoạt động giáo dục khác, số loại hồ sơ giáo viên ngày càng nhiều. Bản thân xác định còn những khó khăn trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau: Nguyên nhân khách quan: - Một số thầy cô giáo cũng chưa thường xuyên trao đổi, hướng dẫn, cung cấp cho học sinh những kỹ năng và phương pháp làm việc nhóm cho học sinh. Hoc sinh chỉ biết nhận nhiệm vụ là hoàn thành bài tập bằng cách làm việc nhóm mà chưa biết phải làm việc nhóm như thế nào để hoàn thành bài tập một cách tốt nhất. - .Quỹ thời gian cho mỗi tiết học quá eo hẹp (45') gây khó khăn cho giáo viên trong tổ chức và chọn nội dung hoạt động nhóm một cách triệt để và hiêu quả. - Ngành giáo dục đang trong quá trình đổi mới nên còn nhiều bất cập. - Đồ dùng dạy học, phòng học chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp - Việc xây dựng một tiết dạy của giáo viên bây giờ phải dưa trên nhiều căn cứ: PPCT, Chuẩn kiến thức kỹ năng, hướng dẫn nội dung giảm tải, sách giáo khoa. Nguyên nhân chủ quan: - Một số học sinh chưa hình thành cho mình ý thức tích cực và tự giác trong học tập, làm việc nhóm, chưa chịu khó tìm hiểu để có thể tự trang bị cho mình những kĩ năng và phương pháp học nhóm có hiệu quả. Từ đó dẫn đến học sinh thiếu và yếu về phương pháp, kỹ năng học nhóm như: Phương pháp tiến hành hoạt động nhóm của các nhóm chưa khoa học, chưa hợp lý, thiếu mục tiêu cụ thể, thiếu kế hoạch, thiếu nội quy- nguyên tắc nhóm, phân công nhiệm vụ chưa phù hợp v.v... - Nhiều nhóm chưa lắng nghe, chưa tạo cơ hội cho các thành viên được thể hiện, khẳng định mình, được thảo luận và phát biểu ý kiến. Từ đó dẫn đến tình 8 trạng một số thành viên chán nản, buông xuôi, phó mặc chỉ tham gia một cách chiếu lệ, đối phó. Vì vậy chưa thực sự phát huy hết năng lực của mình. - Nhóm trưởng chưa thực sự phát huy được vai trò của mình, chưa có năng lực và kỹ năng trong việc điều hành nhóm,các thành viên chưa làm việc hết mình. - Giáo viên chưa thực sự linh hoạt trong việc vận dụng và phối hợp các phương pháp và kỹ thuật dạy học với nhau để phát huy hết điểm mạnh và hạn chế điểm yếu của mỗi phương pháp hay kỹ thuật dạy học cụ thể. 2.2.3. Kết quả khảo sát thực tế: Trong những năm trước đây tôi thường chỉ áp dụng một phương pháp dạy học mà chưa có sự phối kết hợp linh hoạt giữa các phương pháp hay giữa phương pháp với kỹ thuật dạy học thì trong các giờ học thường chỉ có học sinh khá - giỏi tham gia học tập tích cực, số học sinh yếu ít có cơ hội tham gia hoạt động. Chính vì thế nên việc học tập thường ít hứng thú, nội dung đơn điệu, việc quan tâm đến phát triển năng lực cá nhân còn hạn chế. Kết quả khảo sát thực tế về mức độ tham gia hoạt động nhóm của học sinh khối 9 môn sinh học đầu năm học 2016 - 2017 trường THCS Lâm Xa: Sĩ số Tích cực, chủ động tham gia Chỉ tham gia đối phó Gần như không tham gia 32 11 16 5 Qua kết quả kiểm tra trên cho thấy: Số học sinh tích cực, chủ động tham gia hoat động nhóm còn thất, chủ yếu là đố phó và ngồi vào nhóm cho có