BỘ QUỐ PHÒN
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
PHAN ĐỨC THUẤN
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHẰM KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG BỎ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
HÀ NỘI -2013
BỘ QUỐ PHÒN
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
PHAN ĐỨC THUẤN
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHẰM KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG BỎ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN NGÀNH : QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60 14 01 14
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS NGUYÊN TRỌNG UUN
HÀ NỘI -2013
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
3
TÌNH TRẠNG SINH VIÊN BỎ HỌC TẠI TRƯỜNG
ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
1.1.
1.2.
MINH
Một số khái niệm công cụ
Ảnh hưởng của tình trạng sinh viên bỏ học và các nhân tố tác
1.3.
động dẫn đến sinh viên bỏ học
16
Thực trạng và nguyên nhân sinh viên bỏ học tại Trường Đại
12
13
học Hùng Vương thành phố Hồ ́hí Minh
21
Chương 2 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH
TRẠNG SINH VIÊN BỎ HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC
HÙNG VƯƠNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
43
2.1. Yêu cầu xây dựng và thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng sinh
viên bỏ học tại Trường Đại học Hùng Vương Tp Hồ ́hí Minh
43
2.2. Đề xuất biện pháp khắc phục tình trạng sinh viên bỏ học tại
Trường Đại học Hùng Vương Tp Hồ ́hí Minh
2.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
50
69
80
83
88
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
Viết đầy đủ
Ban Niám hiệu
Biện pháp
́án bộ quản lý
́ao đẳng
́ộng hòa Dân chủ ̀hân dân Lào
Đại học
Đại học Hùng vương
Đơn vị tính
Niảng viên
Niáo dục Đại học
Niáo viên chủ nhiệm
Hội đồng Quản trị
Ký túc xá
Lý thuyết
̀gân hàng ́hính sách Xã hội
Sinh viên
Thành phố Hồ ́hí Minh
Thực hành
Tính tương quan
Viết tắt
BNH
BP
́BQL
́Đ
́HD́̀D Lào
ĐH
ĐHHV
ĐVT
NV
NDĐH
NV́̀
HĐQT
KTX
LT
̀H́SXH
SV
Tp H́M
TH
R
20
Ủy ban ̀hân dân
UB̀D
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, Đảng và ̀hà nước đã có nhiều chủ trương
phát triển giáo dục - đào tạo cả về quy mô và chất lượng giáo dục. Theo đó,
số lượng các trường đại học công lập và ngoài công lập hàng năm tăng lên
đáng kể, tạo cơ hội học tập cho phần lớn học sinh tốt nghiệp bậc trung học
phổ thông. Sự ra đời của các trường ngoài công lập đã góp phần đào tạo
nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và giải
quyết các vấn đề xã hội. ̀ăm học 2011-2012 cả nước có 2.162.106 sinh viên
đang theo học, trong đó cao đẳng 726.219 sinh viên chiếm tỷ lệ 33,59%, đại
học 1.435.887 sinh viên chiếm tỷ lệ 66,41% (không kể sinh viên khối an ninh
và quốc phòng).
Theo số liệu công bố của Bộ Niáo dục-Đào tạo cả nước có 419 trường
đại học và cao đẳng trong đó:
-204 trường đại học (149 trường công lập, 55 trường ngoài công lập)
-215 trường cao đẳng (187 trường công lập, 28 trường ngoài công lập)
̀hư vậy, khối các trường ngoài công lập có 83 trường (55 trường đại học
và 28 trường cao đẳng), chiếm 20% trong tổng số các trường trong cả nước.
̀ăm học 2011 – 2012, cả nước có 2.162.106 sinh viên, thì các trường
ngoài công lập là 317.830 em (chiếm 14,7%). ́ác trường ngoài công lập đã
đào tạo lực lượng lao động khá lớn cho xã hội, đóng vai trò quan trọng trong
sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, sự “phát triển nóng” của các trường đại học ngoài công lập
đã và đang phát sinh những vấn đề phức tạp cần phải giải quyết.
Sự gia tăng về số lượng các trường đại học ngoài công lâ ̣p, cùng với
lượng sinh viên hàng năm về theo học tại các đô thị ngày càng tăng đã tạo nên
áp lực lớn đối với xã hô ̣i và các trường đại học. ́ơ sở vâ ̣t chất, chất lượng và
quy mô của đô ̣i ngu cán bô ̣ quản lý và giảng viên cơ hữu không theo kịp với
4
tốc đô ̣ phát triển quá nhanh của số lượng sinh viên đã gây nên những khó
khăn trong quản lý, đảm bảo chất lượng giáo dục – đào tạo.
Sự quan tâm của nhà trường đối với sinh viên ngày càng ít đi, quan hê ̣
thầy–trò ngày càng ít sự gắn bó cùng với tác đô ̣ng của nền kinh tế thị trường.
Mô ̣t bô ̣ phâ ̣n sinh viên do chất lượng đầu vào thấp không theo kịp chương
trình cùng với những tác đô ̣ng tiêu cực của xã hô ̣i đã làm các em bỏ học khi
khóa học chưa kết thúc.