ngồi, không tham gia vào hoạt động. Có nhiều nguyên nhân cho số liệu trên nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do ý thức của học sính và phương pháp giáo dục của giáo viên còn nhàm chán, chưa lôi cuốn được học sinh. Đồng thời kết quả khảo sát đầu năm học 2017-2018 môn Sinh học khối 9 cũng chưa cao, số học sinh có học lực thuộc loại trung bình và yếu chiếm tỉ lệ khá cao, số học sinh có học lực khá, giỏi còn chiếm tỉ lệ thấp. Cụ thể như sau: Tổng số học sinh Loại giỏi Loại khá Loại TB Loại yếu Số HS (9A+9B) 49 4 12 26 7 Tỉ lệ (%) 100 8.1 24.5 53.1 14.3 2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện. 9 Trong quá trình giảng dạy sinh 9 bản thân tôi đã tích cực sử dụng Phương pháp hoạt động nhóm có sự kết hợp linh hoạt với các kỹ thuật dạy học tích cực trong quá trình giảng dạy để nâng cao chất lượng giảng dạy. Các kỹ thuật dạy học chủ yếu được áp dụng trong tổ chức dạy học nhóm là: Kỹ thuật mảnh ghép, kỹ thuật khăn phủ bàn và kỹ thuật sử dụng sơ đồ tư duy. Từ thực tế dạy học tôi nhận thấy gần như tất cả các bài trong chương trình sinh học 9 đều có thể áp dung cách này để dạy. Cụ thể là: 2.3.1. Phối hợp linh hoạt kỹ thuật mảnh ghép trong phương dạy học nhóm: Muốn làm tốt việc này, tôi xác định trước hêt phải hiểu rõ kỹ thuật mảnh ghép là gì và cách tiến hành ra sao? “Kỹ thuật mảnh ghép là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm mục tiêu: Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp; Kích thích sự tham gia tích cực của học sinh trong hoạt động nhóm; Nâng cao vai trò và tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân trong quá trình hợp tác”[1] (Không chỉ nhận thức hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt kết quả và hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 2). Kỹ thuật mảnh ghép được tiến hành qua 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: “Nhóm chuyên sâu”: Lớp học được chia thành các nhóm, mỗi nhóm được giao nhiệm vụ tìm hiểu sâu 1 vấn đề. Sau 1 thời gian nhất định thảo luận, mỗi thành viên trong nhóm đều nắm vững và trình bày được kết quả của nhóm. Giai đoạn 2: “Nhóm mảnh ghép”: Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở giai đoạn 1, mỗi học sinh ở các nhóm chuyên sâu khác nhau lại tập hợp lại thành nhóm mới là nhóm mảnh ghép. Và nhóm “mảnh ghép” nhận được một nhiệm vụ mới, nhiệm vụ này mang tính khái quát, tổng hợp toàn bộ nội dung đã được tìm hiểu từ các nhóm “chuyên sâu”. Cách vận dụng kỹ thuật “mảnh ghép” trong dạy học hợp tác môn sinh học 9 ở trường THCS Lâm Xa: Trong điều kiện giảng dạy trên lớp, trong thời gian 1 tiết học, kỹ thuật mảnh ghép thích hợp nhất là vào những phần mà nội thảo luận bao gồm 2, 3 hoặc 4 nội dung chính. Cách tiến hành như sau: Giai đoạn 1: giáo viên chia lớp thành 4 đến 6 nhóm (thường là 6 nhóm , 4HS/ nhóm) 2 bàn một nhóm, mỗi học sinh trong nhóm được mã hóa bởi các số 1,2,3,4. Đối với bài có 4 nội dung thảo luận: GV chọn các nhóm 1,2,3,4 làm một nhóm lớn I, mỗi