́ác trường đại học ngoài công lập phần lớn mới thành lập, cơ sở vật
chất, đội ngu giáo viên và cán bộ quản lý còn thiếu. ̀hiều nhà quản lý giáo
dục đã ví đầu ra của các trường công lâ ̣p là đầu vào của trường ngoài công lâ ̣p
ý nói giáo viên về hưu của các trường công lâ ̣p được tuyển dụng vào các
trường ngoài công lâ ̣p. Tại các trường đại học ngoài công lập phần lớn học
phí cao, không có ký túc xá cho sinh viên; nhà trường chỉ quản lý sinh viên
trong giờ lên lớp; tuyển sinh đầu vào chất lượng thấp (phần lớn sinh viên đạt
điểm sàn là trúng tuyển)… tình trạng sinh viên bỏ học tại các trường này khá
nghiêm trọng đã để lại những hệ luỵ ảnh hưởng lớn đến nhà trường, gia đình
và xã hội.
Trường Đại học Hùng Vương thành phố Hồ ́hí Minh là một trường
đại học ngoài công lập (thành lâ ̣p năm 1995) cung không là ngoại lệ. Trong
những năm gần đây tình trạng sinh viên bỏ học vẫn diễn ra với các mức độ
khác nhau, nguyên nhân khác nhau, như: không theo kịp chương trình, gặp
khó khăn về kinh tế, thiếu sự quan tâm của nhà trường, công tác quản lý bị
buông lỏng... nhà trường chưa có những biện pháp quản lý để khắc phục tình
trạng sinh viên bỏ học.
Làm thế nào để khắc phục được tình trạng sinh viên bỏ học là câu hỏi lớn
cần phải có lời giải đáp thỏa đáng.
Với mong muốn góp phần đưa ra những biện pháp quản lý khả thi
nhằm ngăn ngưa và khắc phục tình trạng sinh viên bỏ học, tôi chọn đề tài :
5
“Biện pháp quản lý nhằm khắc phục tình trạng bỏ học của sinh viên
Trường Đại học Hùng Vương thành phố Hồ Chí Minh ” làm đề tài luận văn
thạc sĩ Quản lý giáo dục.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tình trạng bỏ học của học sinh, sinh viên diễn ra cả ở những nước phát
triển và những nước chậm phát triển, điều đó đã tác động xấu đến sự phát
triển xã hội; đây là vấn đề thu hút sự quan tâm không chỉ của các nhà quản lý
mà còn của các nhà khoa học. Hiện nay đã có một số công trình ở nước ngoài
và trong nước nghiên cứu về sinh viên bỏ học. Tiêu biểu là:
Ở nước ngoài, Tiến sĩ Hamish ́oates, đang làm việc tại Hội đồng
̀ghiên cứu Niáo dục của Australia, người đứng đầu công trình nghiên cứu
“Tình hình sinh viên bỏ học” tại Australia. Ông cho rằng gần 1/3 trong số
35.000 sinh viên đang theo học tại 35 trường đại học nổi tiếng ở Australia
đang xem xét tư bỏ các khóa học của họ. ́ung theo nghiên cứu của Hội đồng
̀ghiên cứu Niáo dục nước này thì điều đáng lo ngại là 30% trong số sinh
viên được thăm dò ý kiến ở Australia cho biết họ có thể nghỉ học cho dù
chương trình học chưa kết thúc. ̀hững sinh viên này chủ yếu ở những vùng
nông thôn, vùng có thu nhập thấp, hay tư những gia đình có hoàn cảnh khó
khăn mà không có đủ tiền chi phí cho việc sinh hoạt, học tập trong thời gian
học đại học tại Australia.
̀guyên nhân của việc sinh viên muốn bỏ học được tiến sĩ Hamish
́oates cho là: do chương trình đào tạo đại học hiện tại thiếu thực hành,
chương trình đào tạo khô cứng thiếu hấp dẫn với sinh viên; do sinh viên ở
những vùng nông thôn, vùng xa gặp khó khăn về kinh tế buộc phải bỏ học do
không đủ kinh phi chi trả cho việc học tập và sinh hoạt phí đắt đỏ tại các
thành phố lớn.
Ở Mỹ, trong một công trình khoa học, có tựa đề “Để ngăn chặn việc
học sinh bỏ học” đối với học sinh phổ thông, tác giả đã đề xuất thực hiện biện
6
pháp hành chính, xử phạt bằng tiền. Theo đó, chính quyền thực hiện mức phạt
dành cho những gia đình để con mình vắng mặt tại trường mỗi ngày là 75
USD. Hiện kế hoạch áp dụng mức phạt đã được triển khai tại Bang ̀ew
Britain, Bang ́onnecticut, vì ở đây tỉ lệ học sinh bỏ học cao. Tại bang Ohio,
phụ huynh phải nộp phạt 500 USD hoặc thậm chí phải lao động công ích tới
70 giờ nếu con bỏ học.
Nần đây, học sinh ở Los Angeles vẫn bị phạt tư 200 USD đến 250 USD
khi bỏ học. Tại một trường học ở Pennsylvania (Mỹ), trong năm học 2008 2009 phụ huynh học sinh đã phải nộp số tiền phạt tổng cộng lên tới 500.000
USD do để con bỏ học, trong khi phạt về hành vi bạo lực chỉ thu được 300
USD. Tuy nhiên, với sinh viên đại học do thực hiện tích luỹ tín chỉ trong quá
trình học tập mà không giới hạn thời gian, nên không thực hiện biện pháp
phạt tiền nếu sinh viên bỏ học hay ngưng học mà khóa học chưa kết thúc.