nhóm nhỏ thảo luận 1 một dung. Sau thời gian 2 đến 3 phút các thành viên trong nhóm đã nắm vững nội dung thảo luận của nhóm mình. 10 Sang giai đoạn 2: giáo viên yêu cầu học sinh mang các số 1 ở mỗi nhóm ghép lại thành nhóm mới (A) các số 2 ghép lại thành nhóm mới (B), Các số 3 ghép lại thành nhóm mới (C), các số 4 ghép lại thành nhóm mới (D). Như vậy ở vòng 2 này mỗi học sinh là người truyền đạt nội dung đã nắm được "trao đổi" với các thành viên khác, sau đó điền kết quả thảo luận vào bảng phụ để trình bày trước lớp. Đối với bài học có 3 nôi dung (làm như ví dụ dưới đây) Đối với bài có 2 nội dung thì: Giai đoạn 1: GV cho các nhóm lẻ thảo luận một nội dung, nhóm chẵn một nội dung; Giai đoạn 2: GV cho ghép 2 HS của nhóm chẵn với 2 HS cua nhóm lẻ để tạo thanh nhóm mới. Ví dụ cụ thể : Tiết 33 – Bài 32 : CÔNG NGHẸ GEN [3] Hoạt động 1: (12') I/ Khái niệm kĩ thuật gen và công nghệ gen Mục tiêu: 1. Kiến thức: Học sinh hiểu được khái niệm kĩ thuật gen, trình bày được các khâu trong kĩ thuật gen, hiểu và nêu được khái nệm công nghệ gen. 2. Kĩ năng: Tiếp tục rèn kĩ năng hoạt động nhóm, kĩ năng quan sát và phân tích kênh hình. 3. Thái độ: Học sinh thêm yêu thích môn học, kích thích sự say mê khoa hoc. 4. Định hướng phát triển năng lực: năng lực giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sử dụng ngôn ngũ, năng lực hợp tác. Hoạt động của GV Hoạt động của HS - Yêu cầu HS đọc thông tin mục I sau - Cá nhân HS nghiên cứu thông tin đó hoạt động nhóm theo kỹ thuật mảnh SGK, ghi nhớ kiến thức ghép như sau: Lớp có 3 tổ, mỗi tổ chia làm 3 nhóm (2 HS Chú ý bàn = 4HS / nhóm) mỗi học sinh được mã hóa bằng các số 1,2,3,4. Giai đoạn 1: GV yêu cầu Các nhóm 1 trong mỗi tổ thảo luận nội HS thảo luận. dung: Kĩ thuật gen là gì? mục đích của kĩ thuật gen? Các nhóm 2 trong mỗi tổ thảo luận nội dung: Kĩ thuật gen gồm những khâu chủ yếu nào? 11 Các nhóm 3 trong mỗi tổ thảo luận nội dung: Công nghệ gen là gì? Kể những ứng dụng của công nghệ gen mà em biết thông qua các phương tiện thông tin đại chung? --> Thảo luận trong thời gian 3 phút Giai đoạn 2: Giáo viên yêu cầu Trong mỗi tổ mỗi HS mang các số 1 trong các nhóm nhỏ ghép lại thành nhóm mới (A) (ngồi ở vị trí của nhóm 1 cũ), các số 2 ghép lại thành nhóm mới (B) (ngồi ở vị trí của nhóm 2 cũ), , các số 3 ghép lại thành nhóm (C) (ngồi ở vị trí của nhóm 3 cũ), các só 4 giữ nguyên tại chỗ và ghép vào nhóm mới tương ứng Sau khi ghép xong nhóm mới sẽ thảo luận và hoàn thành cả 3 câu hỏi vào bảng nhóm (4phút) và trình bày kết quả (Chỉ yêu cầu 1 hoặc 2 nhóm trình bày các nhóm khác chú ý và nhận xét, bổ sung) (3phút) Giáo viên chuẩn kiến thức, phân tích và nhận xét hoạt động của các nhóm (Có thể cho điểm nhóm làm tốt nhất) (2phút) HS chuyển nhóm HS thảo luận, trình bày và nhận xét, bổ sung (nếu cần) Lắng nghe GV giảng và chốt kiến thức. Kết luận: - Kĩ thuật gen là các thao tác tác động lên ADN để chuyển đoạn ADN mang 1 hoặc 1 cụm gen từ tế bào của loài cho sang tế bào của loài nhận nhờ thể truyền. - Kĩ thuật gen gồm 3 khâu cơ bản (sgk) - Công nghệ gen là ngành kĩ thuật về quy trình ứng dụng kĩ thuật gen. Một số hình ảnh áp dụng kỹ thuật “mảnh ghép” trong giảng dạy sinh hoc 9 ở trường THCS Lâm Xa: 12 Đánh giá hiệu quả và một số kinh nghiệm của cá nhân khi áp dụng cách này: Qua áp dụng kỹ thuật mảnh ghép trong chương trình sinh học 9 có thể thấy rõ việc sử dụng kỹ thuật này trong dạy học theo nhóm đã tạo ra hoạt động đa dạng, phong phú, học sinh được tham gia vào các nhiệm vụ khác nhau và các mức độ yêu cầu khác nhau. Trong kỹ thuật mảnh ghép đòi hỏi học sinh phải tích cực nỗ lực tham gia và bị cuốn hút vào các hoạt động để hoàn thành vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân từ đó khắc phục được những hạn chế của phương pháp dạy học nhóm truyền thống . Thông qua hoạt động này hình thành ở học sinh tính chủ động, năng động, linh hoạt, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm cao trong học tập. Đồng thời phát triển ở học sinh các năng lực giao tiếp, trình bày, hợp tác, giải quyết vấn đề… Tuy nhiên để hoạt động nhóm có hiệu quả giáo viên cần hình thành ở học sinh thói quen học tập hợp tác và những kỹ năng xã hội, tính chủ động, tinh thần trách nhiệm trong học tập. Muốn vậy giáo viên cần phải kiên trì vì lúc mới làm các em chưa quen nên rất dễ thất bại nhưng sau vài lầm bỡ ngỡ các em sẽ quen và hoạt động rất có hiêu quả. Mặt khác giáo viên cũng phải lựa chọn nội dung, chủ đề phù hợp. Từ đó xác định một nhiệm vụ phức hợp để giải quyết ở vòng 2 dựa trên kết quả các nhiệm vụ khác nhau đã được thực hiện ở vòng 1. Đồng thời giáo viên cần theo dõi quá trình hoạt động của các nhóm để đảm bảo tất cả mọi học sinh ở các nhóm đều hiểu nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ được giao 2.3.2. Phối hợp linh hoạt kỹ thuật “khăn phủ bàn”(Khăn trải bàn) trong dạy học nhóm ở trường THCS Lâm Xa: 13 Cũng với mục tiêu khắc phục những hạnh chế của phương pháp hoạt động nhóm theo kiểu truyền thống. Tôi dạy học hợp tác theo kỹ thuật "khăn phủ bàn" Kỹ thuật khăn phủ bàn là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm nhằm: Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực; Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh; Phát triển mô hình có sự tương tác giữa học sinh với học sinh Kỹ thuật này được tiến hành như sau: - Chia học sinh thành các nhóm và phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A0 - Trên giấy A0 chia thành các phần gồm phần chính giữa và các phần xung quanh. Phần xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm. Mỗi người ngồi vào vị trí tương ứng với phần xung quanh. - Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ trả lời câu hỏi theo cách hiểu riêng của mỗi cá nhân và viết vào phần giấy của mình trên tờ A0. - Trên cơ sở ý kiến của mỗi cá nhân học sinh thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ giấy A0 “khăn phủ bàn” Ví dụ cụ thể vận dụng kỹ thuật “khăn phủ bàn” trong tổ chức