̀hư vậy, không chỉ ở những nước có nền kinh tế chậm phát triển, do
người dân không đủ kinh phí trang trải trong thời gian học tập cho con em
mình mà dẫn đến tình trạng học sinh, sinh viên bỏ học. ̀gay cả ở những nước
kinh tế phát triển, như Australia, Mỹ tình trạng bỏ học của học sinh, sinh viên
vẫn diễn ra. Một phần vì lý do kinh tế, nhưng cung có nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan khác dẫn đến tình trạng học sinh, sinh viên bỏ học.
Ở trong nước, những năm qua, đã có các chỉ thị, nghị quyết, quyết định
của các cấp quan tâm đến việc học tập của sinh viên, tạo điều kiện cho sinh
viên vay vốn. Thủ tướng ́hính phủ đã ban hành Quyết định số 157/2007/QĐTTg về ̀gân hàng ́hính sách Xã hội Việt ̀am áp dụng chính sách ưu đãi
cho sinh viên vay vốn học tập, để hạn chế tình trạng bỏ học của sinh viên ở
các trường đại học, chương trình này đã thực hiện được 6 năm (tư 2007). Mặc
dù chưa giúp nhiều cho sinh viên giải quyết các khó khăn về kinh tế; đồng
thời, chưa phải là giải pháp hữu hiệu nhất để ngăn chặn tình trạng sinh viên
bỏ học, nhưng trên thực tế quyết định này đã tiếp sức cho rất nhiều sinh viên
7
khắc phục mô ̣t phần khó khăn về kinh tế để tiếp tục theo học tại các trường
đại học, cao đẳng.
Dưới góc độ khoa học, tác giả Mai Mộng Tưởng đã đề cập đến trách
nhiệm của cộng đồng xã hội đối với việc “̀găn chặn sinh viên bỏ học,
trách nhiệm không của riêng ai”. Tư việc nêu lên những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng sinh viên bỏ học như: khả năng không theo kịp chương trình
ở bậc đại học, sinh viên không có tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt
phục vụ học tập hay vì quá khó khăn về tiền bạc phải đi làm thêm, sao
nhãng học hành dẫn đến bỏ học luôn... Tác giả cho rằng, để khắc phục tình
trạng bỏ học của sinh viên cần có những biện pháp đồng bộ, trên cả bình
diện vĩ mô và vi mô; đó là sự kết hợp trách nhiệm của cả gia đình, nhà
trường và xã hội. Tuy nhiên, những biện pháp được đề xuất chưa đầy đủ,
chưa gắn với chức năng quản lý giáo dục.
Tác giả Trương Văn Hùng nghiên cứu biện pháp “Hạn chế sinh viên bỏ
học” ở Trường Đại học Đông Á. Tư sự thống kê số sinh viên bỏ học, tác giả
đã chỉ ra những hình thức bỏ học của sinh viên như ban đầu các em chỉ bỏ
giờ; bỏ tiết; sau dần hình thành lỗ hổng kiến thức và nghỉ nhiều thành thói
quen; tiến đến bỏ học hoàn toàn (bỏ hẳn hay bỏ luôn). Tác giả đã chỉ ra những
nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn tới sinh viên bỏ học; đồng thời, đề
xuất một số biện pháp hạn chế tình trạng bỏ học của sinh viên Trường Đại
học Đông Á. Trong đó, các lực lượng giáo dục cần quan tâm đến các em
nhiều hơn; cần quản lý sinh viên chặt chẽ hơn về mọi mặt...
Đi sâu nghiên cứu “́hính sách cho vay vốn của ̀gân hàng ́hính sách
Xã hội Việt ̀am tác động đến đời sống và học tập của sinh viên sau khi vay
vốn”; các tác giả Võ Trà My, Huỳnh Phạm Hồng Liên và ̀guyễn Trung
Dung thuộc Khoa Khoa học Xã hội và ̀hân văn của Trường Đại học Khoa
học Xã hội và ̀hân văn thành phố Hồ ́hí Minh cho rằng đây là một trong
những giải pháp quan trọng giúp sinh viên vượt khó vươn lên, đồng thời góp
8
phần khắc phục tình trạng sinh viên bỏ học do khó khăn về kinh tế. Trên cơ
sở phân tích vấn đề sinh viên vay vốn để giải quyết khó khăn trong cuộc sống
và học tập ở bậc đại học tại ba trường đại học là Trường Đại học Khoa Học
Xã Hội và ̀hân Văn TP Hồ ́hí Minh, Trường Đại học Mở bán công TP Hồ
́hí Minh, Trường Đại học Tôn Đức Thắng Thành phố Hồ ́hí Minh, các tác
giả chỉ ra mục đích vay vốn của sinh viên dùng để chi phí cho các nhu cầu tối
cần thiết trong thời gian học như sau:
- Đóng học phí (79,60%); trang trải các nhu cầu sinh hoạt thiết yếu
(42,20%, bao gồm ăn uống hằng ngày; trả tiền nhà ở; phương tiện đi lại... )
Tuy nhiên, các tác giả nhận thấy đa số sinh viên cho rằng qui mô vốn
được vay 1.000.000đ/tháng tư ̀gân hàng ́hính sách Xã hội là không đủ nên về
cơ bản vẫn chưa giải quyết được vấn đề sinh viên bỏ học do khó khăn về kinh tế.