dạy học hợp tác vào chương trình sinh học 9 ở trường THCS Lâm Xa. Trong chương trình sinh 9 có thể sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn ở hầu hết các bài. Ở đây tôi trình bày một ví vụ cụ thể là: Tiết 47 – Bài 47 : QUẦN THỂ SINH VẬT[3] Hoạt động 3: (12') III/ Ảnh hưởng của môi trường tới quần thể sinh vật MỤC TIÊU. 1. Kiến thức: Học sinh chỉ ra được những những ảnh hưởng của môi trường tới quần thể sinh vật? Cho ví dụ chứng minh. 2. Kĩ năng: Tiếp tục rèn kĩ năng hoạt động nhóm. 3. Thái độ: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường sống của các loài động vật. 4. Định hướng phát triển năng lưc: năng lực giao tiếp, năng lực tổng hợp kiến thức. Hoạt động của GV Hoạt động của HS - GV: Chia lớp thành 6 nhóm - HS bàn trên quay xuống bàn dưới và (4HS/nhóm) và phát cho mỗi nhóm một thực hiện theo yêu cầu của giáo viên: 1/2 tờ giấy A0 và yêu cầu các em hoạt động nhóm theo kỹ thuật "khăn phủ 14 bàn" để hoàn thành phiếu học tập sau: PHIẾU HỌC TẬP Hãy trả lời các câu hỏi sau: - Khi thời tiết ấm áp và độ ẳm không khí cao (ví dụ vào các tháng mùa mưa trong năm) số lượng muỗi nhiều hay ít? - Chim Sẻ xuất hiện nhiều vào thời gian nào trong năm? - Số lượng ếch nhái tăng cao vào mùa mưa hay mùa khô? - Hãy cho 2 ví dụ về biến động số lượng các cá thể trong quần thể? - Những nhân tố nào của môi trường đã ảnh hưởng đến số lượng cá thể trong quần thể? - GV: thu kết quả và yêu cầu 2 nhóm lên trình bày kết quả của nhóm mình. - GV: chuẩn kiến thức - GV: Qua các phân tích ở trên ta thấy môi trường có ảnh hưởng lớn đến đời sống của động vật, vì vậy để bào vệ các loài sinh vật trước hết cần bảo vệ môi trường sống của chúng. HS 1 HS 2 Kết quả sau khi thảo luận và thống nhất HS3 HS 4 - HS hoạt động cá nhân để hoàn thành các câu hỏi vào phần giấy của mình trong thời gian 4 phút. Sau đó thảo luận nhóm, thống nhất kết quả và trình bày vào phần giấy ở giữa (3phút) - HS nạp bài, đại diện 2 nhóm trình bày --> các nhóm khác chú ý và nhận xét. - HS: Chú ý và rút ra kết luận. Kết luận: - Các đời sống của môi trường như khí hậu, thổ nhưỡng, thức ăn, nơi ở... thay đổi sẽ dẫn tới sự thay đổi số lượng của quần thể. - Khi mật độ cá thể tăng cao dẫn tới thiếu thức ăn, chỗ ở, phát sinh nhiều bệnh tật, nhiều cá thể sẽ bị chết. Khi đó mật độ quần thể lại được điều chỉnh trở về mức độ cân bằng. - HS: chú ý. Một số hình ảnh hoạt động của học sinh: 15 Học sinh thảo luận nhóm Đánh giá hiệu quả và một số kinh nghiệm của cá nhân khi áp dụng cách này: Kỹ thuật “khăn phủ bàn” là một kỹ thuật đơn giản, dễ thực hiện, có thể tổ chức trong hầu hết các bài trong chương trinh sinh 9. Trong kỹ thuật “khăn phủ bàn” đòi hỏi tất cả các thành viên phải làm việc cá nhân, suy nghĩ, viết ra ý kiến của mình trước khi thảo luận nhóm. Như vậy có sự kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm. Từ đó các cuộc thảo luận thường có sự tham gia của tất cả các thành viên và các thành viên có cơ hội chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm của mình, tự đánh giá và điều chỉnh nhận thức của mình một cách tích cực. Nhờ vậy mà khắc phục được những hạn chế của dạy học theo nhóm theo kiểu truyền thống (Có một số thành viên ỷ lại vào những người giỏi hơn sẽ giúp họ hoàn thành công việc được giao mà không tham gia hoạt động; Có thể đi lệch hướng thảo luận do tác động của một vài cá nhân; Có một số HS khá, giỏi quyết định quá trình, kết quả thảo luận nhóm nên chưa đề cao sự tương tác bình đẳng và tầm quan trọng của từng thành viên trong nhóm). Từ đó nâng cao hiệu quả học tập và phát triển các kỹ năng sống cho học sinh. Từ thực tế giảng dạy tôi thấy: nếu sau khi thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ giấy A0 “khăn phủ bàn” sẽ rất mất thời gian cho việc viết lại nội dung vào chính giữa, như vậy sẽ ảnh hưởng đến việc tổi chức các hoạt động khác. Mặt khác sau khi đã thảo luận xong chỉ có một em viết vào giữa còn các em còn lại trong nhóm không biết làm gì (đôi khi còn nói chuyện riêng gây mất trật tự). Do vậy để hạn chế các vấn đề này tôi thường yêu cầu nhóm 16 chọn ra một kết quả đúng nhất của một các nhân trong nhóm theo kết quả đã thảo luận làm đáp án và chỉ ghi những bổ sung và điều chinh ở phần giữa tờ A0. Ngoài ra nếu bàn hẹp không đủ đề cho các thành viên trong nhóm cùng viết ý kiến cá nhân. Có thể khắc phục hạn chế này bằng cách phát cho học sinh những mảnh giấy nhỏ để học sinh ghi ý kiến cá nhân, sau đó đính vào phần xung quanh “khăn phủ bàn”. 2.3.3. Sử dụng sơ đồ tư duy (bản đồ tư duy) trong phương pháp dạy học hợp tác ở trường THCS Lâm Xa : “Sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, các ý tưởng được liên kết với nhau khiến sơ đồ tư duy có thể bao quát được các ý tưởng trên phạm vi sâu rộng” hấp dẫn của hình ảnh gây ra những kích thích mạnh trên hệ thống rìa của não giúp cho việc ghi nhớ được lâu bền. Sơ đồ tư duy sử dụng trong dạy học mang lại hiệu quả cao, phát triển tư duy lôgic, khả năng phân tích tổng hợp, học sinh hiểu bài, nhớ lâu, thay cho ghi nhớ dưới dạng thuộc lòng, học “vẹt”. Đồng thời sơ đồ tư duy phù hợp với tâm sinh lí học sinh, đơn giản, dễ hiểu thay cho việc ghi nhớ lí thuyết bằng ghi nhớ dưới dạng sơ đồ hóa kiến thức. Cách tiến hành  Ở vị trí trung tâm sơ đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng hay chủ đề, nội dung chính.  Từ chủ đề lớn, tìm ra các chủ đề nhỏ liên quan.  Từ mỗi chủ đề nhỏ lại tìm ra những yếu tố, nội dung liên quan.  Sự phân nhánh cứ tiếp tục và các yếu tố nội dung luôn được kết nối với nhau. Sự liên kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về chủ đề lớn một cách đầy đủ và rõ ràng. Dạy học hợp tác có sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy sinh học 9 Sơ đồ tư duy có thể sử dụng ở tất cả các bài học với các mức độ và nội dung khác nhau. Về mức độ sử dụng, có thể là một phần hoặc toàn phần. Về hoạt động sử dụng, có thể sử dụng trong phần kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài, luyện