́ung liên quan đến vấn đề vay vốn để tiêu dùng cá nhân và đóng học phí,
nhóm tác giả ́ông ̀guyên và Khánh ̀guyên đã tìm hiểu về tình trạng “́ho sinh
viên vay nặng lãi” đã và đang trở thành tệ nạn tấn công làng đại học. ́ác tác giả chỉ
rõ, ban đầu các em kẹt tiền, chỉ vay ngắn hạn với số tiền nhỏ nhưng do lãi suất cao,
lãi mẹ đẻ lãi con, không có khả năng thanh toán nên “xã hội đen” can thiệp và các
em phải bỏ trốn và hậu quả cuối cùng là các em bỏ học không dám đến trường.
́ác công trình kể trên tuy đã đề cập đến các góc độ khác nhau của vấn
đề sinh viên bỏ học, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có
hệ thống về tình trạng sinh viên bỏ học tại các trường đại học và đặc biệt sinh
viên bỏ học tại các trường đại học ngoài công lập.
Trước tình trạng sinh viên, nhất là sinh viên nghèo bỏ học có chiều
hướng ngày càng gia tăng, gần đây cổng thông tin điện tử của ́hính phủ
phối hợp với Bộ Niáo dục - Đào tạo, Bộ Tài chính, ̀gân hàng ́hính sách
Xã hội Việt ̀am tổ chức tọa đàm khoa học với chủ đề “Để sinh viên nghèo
có tiền theo học”. Tại buổi tọa đàm, đại diện của Bộ Niáo dục - Đào tạo,
Bộ Tài ́hính, ̀gân hàng ́hính sách Xã hội Việt ̀am thống nhất nhận
9
định, mục đích của việc cho sinh viên vay vốn là để giải quyết một phần
khó khăn về kinh tế, giúp sinh viên nghèo có thể tiếp tục theo học. Buổi tọa
đàm cung nhấn mạnh là vấn đề khó khăn về kinh tế là có thật của một bộ
phận sinh viên mà gia đình phần lớn sống ở nông thôn có khó khăn về kinh
tế. Tuy nhiên, đại diện ̀gân hàng ́hính sách Xã hội Việt ̀am cho rằng,
họ cung chỉ hỗ trợ một phần trong số những khó khăn của sinh viên, tình
trạng sinh viên bỏ học vẫn diễn ra mà chưa có biện pháp nào để giúp các em
chống lại căn bệnh trầm kha này.
Tóm lại, tình trạng sinh viên các trường đại học, cao đẳng, nhất là các
trường ngoài công lập bỏ học đang trở thành vấn đề quan tâm của nhà trường,
các bậc phụ huynh và cả xã hội.
Đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này ở các góc
độ khác nhau, tuy nhiên phần lớn những nghiên cứu trên diễn ra ở quy mô
nhỏ, phạm vi hẹp, thời gian ngắn và chưa nêu được đầy đủ bản chất của vấn
đề sinh viên bỏ học cung như các giải pháp quản lý để khắc phục.
Hiện nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ
thống về tình trạng sinh viên bỏ học tại các trường đại học và đặc biệt tại các
trường đại học ngoài công lập. Vì vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn, không trùng lặp với các công trình đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất biện pháp quản lý nhằm khắc
phục tình trạng sinh viên bỏ học tại Trường ĐHHV Tp H́M hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận về khắc phục tình trạng bỏ học của sinh viên;
- Phân tích thực trạng, xác định nguyên nhân dẫn đến sinh viên bỏ học
tại Trường Đại học Hùng Vương thành phố Hồ ́hí Minh;
10
- Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm khắc phục tình trạng sinh viên bỏ
học tại Trường Đại học Hùng Vương thành phố Hồ ́hí Minh.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Hoạt động quản lý sinh viên tại Trường Đại học Hùng Vương thành
phố Hồ ́hí Minh.
Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý nhằm khắc phục tình trạng bỏ học của sinh viên tại
Trường Đại học Hùng Vương thành phố Hồ ́hí Minh.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp quản lý để ngăn chặn, khắc phục
tình trạng bỏ học của sinh viên đào tạo chính quy tập trung ở Trường Đại học
Hùng Vương thành phố Hồ ́hí Minh.
́ác số liệu phục vụ nghiên cứu được khảo sát trong thời gian năm năm
gần đây (tư năm 2007 đến 2012).
5. Giả thuyết khoa học
Tình trạng bỏ học của sinh viên trong thời gian học tại trường đại học
Hùng Vương Thành phố Hồ ́hí Minh năm nào cung xảy ra và để lại nhiều hệ
lụy cho cả gia đình, nhà trường, xã hội. ̀hưng nếu quản lý tốt sinh viên, tạo
điều kiện thuận lợi cho các em học tập, giảm bớt khó khăn về kinh tế, tạo sự
gắn bó của sinh viên với nhà trường, tổ chức tốt các hoạt động để nâng cao
chất lượng học tập, tu dưỡng rèn luyện thì tỷ lệ sinh viên bỏ học sẽ giảm.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác-Lênin; quán triệt và cụ thể hoá tư tưởng Hồ ́hí Minh,
Đường lối quan điểm của Đảng ́ộng sản Việt ̀am về giáo dục - đào tạo trên
cơ sở luâ ̣t giáo dục đại học được Quốc hô ̣i thông qua tháng 1/2012.
11
Phương pháp nghiên cứu
Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập các tài liệu, phân tích, tổng hợp, đánh giá, hệ thống hoá, mô
hình hoá khái quát lý luận về tình trạng sinh viên bỏ học tại Trường Đại học
Hùng Vương thành phố Hồ ́hí Minh.
Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Thực hiện điều tra bằng phiếu thăm dò (anket) với giảng viên, cán bộ
quản lý và sinh viên tại trường;
Quan sát các hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập của thầy và trò
trên thực tế; thâm nhập thực tế đời sống của sinh viên tại các khu nhà trọ, tiếp
xúc sinh viên và giảng viên thăm dò ý kiến;
Toạ đàm, trao đổi với các lực lượng quản lý và sinh viên về công tác
quản lý trong quá trình đào tạo;
Tổng kết rút kinh nghiệm về công tác quản lý sinh viên của nhà trường ;
Tiến hành xin ý kiến chuyên gia của các nhà sư phạm, nhà quản lý; kế
thưa và sử dụng kinh nghiệm của các chuyên gia trong giáo dục - đào tạo tại
các trường đại học.
Phương pháp thông kê toán học
Sử dụng phương pháp tính hê ̣ số tương quan R của Spearman để xử lý
số liệu thống kê làm minh chứng cho sự luận giải các nhiệm vụ của đề tài.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn làm rõ khái niệm và hậu quả của việc sinh viên bỏ học;
- Phân tích thực trạng, nguyên nhân dẫn tới sinh viên bỏ học;
- Đề xuất biện pháp khả thi để khắc phục tình trạng sinh viên bỏ học;
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở để các nhà quản lý sử dụng
nhằm ngăn ngưa, khắc phục tình trạng sinh viên bỏ học hiện nay tại các
trường đại học ngoài công lập.
8. Cấu trúc luận văn: luận văn gồm phàn mở đầu, 2 chương, 6 tiết, kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục
12
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIÊN VỀ TÌNH TRẠNG
SINH VIÊN BỎ HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1. Một số khái niệm công cụ
1.1.1. Quan niệm về sinh viên bỏ học
Sinh viên không tham gia một số tiết học hay một số buổi học trên
giảng đường (bỏ giờ, bỏ tiết, bỏ buổi học) nhưng vẫn tham gia kỳ thi, vẫn
trong sự quản lý của nhà trường, được coi là hành vi trốn học hay vắng mặt
không lý do.
Sinh viên bỏ học (thôi học) là hành vi có chủ định rời bỏ giảng đường, thoát
ly khỏi môi trường học tập tập trung và không còn sự quản lý của nhà trường.
Hiện đang có những quan điểm khác nhau về vấn đề sinh viên vắng
mặt, bỏ giờ, bỏ tiết (trốn học) và bỏ học (thôi học), thậm chí có những quan
điểm trái ngược nhau về vấn đề sinh viên lên lớp hay vắng mặt trên lớp trong
một buổi học, môn học. Thậm chí có quan điểm bênh vực cho hành động bỏ
học ngành này để đi tìm học ngành khác phù hợp hơn với ý thích cá nhân.
́ó quan điểm cho rằng học tập ở bậc đại học là học về phương pháp,
việc học là tự giác, ai cần thì lên lớp, ai có nhu cầu thì nghiên cứu tài liệu,
thậm chí tự nghiên cứu tài liệu, không cần lên lớp đầy đủ trong tất cả các giờ
học, chỉ cần nắm vững kiến thức đến kỳ thi đăng ký đi thi, miễn sao tích luỹ
đủ số tín chỉ cần thiết là ra trường.[44, tr.72]. ́ó quan điểm cho rằng việc tích
luy tri thức khoa học là liên tục và không giới hạn phạm vi, không gian, thời
gian, có thể học tư xa, học qua mạng, và tự học, học qua sách vở tài liê ̣u, hay
đọc sách trên thư viê ̣n để tự nghiên cứu nên sinh viên không cần lên giảng
đường tập trung đầy đủ tất cả các buổi học.
Quan điểm khác lại cho rằng sinh viên học tập trong cơ sở đào tạo, nhà
trường phải quản lý chặt chẽ như trong môi trường quân đội, hay công an thì
chất lượng mới được nâng cao, mới rèn cho các em tính kỷ luật, tinh thần
13
đồng đội, kỹ năng sống và kỹ năng làm việc nhóm. Trong thời gian sinh viên
học tập tại trường đại học phải tập trung toàn bộ thời gian; sức lực để tiếp thu
những tri thức khoa học; trang bị cho mình một lượng kiến thức tay nghề nhất
định trước khi bước vào đời, hạn chế làm thêm kiếm tiền để sao nhãng việc
học tập làm giảm chất lượng giáo dục và đào tạo [3, tr.5].
Quan điểm này không sai, nhưng trong điều kiện kinh tế thị trường hiện
nay chúng ta không thể quản lý hàng triệu sinh viên theo chế độ ký túc xá như
thời bao cấp. Trước năm 1975, tất cả sinh viên sống trong ký túc xá, ăn ở sinh
hoạt tập trung, biên chế theo tổ nhóm, lớp, khối, có sự quản lý chặt chẽ của
nhà trường, hầu như không có hiện tượng sinh viên bỏ học. ̀gày nay sinh
viên được tự do hơn so với trước đây, tư tư duy đến suy nghĩ và cả hành động,
việc làm, nên việc sinh viên bỏ học trong những năm học ở bậc đại học là khó
tránh khỏi. Bên cạnh đó, sinh viên bỏ học được cho là bình thường do chọn
ngành nghề không phù hợp nên có ra trường sau này cung khó phát triển, do
áp lực về đời sống kinh tế quá lớn, do môi trường học tập không phù hợp...
sinh viên ra đi để tìm một môi trường thích hợp hơn với khả năng, năng lực
và sở trường của bản thân và không nhất thiết phải học đại học mới có thể
bước vào đời.
Trong xu thế xã hội hóa giáo dục toàn cầu, tình trạng sinh viên bỏ học
ngày càng gia tăng chưa có dấu hiê ̣u dưng lại và trở thành vấn đề nghiêm
trọng được cả xã hội quan tâm.
Theo tác giả: Sinh viên bỏ học (thôi học) là hành vi có chủ định rời bỏ
giảng đường, thoát ly khỏi môi trường học tập tập trung và không còn sự
quản lý của nhà trường; hành vi đó để lại hệ lụy xấu cho nhà trường, gia
đình và xã hội; làm ảnh hưởng đến kế hoạch đào tạo của nhà trường, gây
lãng phí tiền bạc, thời gian, nguồn nhân lực của gia đình và xã hội.
Hiện nay, sinh viên trong các trường đại học ngoài công lâ ̣p thường lên
giảng đường học tâ ̣p và thực hành trong các phòng thí nghiê ̣m với thời lượng
6 ngày mô ̣t tuần. Mô ̣t ngày có thể lên lớp tối thiểu 5 tiết và tối đa 10 tiết
nhưng không bố trí hai ngày liên tiếp 10 tiết. Mỗi buổi học thường có điểm
14
danh, có ký xác nhâ ̣n số tiết và số sinh viên tham gia của giảng viên và của
lớp trưởng. Đây là công viê ̣c bắt buô ̣c để quản lý học tâ ̣p, nếu sinh viên vắng
quá 25% số tiết sẽ không được dự thi hết môn và phải đóng tiền học lại. [10]
Trong quá trình học tâ ̣p, sinh viên có những biểu hiê ̣n như bỏ mô ̣t vài
tiết học trong mô ̣t buỗi học (về sớm trước khi ca học kết thúc) hoă ̣c bỏ cả mô ̣t
buổi học (5 tiết) hoă ̣c bỏ mô ̣t môn học và xin học lại vào học kỳ hè.
́ó những trường hợp sinh viên thường bỏ 1-2 tiết cuối vào buổi chiều
để về sớm đi làm thêm vào ban đêm, có trường hợp sinh viên trốn học đi
quán, siêu thị, hay dùng thời gian vào những mối quan hệ khác… tất cả những
trường hợp này ban đầu sinh viên không hề có ý định bỏ học (thôi học). Do
việc vắng mặt trên giảng đường thường xuyên và sự tiếp thu bài không liên
tục nên hổng kiến thức, kết quả học tập kém hoặc nợ môn. Tư đó sinh viên
phải thi lại lần hai mà thi lại lần hai phải đóng tiền phí thi lại, bên cạnh đó đề
thi lại không hề dễ hơn thi lần một nên nhiều sinh viên thi lần hai vẫn không
đạt yêu cầu và còn nợ môn. ́ơ hô ̣i trả nợ khi nợ môn là không dễ vì các học
kỳ được bố trí liên tục không còn nhiều thời gian để học lại môn trả nợ ngoại
trư học kỳ hè. Mô ̣t số sinh viên không có tiền đóng học phí mă ̣c dù vẫn lên
lớp nhưng bị cấm thi do chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính với nhà trường
nên các môn chưa có điểm vẫn bị tính là nợ môn.
Trong mô ̣t vài học kỳ như thế những sinh viên này có số môn nợ ngày
càng tăng và khả năng trả hết nợ là rất khó tư đó dẫn đến các em chán nản, bi
quan và bỏ học luôn.
Mô ̣t số em muốn thi lại vào năm sau để chuyển sang mô ̣t ngành khác
nên tự ý bỏ môn học để tâ ̣p trung ôn thi đại học dù kết quả thế nào thì các em
cung nợ môn và hâ ̣u quả là bỏ học.
Mô ̣t số em kiếm được những công viê ̣c làm thêm có thu nhâ ̣p nhưng
phải trả giá bằng viê ̣c bỏ buổi học bỏ tiết học, tư tư duy có ra trường kiếm
được viê ̣c làm thì thu nhâ ̣p cung không hơn hiê ̣n tại mà lại phải học hành vất
vả nên các em chủ động bỏ học để đi làm.
15
Tất cả những hành vi trên là các biểu hiê ̣n ban đầu dẫn tới các em bỏ
học. Phần lớn sinh viên có biểu hiện ban đầu chỉ bỏ giờ bỏ tiết sau bỏ cả buổi
học và bỏ cả môn học và cuối cùng là bỏ học luôn, thoát ly khỏi sự quản lý của
nhà trường.
1.1.2. Khái niệm biện pháp khắc phục hành vi bỏ học của sinh viên
Theo tư điển Tiếng Việt, biện pháp là: “́ách làm, cách giải quyết một
vấn đề cụ thể” [43, tr.80]. ́òn theo Tư Điển Bách Khoa Việt ̀am thì biện
pháp là “Tìm cách thức nào đó để hành động và giải quyết vấn đề đã được đặt
ra” [19, tr.87]. ́ả hai định nghĩa trên tuy khác nhau về thuật ngữ, nhưng về
cơ bản đều thống nhất về nội hàm của biện pháp, đó là tìm cách để giải quyết
vấn đề đã nêu ra. Hiện tượng sinh viên bỏ học là một vấn đề đã và đang diễn
ra theo chiều hướng ngày càng gia tăng, nhất là đối với những trường ngoài
công lập. Việc bỏ học của sinh viên là hành vi có chủ định, có nhận thức chứ
không phải ngẫu nhiên với những hình thức và biểu hiện khác nhau. Ban đầu
các em chỉ bỏ giờ học, tiết học sau đó là bỏ cả buổi học thậm chí có em bỏ
nguyên cả một tuần, hậu quả là điểm thi không đạt yêu cầu phải thi lại, thi lại
không qua phải nợ môn và cuối cùng là bi quan chán nản rồi bỏ học luôn.
Tình trạng sinh viên bỏ học thường diễn ra ở những năm đầu (học kỳ 2, 3, 4)
sang các năm sau hiện tượng bỏ học ít xảy ra hơn. ̀ghiên cứu, tìm kiếm biện
pháp ngăn chặn, khắc phục tình trạng sinh viên bỏ học là vấn đề rất được
quan tâm của nhà trường, gia đình và của các nhà khoa học.
Tư cách tiếp cận trên đây, chúng tôi cho rằng, biện pháp khắc phục tình
trạng sinh viên bỏ học là tổng thể những cách thức mà nhà trường, gia đình,
xã hội, tiến hành để ngăn chặn hành vi bỏ học của sinh viên; thúc đẩy các em
hăng say học tập thực hiện tôt mục tiêu yêu cầu đào tạo của khóa học.
̀găn ngưa, khắc phục tình trạng sinh viên bỏ học được thực hiện bằng
nhiều cách thức khác nhau. Dưới góc độ khoa học quản lý giáo dục, đó là
những cách thức mà chủ thể quản lý đưa ra và sử dụng để quản lý ngăn chặn
hành vi bỏ học của sinh viên; thúc đẩy các em hăng say học tập thực hiện tốt
mục tiêu yêu cầu đào tạo của khóa học.
16
Việc ngăn ngưa, khắc phục tình trạng bỏ học của sinh viên được thực
hiện bằng nhiều cách thức khác nhau như: sử dụng các biện pháp hành chính,
sử dụng các biện pháp tâm lý - giáo dục, các biện pháp động viên khuyến
khích, biê ̣n pháp kinh tế... cung có thể sử dụng tổng hợp các biện pháp trên,
kết hợp với các biện pháp mang tính chính sách xã hội ở tầm vĩ mô để khắc
phục tình trạng bỏ học của các em.
1.2. Ảnh hưởng của tình trạng sinh viên bỏ học và các nhân tố tác
động dân đến sinh viên bỏ học
1.2.1. Ảnh hưởng của tình trạng sinh viên bỏ học đối với gia đình,
nhà trường, xã hội
Việc sinh viên bỏ học là một vấn đề nhức nhối của gia đình, nhà trường
và xã hội, diễn ra khá âm thầm lặng lẽ trong môi trường giáo dục, hệ luỵ của
nó vô cùng nghiêm trọng.
Đối với gia đình, phụ huynh, cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào họ
cung cố gắng hết sức mình lo cho con cái được học hành đầy đủ, để có được
một tấm bằng đại học như một giấy thông hành vào đời. Vì vậy, việc sinh
viên bỏ học làm đau lòng cha mẹ, là nỗi thất vọng lớn nhất của các bậc phụ
huynh và gia đình các em. Hiện tượng bỏ học của sinh viên dẫn tới những hệ
luỵ xấu đối với gia đình là lãng phí tiền bạc và thời gian, ảnh hưởng đến đời
sống vật chất tinh thần của mỗi gia đình của các bậc phụ huynh. Sinh viên bỏ
học ảnh hưởng đến yếu tố tâm lý tiêu cực của các anh chị em trong gia đình,
ảnh hưởng đối với con đường trang bị tri thức, học vấn và nghề nghiệp khi
các em bước vào đời.
Đối với nhà trường, sinh viên bỏ học sẽ phá vỡ kế hoạch của nhà
trường, vì các trường ngoài công lập mọi hoạt động của nhà trường tư chi phí
đào tạo, thù lao giảng viên đến trả lương cho đội ngu cán bộ quản lý, thầy cô
giáo đều tư nguồn thu học phí của người học. ̀ếu số sinh viên giảm, tỷ lệ bỏ
học cao trong các khóa học sẽ dẫn đến thất thu; thậm chí có khi phải bù lỗ
trong quá trình đào tạo. Sinh viên bỏ học làm cho sỹ số lớp học giảm đi, ngoài
sự lãng phí về đầu tư cơ sở vật chất, về chỗ ngồi, trang thiết bị còn làm cho
17
không khí lớp học kém đi sự hứng khởi, giảm đi sự say mê sự hứng thú của
người thầy. Hành vi bỏ học của các em đôi khi như một cơn bệnh truyền
nhiễm có tính lây lan, sinh viên bỏ học nhiều còn ảnh hưởng xấu đến môi
trường giáo dục. Sinh viên bỏ học đã phá vỡ kế hoạch đào tạo và tài chính, bị
động trong việc thực hiện kế hoạch hàng năm.
́ác em bỏ học tạo ra những hệ luỵ xấu ảnh hưởng đến uy tín, thương
hiệu và chất lượng đào tạo của các trường, làm cho hiệu quả kinh tế của việc
đầu tư cho giáo dục - đào tạo thấp đi. Đối với các trường ngoài công lập công
tác hạch toán đầu tư và hiệu quả đầu tư giảm sút nghiêm trọng.
Đối với xã hội, việc bỏ học của sinh viên là sự lãng phí thời gian và
tiền bạc; đối với lực lượng lao động xã hội là sự lãng phí chất xám; đối với sự
phát triển của nền kinh tế quốc dân là sự lãng phí về nguồn lực. ́ác đối tượng
bỏ học thoát ra khỏi sự quản lý của nhà trường, đoàn thể và gia đình, gây
thêm bao hệ luỵ khó lường. Sự gián đoạn trong học tập do bất cứ lý do gì đều
ảnh hưởng đến phát triển của tư duy và quá trình phát triển nhân cách cá nhân
của các em về sau. Sinh viên bỏ học làm lãng phí tiền của trong những thời
gian đã đào tạo mà không mang lại hiệu quả gì. Sinh viên bỏ học gây nên
nhiều hệ luỵ xấu trong xã hội và rơi tự do trong điều kiện thiếu sự quản lý của
gia đình và nhà trường trong lứa tuổi của các em thì hậu quả rất nghiêm trọng
(một đường dây thi hộ và làm bằng giả do một nhóm sinh viên bỏ học tại
Đồng ̀ai tổ chức đã bị công an truy tố năm 2009 là một minh chứng-Báo
Thanh ̀iên số ra ngày 12-7-2009).
1.2.2 Những nhân tố tác động dẫn đến hành vi bỏ học của sinh viên
Được vào học tại giảng đường đại học là ước mơ, hy vọng của gia đình
và bản thân tất cả mọi học sinh. Ước vọng lớn nhất của phụ huynh và sinh
viên là sau thời gian học tại trường đại học các em sẽ có một tấm bằng đại học
loại khá giỏi làm tấm giấy thông hành như một hành trang bước vào đời.
Không một sinh viên nào lại có ý nghĩ khi mới nhập học là mình sẽ bỏ
học giữa chưng hoặc không tốt nghiệp. Tuy nhiên, trong suốt thời gian học
tập tại trường đại học vưa xa gia đình, học hành vất vả, sinh hoạt thiếu thốn,
18
khó khăn về kinh tế, các mối quan hệ phát sinh và rất nhiều nhân tố tác động
đến các em làm cho một số sinh viên bỏ học khi khóa học chưa kết thúc.
Phần lớn sinh viên bị tác động tiêu cực tư bên ngoài làm cho suy nghĩ và
hành động của các em dần thay đổi. ̀hiều em do thiếu cố gắng nỗ lực của bản
thân cộng với kết quả học tập không như ý muốn, bị bàn bè lôi kéo vào những
hoạt động ngoài học tập, hay đi làm thêm khi khó khăn về kinh tế để kiếm
thêm thu nhập và rất nhiều tác động khác. ́hính những điều đó làm các em sao
nhẵng việc học hành, kết quả học tập giảm sút rồi dẫn đến bỏ học luôn.
́ó rất nhiều những tác động tư bên ngoài dẫn tới các em bỏ học, trong
khi đó bản thân sinh viên cung không nhận ra các tác động ấy và đến khi nhận
ra thì đã quá muộn để quay lại giảng đường. ̀hững nhân tố tác động dẫn tới
sinh viên bỏ học có thể kể đến như:
Thiếu sự quan tâm của thầy cô giáo và các cô vấn học tập, của lực
lượng giáo dục nhà trường.
Khi cần một sự giúp đỡ quan tâm, khi mắc phải những sai sót nào đó để
đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã các em bị mất phương hướng, lại không có sự
giúp đỡ tư thầy cô và các lực lượng giáo dục của nhà trường. ́hính vì lẽ đó,
nhiều em cảm thấy bị bỏ rơi trong học tập và rèn luyện nên chán nản và nhiều
lần như thế có ý nghĩ muốn thoát ly môi trường học đường để tìm một con
đường mới dễ chịu hơn. ̀hiều em chỉ vì thi hai ba lần mà không trả nợ được
vài môn còn nợ nên chán nản rồi dẫn tới bỏ học luôn vì nghĩ mình không đủ
khả năng để vượt qua.
Sự quan tâm của nhà trường và thầy cô là nhân tố tác đô ̣ng quan trọng
nhất dẫn tới sinh viên bỏ học trong môi trường giáo dục. Theo tác giả sinh
viên không chê trường nghèo, cung ít khi các em phàn nàn về cơ sở vâ ̣t chất
mà các em chỉ phàn nàn về sự thờ ơ và ít quan tâm của thầy cô. ́ung như
trong mô ̣t gia đình, con cái hiếm khi chê cha mẹ nghèo, những gia đình giàu
có đầy đủ vật chất nhưng cha mẹ ít quan tâm đến con cái, những gia đình cha
mẹ ly dị không quan tâm đến các em nên chúng mới bỏ nhà đi bụi đời. ̀hững
gia đình dù cha mẹ nghèo nhưng yêu thương hòa thuâ ̣n quan tâm chăm sóc
- Xem thêm -