tập củng cố và cả hoạt động chuẩn bị bài ở nhà của học sinh và trong kiểm tra thường xuyên định kì. Trong quá trình giảng dạy sinh học 9 bản thân tôi thường sử dụng sơ đồ tư duy trong phần củng cố bài để hệ thống những nôi dung cơ bản cho học sinh. Ngay khi bắt đầu giảng dạy bài đầu tiên của chương trình sinh 9. Tôi đã hướng dẫn học sinh cách vẽ sơ đồ tư duy. Sau đó yêu cầu mỗi học sinh phải có 1 quyển vở riêng để vẽ sơ đồ tư duy sau mỗi bài học đồng thời trả lời câu hỏi cuối bài học SGK (coi 17 như vở bài tập). Mỗi khi kiểm tra miệng, học sinh sẽ phải mang vở này cho giáo viên kiểm tra. Cuối kỳ giáo viên sẽ thu vở này lại để chấm lấy điểm kiểm tra thường xuyên. Ví dụ : Tiết 44 – Bài 44 : ẢNH HƯỞNG LẪN NHAU GIỮA CÁC SINH VẬT[3] Hoạt động 3: CỦNG CỐ MỤC TIÊU: 1. Kiến thức: Học sinh hệ thống lại kiến thhức đã học trong bài và đưa kiến thức đó vào hệ thống kiến thức của cá nhân. 2. Kĩ năng: Tiếp tục rèn kĩ năng hoạt động nhóm. 3. Thái độ: HS có ý thức nghiêm túc trong khi học bài. 4. Định hướng phát triển năng lưc: năng lực giao tiếp, năng lực tổng hợp kiến thức. Hoạt động của GV Hoạt động của HS GV: Chia lớp thành 8 nhóm - HS bàn trên quay xuống bàn dưới và (4HS/nhóm) và phát cho mỗi nhóm thực hiện theo yêu cầu của giáo viên: một 1/2 tờ giấy A0 và yêu cầu các em HS hoạt động và hoàn thành sơ đồ tư hoạt động nhóm để hoàn thành sơ đồ duy theo từ khóa mà giáo viên đã cho tư duy với từ khóa là: (4phút) Mối quan hệ giữa các sinh vật - HS nạp bài, đại diện 2 nhóm trình - GV: thu kết quả và yêu cầu 2 nhóm lên bày --> các nhóm khác chú ý và nhận trình bày kết quả của nhóm mình. xét. - GV: chuẩn kiến thức - HS: Chú ý và rút ra kết luận. Kết luận: (Trình bày như sơ đồ tư duy) Dưới đây là một số hình ảnh về sử dụng sơ đồ tư duy mà học sinh đã thực hiện trong quá trình học tập theo yêu cầu của giáo viên. 18 HS trình bày trên bảng Kết quả hoạt động nhóm của học sinh Đánh giá hiệu quả và một số kinh nghiệm của cá nhân khi áp dụng cách này: Qua thực tế giảng dạy, bản thân thấy tâm đắc vì kỹ thuật này giúp cho học sinh phát huy được sự tự tin, sáng tạo và phát triển được khả năng tư duy,”. Ngoài ra, dạy học bằng sơ đồ tư duy giúp cho học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh và chính xác nội dung bài học. Đặc biệt, phương pháp này còn giúp cho học sinh không nhàm chán mà luôn sôi nổi và hào hứng trong tiết học, từ đó tạo được điều kiện cho học sinh tập trung thảo luận và cùng tìm ra vấn đề cốt lõi trong nội dung của bài học. 2.4. Kết quả đạt được. Trong quá trình giảng dạy môn sinh 9 ở trường THCS Lâm Xa bản thân giáo viên đã cố gắng vận dụng tốt phương pháp dạy học nhóm bằng cách kết hợp linh hoạt với các kỹ thuật dạy học tích cực. Kết quả khảo sát thực tế về mức độ tham gia hoạt động nhóm của học sinh khối 9 môn sinh học cuối năm hoc 2016 - 2017: Sĩ số Tích cực, chủ động tham gia Chỉ tham gia đối phó Gần như không tham gia 32 14 17 1 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan