MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Việt Nam đang bước vào thế kỷ XXI trước những thách thức vô cùng
gay gắt. Thế giới đang tiến như vũ bão trên các mặt trận sản xuất vật chất và
tinh thần trong khi nước ta đang ở tình trạng lạc hậu về nhiều mặt. Để vượt
được những thách thức đó phải phát huy nguồn lực con người. GD&ĐT phải
phát huy được tiềm năng trí tuệ của toàn dân tộc để vượt qua thách thức và
vượt qua được nguy cơ tụt hậu, bắt nhịp kịp trình độ phát triển, hoà nhập vào
trình độ các nước trong khu vực và trên thế giới.
Sự nghiệp giáo dục được Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng. Điều
35 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã nêu: “Phát triển giáo dục
là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Hội nghị TW4 (Khoá
VII - 1/1993) có Nghị quyết “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp GD&ĐT” và chỉ rõ
vị trí của giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Giáo dục THCS là bộ phận cơ bản của giáo dục phổ thông trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Trường THCS tiếp tục hoàn thiện nhân cách cho học
sinh, giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục Tiểu học,
có điều kiện phát huy năng lực cá nhân tạo ra nguồn lực con người có khả năng
tiếp nhận và chiếm lĩnh công nghệ cao, đáp ứng xu thế hội nhập quốc tế trong
thế kỷ XXI. Với xu hướng cải cách và phát triển của ngành giáo dục hiện nay,
vai trò của đội ngũ CBQL có tính chất quyết định đến chất lượng tổ chức giảng
dạy, học tập, quản lý và thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nhà trường. Công
việc của CBQL khá phức tạp, đôi khi căng thẳng và nhiều áp lực. Một ngày làm
việc của hiệu trưởng đầy ắp những yếu tố bất ngờ. Những sự kiện đa dạng và
linh hoạt vừa thách thức vừa chứng minh khả năng lãnh đạo, ra quyết định, cải
thiện tình hình và nâng cao chất lượng được diễn ra liên tục.
1
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả mọi việc tốt hay xấu
đều xuất phát từ công tác cán bộ. Cán bộ nào phong trào ấy”. Để có một
nhà trường mạnh, phát triển toàn diện, đạt các mục tiêu đề ra thì điều quan
trọng phải có một người hiệu trưởng giỏi. Hiệu trưởng phải có đầy đủ lý luận
và cẩm nang cơ bản cùng với sự năng động sáng tạo, nhiệt tình, trách nhiệm
thì kết quả giáo dục của các nhà trường sẽ ngày một nâng cao.
Đảng, Nhà nước ta đã khẳng định và chỉ ra rằng: Giáo dục - Đào tạo
và Khoa học - Công nghệ là “Quốc sách hàng đầu” trong sự nghiệp đổi mới
là “khâu đột phá” phục vụ CNH, HĐH là “nền tảng và động lực” cho CNH,
HĐH để từng bước phát triển kinh tế tri thức. Chỉ thị 40-CT/TW ngày
15/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng đã khẳng định: “Phát triển
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, là
điều kiện để phát triển nguồn lực con người. Đây là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng
nòng cốt, có vai trò quan trọng”. Chỉ thị đã nhấn mạnh: “Tăng cường xây
dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện. Đây
là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt vừa mang tính chiến lược lâu
dài, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và
chấn hưng đất nước”.
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2001 - 2010 đã xác định 7
giải pháp cần được thực hiện đồng bộ, nhằm thực hiện các mục tiêu, nội
dung, chỉ thị đặt ra của chiến lược trong đó nhấn mạnh: “Đổi mới chương
trình giáo dục, phát triển đội ngũ nhà giáo là các giải pháp trọng tâm, đổi
mới quản lý là khâu đột phá”.
Nghị quyết hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương khóa VIII đã khẳng
định: “Muốn tiến hành CNH, HĐH thắng lợi phải phát triển giáo dục - đào
tạo, phát huy nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ bản phát huy nguồn lực
2
con người, yếu tố cơ bản phát triển nhanh chóng bền vững và khâu then chốt
để thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển giáo dục là phải đặc biệt quan
tâm chăm lo đào tạo và tiêu chuẩn hóa đội ngũ giáo viên cũng như đội ngũ
CBQL giáo dục cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức và năng lực chuyên môn
nghiệp vụ”.
Để có nguồn nhân lực chất lượng cao giáo dục phổ thông nói chung và
giáo dục THCS nói riêng phải thực sự là nền tảng, trong đó đội ngũ CBQL
có vai trò hết sức quan trọng không những phục vụ cho việc nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài mà còn là cơ hội tốt để nền giáo dục
của nước ta tiếp cận nhanh chóng với nền giáo dục tiên tiến của thế giới.
Giáo dục ngày nay không chỉ đơn thuần là dạy kiến thức cơ bản cho
người học mà giúp người học có được hành trang nhanh chóng đi vào cuộc
sống lao động hoặc trang bị cho họ kiến thức cơ bản để có thể tiếp tục học
lên cao hơn. Do đó quản lý giáo dục nói chung và nhất là quản lý giáo dục
tại các tường THCS nói riêng là rất quan trọng và cấp thiết, nhằm đáp ứng
được yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý giáo dục.
Để đáp ứng được những yêu cầu trên cần phải xây dựng đội ngũ
CBQL một cách nhanh chóng, đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, nhất
là trình độ và năng lực quản lý đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ giáo dục
nói chung và ở trường THCS nói riêng.
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định
nhiệm vụ trong những năm tới của giáo dục và đào tạo là: “Nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung phương pháp
dạy và học, thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, chấn hưng nền
giáo dục Việt Nam”.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Các trường THCS trên địa bàn huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai được
thành lập trên cơ sở tách ra từ các trường phổ thông cơ sở trước đây (trường
3
phổ thông có nhiều cấp học từ mầm non, tiểu học và THCS), được sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước đầu tư cho giáo dục và đạo tạo vùng dân tộc,
vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên giáo dục và đạo tạo đã có những
bước chuyển biến nhất định. Sự nghiệp giáo dục của huyện đã đạt được một
số thành tựu quan trọng, từng bước nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho địa phương, góp phần xóa đói, giảm nghèo một cách bền
vững ở một huyện vùng núi cao biên giới của Tổ quốc, đội ngũ CBQL và
giáo viên từng bước được cải thiện cả về số lượng và chất lượng, song bên
cạnh đó giáo dục THCS vẫn còn những hạn chế nhất định, trong đó có
nguyên nhân là do trình độ, năng lực, cơ cấu của đội ngũ CBQL tại các
trường THCS chưa đáp ứng được yêu cầu.
Những năm gần đây GD&ĐT đã có những đổi mới mạnh mẽ, cơ bản
và sâu sắc. Song bên cạnh những thành tựu chúng ta đã đạt được thì cũng
còn không ít những yếu kém khó khăn nhiều mặt, trong đó nguyên nhân cơ
bản là những hạn chế của công tác quản lý nói chung và quản lý nhà trường
nói riêng, không theo kịp thực tiễn phát triển GD&ĐT. Trong những năm
qua công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ lãnh đạo các trường THCS đã được
chú trọng nhưng hiệu quả của công tác bồi dưỡng còn thấp. Đội ngũ hiệu
trưởng các trường THCS ở một số vùng và địa phương còn yếu về chất
lượng, đặc biệt về năng lực và tư duy quản lý, còn có những biểu hiện quan
liêu, mệnh lệnh, thiếu dân chủ, chưa thực sự quan tâm tới đời sống CBGV và
xây dựng môi trường làm việc thuận lợi cho giáo viên.v.v…Một số hiệu
trưởng tuổi cao chủ yếu làm việc bằng kinh nghiệm, thiếu sự năng động, đôi
khi còn bộc lộ tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Một số hiệu trưởng trẻ có khả năng
nắm bắt cái mới nhanh, nhưng còn thiếu kinh nghiệm, đôi khi còn bị chi phối
bởi những tác động bởi những mặt trái nền kinh tế thị trường.
Để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNHHĐH, giáo dục phải có những thay đổi mà trước hết là từ công tác QLGD.
4
Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 BCHTW khoá VIII đã chỉ rõ: “Đổi mới công
tác QLGD” và “Đổi mới cơ chế QLGD”. Kết luận Hội nghị lần thứ 6
BCHTW khoá IX đã xác định:“Thực hiện mạnh mẽ phân cấp QLGD, phát
huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục” và “Tiếp tục
xây dựng đồng bộ và kịp thời hoàn thiện các văn bản pháp lý giáo dục. Xác
định và thể chế hoá vai trò, chức năng các cấp quản lý. Hoàn thiện tổ chức
bộ máy giáo dục từ Bộ GD&ĐT đến các cơ sở giáo dục”.
Một trong những giải pháp phát triển giáo dục của Chiến lược phát
triển giáo dục 2001 - 2010 là: “Đổi mới QLGD. Đổi mới về cơ bản và
phương thức QLGD theo hướng nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, phân
cấp mạnh mẽ nhằm phát huy tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các
địa phương, của các cơ sở giáo dục, giải quyết một cách có hiệu quả các
vấn đề bức xúc, ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực hiện nay”.
Tại chỉ thị 40/CT-TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
về việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD đã
nhấn mạnh: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD được
chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả mọi việc tốt hay xấu
đều xuất phát từ công tác cán bộ. Cán bộ nào phong trào ấy”. Để có một
nhà trường mạnh, phát triển toàn diện, đạt các mục tiêu đề ra thì điều quan
trọng phải có một người hiệu trưởng giỏi. Hiệu trưởng phải có đầy đủ lý luận
và cẩm nang cơ bản cùng với sự năng động sáng tạo, nhiệt tình, trách nhiệm
thì kết quả giáo dục của các nhà trường sẽ ngày một nâng cao.
Từ lý luận và thực tiễn cho thấy việc phát triển đội ngũ hiệu trưởng
trường THCS trong những năm tới là rất cần thiết. Đội ngũ này là lực lượng
nòng cốt, hạt nhân chính trị góp phần vào công cuộc đổi mới giáo dục, tạo ra
nguồn nhân lực có chất lượng cao để xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.
5
Bát Xát là huyện thuộc khu vực miền núi phía Bắc, nơi mà điều kiện
địa lý và kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Việc áp dụng các kết quả
nghiên cứu đã có cũng còn nhiều điểm chưa phù hợp. Các biện pháp phát
triển đội ngũ CBQL trường THCS của huyện Bát Xát hiện nay còn nhiều bất
cập, chưa được nghiên cứu, trong phạm vi rộng hơn có rất ít đề tài đề cập
đến vấn đề này. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: Biện
pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường THCS huyện Bát Xát tỉnh
Lào Cai là cần thiết và góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục
trong những năm tới và tạo ra được nguồn nhân lực có chất lượng cao phục
vụ cho các tỉnh miền núi nhằm rút ngắn khoảng cách về sự chênh lệch giữa
các vùng miền. Phấn đấu xây dựng Tổ quốc Việt Nam vì một mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng đội ngũ CBQL
đề tài đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ CBQL các trường THCS
của huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai nhằm phát huy năng lực quản lý của đội ngũ
hiệu trưởng, phó hiệu trưởng phù hợp với xu thế và đòi hỏi của xã hội trong
giai đoạn mới.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
§ội ngũ CBQL c¸c trêng THCS.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát triển đội ngũ CBQL các trường THCS huyện Bát Xát
tỉnh Lào Cai
4. Giả thuyết khoa học
Đội ngũ CBQL các trường THCS huyện Bát Xát đã có những bước
phát triển nhất định về cơ cấu, về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về năng
lực quản lý,... xong vẫn còn nhiều bất cập trước những yêu cầu đổi mới giáo
6
dục. Nếu đề xuất được các biện pháp phù hợp như: Tăng cường sự lãnh đạo
của các cấp uỷ Đảng, chính quyền về việc phát triển đội ngũ CBQL trường
THCS; Phát triển đội ngũ CBQL trường THCS đủ về số lượng, đảm bảo về
chất lượng, đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục; Tiến hành rà soát, sắp
xếp lại đội ngũ CBQL trường THCS đảm bảo có chất lượng và đồng bộ về
cơ cấu đáp ứng được yêu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục THCS của
huyện Bát Xát... thì sẽ góp phần tích cực cho việc nâng cao chất lượng đội
ngũ CBQL các trường THCS ở huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về công tác phát triển đội ngũ
CBQL trường THCS.
5.2. Khảo sát thực trạng đội ngũ CBQL trường THCS và thực trạng
công tác phát triển đội ngũ CBQL các trường THCS của huyện Bát Xát tỉnh
Lào Cai giai đoạn 2005-2010, phân tích nguyên nhân của thực trạng.
5.3. §Ò xuÊt c¸c biện ph¸p phát triển đội ngũ CBQL trường THCS
huyện Bát Xát và khảo nghiệm về mức độ cần thiết và khả thi của các biện
pháp phát triển đội ngũ CBQL trường THCS huyện Bát Xát.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu văn kiện, văn bản, tài liệu.
Nghiên cứu các vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài để xây dựng cơ
sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Điều tra bằng phiếu hỏi.
6.2.2. Tham khảo ý kiến chuyên gia.
6.2.3. Phân tích và tổng kết kinh nghiệm.
6.2.4. Khảo nghiệm mức độ cần thiết và mức độ khả thi của các biện pháp.
6.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học.
7
Xử lý số liệu bằng thống kê toán học để thống kê, tổng hợp, phân tích
và xử lý số liệu thống kê thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau giúp cho
việc nghiên cứu đạt được hiệu quả cao và đảm bảo độ tin cậy.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
7.1. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu việc phát triển đội ngũ CBQL các
trường THCS của Trưởng Phòng GD&ĐT huyện Bát Xát.
7.2. Giới hạn nghiên cứu
Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Thuéc 26 trêng trung häc c¬ së cña
huyÖn B¸t X¸t tØnh Lµo Cai.
Khảo sát thực trạng biện pháp phát triển đội ngũ CBQL trường THCS
ở huyện Bát Xát giai đoạn 2006 - 2010.
7.3. Giới hạn về khách thể khảo sát thực trạng
Khách thể khảo sát là cán bộ quản lý, GV các trường THCS, lãnh đạo,
chuyên viên phòng GD&ĐT huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục các tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận văn cấu trúc gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận về phát triển đội ngũ CBQL trường THCS.
Chương 2: Thực trạng phát triển đội ngũ CBQL các trường THCS
huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai.
Chương 3: Các biÖn ph¸p phát triển đội ngũ CBQL trường Trung học
cơ sở trên địa bàn huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ QUẢN LÝ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Vài nét tổng quan về lịch sử nghiên cứu
Quản lý là một hoạt động mang tính lịch sử xã hội, nhờ có hoạt động
quản lý mà xã hội loài người không ngừng vận động và phát triển. Theo
Mác-Ănghen trong quá trình nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã rút
ra kết luận, một trong những yếu tố quyết định đối với sự phát triển của nề
sản xuất tư bản là nhờ có vai trò của hoạt động quản lý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê
Nin về vai trò của hoạt động quản lý, Người đã khẳng định: “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”, cán bộ cách mạng
phải là người “vừa hồng, vừa chuyên”, đó chính là mối quan hệ giữa tài và
đức trong nhân cách người cán bộ quản lý, trong đó đức là gốc, còn năng lực
của con người không phải tự nhiên mà có mà phần lớn là do qua quá trình
công tác, rèn luyện mà nên.
Xuất phát từ quan điểm “Coi con người là động lực trực tiếp của sự
phát triển, cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Ngày nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập mạnh mẽ và sâu rộng
trên tất cả các lĩnh vực trong đó giáo dục có vai trò quyết định đối với sự tồn
tại và phát triển của quốc gia. Để thực hiện có hiệu quả sự nghiệp giáo dục
Đảng và Nhà nước ta đã có Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban bí thư “Về việc
xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”,
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X cũng đã nêu rõ:
“...Coi trọng công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức, trước hết là cán
bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ
năng quản lý hành chính nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội trong điều kiện
cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế” và xây dựng đội ngũ Đảng
9
viên thật sự tiên phong gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý
thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên định lập trường
giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng, vững vàng
trước mọi khó khăn thử thách; năng động, sáng tạo góp phần tích cực vào
công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Thực hiện Chỉ thị 40-CT/TW của Ban bí thư “Về việc xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”, Bộ GD&ĐT đã
xây dựng chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, các giải pháp phát triển
giáo dục được đưa ra có giải pháp “Đổi mới quản lý giáo dục”, trong đó xác
định “Đổi mới cơ chế và phương thức quản lý giáo dục theo hướng phân cấp
một cách hợp lý nhằm giải phóng và phát huy mạnh mẽ tiềm năng, sức sáng
tạo, tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp và mỗi cơ sở giáo dục,
giải quyết một cách có hiệu quả những bất cập trong toàn hệ thống trong quá
trình phát triển”. Cụ thể là: Xây dựng và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục. Đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ CBQL giáo dục các
cấp về kiến thức, kỹ năng quản lý và rèn luyện phẩm chất đạo đức; đồng thời
điều chỉnh sắp xếp lại cán bộ theo yêu cầu mới phù hợp với năng lực và
phẩm chất của từng người.
Triển khai các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đối với sự phát triển giáo
dục, đã có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu về lý luận quản lý giáo dục và
công tác xây dựng đội ngũ CBQL giáo dục.
Đối với cấp độ luận văn thạc sỹ, trong những năm gần đây cũng đã có
nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về công tác xây dựng, qui hoạch và phát
triển đội ngũ CBQL giáo dục các cấp của một số địa phương như:
Đặng Quốc Bảo: “Đào tạo bồi dưỡng CBQL giáo dục cho thế kỷ
XXI”. Kỷ yếu hội thảo về công tác đào tạo bồi dưỡng CBQL và công chức
ngành giáo dục trong thời kỳ mới (2000).
10
Huỳnh Thị Ẩm: “Một số giải pháp phát triển đội ngũ CBQL trường
THPT Thành phố Hồ Chí Minh nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ
thông”. Luận văn thạc sỹ QLGD năm 2005.
Ngô Đoàn Nguyễn: “Những giải pháp phát triển đội ngũ CBQL
trường THPT tỉnh Bạc Liêu”. Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục năm 2005.
Phùng Quang Thơm: “Một số biện pháp bồi dưỡng đội ngũ hiệu
trưởng trường THCS huyện Mê Linh – Tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện
nay”. Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục năm 2005.
Lưu Bích Thuận: Quy hoạch xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ
quản lý các trường THCS huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang (Giai đoạn từ
2006 đến 2015). Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục năm 2006.
Nguyễn Thanh Tú: “Biện pháp phát triển đội ngũ CBQL các trường
THCS của phòng giáo dục huyện U Minh Thượng, Kiên Giang. Luận văn
thạc sỹ khoa học giáo dục năm 2008...
Nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ
CBQL giáo dục về kiến thức, kỹ năng quản lý một cách bài bản, có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo
dục. Sau một thời gian tìm tòi và nghiên cứu tôi nhận thấy đề tài: Biện pháp
phát triển đội ngũ CBQL trường THCS cần được quan tâm nghiên cứu đặc
biệt là ở một huyện vùng cao, biên giới như huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý.
Khái niệm quản lý đã được phát hiện từ mấy ngàn năm trước công
nguyên, lúc đó quản lý còn là một thứ triết học. Quản lý thực sự bắt đầu
đóng vai trò đáng kể từ cuộc cách mạng công nghiệp khởi đầu ở Anh vào thế
kỷ XVIII và sau đó lan sang Mỹ vào thế kỷ XIX, khi mà máy móc đã thay
thế lao động thủ công và sản xuất theo dây chuyền xuất hiện và chính từ đó
quản lý đã trở thành một khoa học.
11
Trong nghiên cứu khoa học có rất nhiều quan niệm về quản lý, theo
những cách tiếp cận khác nhau. Quản lý là cai quản, chỉ huy, lãnh đạo, chỉ
đạo kiểm tra theo góc độ tổ chức. Theo góc độ điều khiển thì quản lý là lái,
là điều khiển, điều chỉnh. Theo cách tiếp cận hệ thống thì quản lý là sự tác
động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm tổ chức, phối hợp hoạt
động của con người trong quá trình sản xuất để đạt được mục đích đã định.
Quản lý là một hoạt động thiết yếu, đảm bảo phối hợp nỗ lực hoạt
động của cá nhân nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội con người muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa vào
nỗ lực của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức. Các Mác viết: “Tất cả mọi lao động xã
hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn,
thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá
nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của
toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập
của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn
nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng” [6, 12]. Theo quan điểm này thì trong
quá trình lao động con người phải có sự phân công, hợp tác với nhau, sự tổ
chức phân công lao động đó chính là một chức năng quản lý, như vậy quản
lý là một chức năng xã hội, xuất hiện và phát triển cùng với xã hội.
- Theo Bách khoa toàn thư (Liên Xô cũ): “Quản lý là chức năng của
những hệ thống có tổ chức với những bản chất khác nhau, nó bảo toàn cấu
trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động. Quản lý bao gồm những
công việc chỉ huy và tạo điều kiện cho những người khác thực hiện công
việc và đạt được mục đích”.
- Theo Từ điển Tiếng Việt 1998: “Quản lý là trông coi và giữ gìn theo
những yêu cầu nhất định”.
- Henri Fayol (người Pháp), người đặt nền móng cho lý luận tổ chức cổ
điển: “Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”.
12
- Theo Taylor F.W (người Mỹ), “Quản lý là biết được chính xác điều
bạn muốn người khác làm và sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công
việc một cách tốt và rẻ nhất”.
Có nhiều cách khác nhau định nghĩa về quản lý, theo nghĩa rộng thì
quản lý là hoạt động có mục đích của con người, nếu xét quản lý với tư cách
là một hành động, các tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải và Đặng Quốc
Bảo định nghĩa: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ
thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra”. [22, 12]
Quản lý là sự cộng tác có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý
đến khách thể quản lý trong mỗi tổ chức nhằm làm cho tổ chức hoạt động và
đạt được mục tiêu đặt ra. Quản lý là sự tác động, điều khiển, chỉ huy, hướng
dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt được
mục đích đề ra. Quản lý còn là một quá trình tác động có mục đích vào hệ
thống nhằm làm thay đổi hệ thống, thông qua các chức năng kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo và kiểm tra để thực hiện hoạt động quản lý.
Trong các định nghĩa trên, tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng đều
chứa đựng những dấu hiệu chung:
Quản lý là thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình, mọi hoạt động
xã hội loài người. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã
hội loài người tồn tại và phát triển.
Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội
Hoạt động quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận gắn bó chặt
chẽ với nhau: Chủ thể quản lý và đối tượng quản lý.
Yếu tố con người (người quản lý và người bị quản lý) giữ vai trò trung
tâm trong hoạt động quản lý.
Bản chất của quản lý:
Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của người
quản lý (chủ thể quản lý) đến người bị quản lý (đối tượng quản lý) nhằm đạt
được mục tiêu chung.Trong đó:
13
- Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức
- Đối tượng quản lý là những con người cụ thể, nhóm người…
- Nội dung quản lý các yếu tố cần quản lý của đối tượng quản lý,
- Công cụ quản lý là phương tiện tác động của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý như: mệnh lệnh, quyết định, luật lệ, chính sách….
- Phương pháp quản lý là cách thức tác động của chủ thể tới đối tượng
quản lý.
- Mục tiêu của tổ chức được xác định theo nhiều cách khác nhau, nó
có thể do chủ thể quản lý áp đặt hoặc do sự cam kết giữa chủ thể và đối
tượng quản lý.
Quản lý có một số đặc điểm:
- Quản lý là một nghệ thuật tác động vào hệ thống;
- Quản lý là sự thể hiện tổ hợp các biện pháp nhằm vận hành hệ thống
đạt được mục tiêu đặt ra.
Trong quản lý, chủ thể quản lý phải sắp xếp hợp lý các hoạt động và
phải có các tác động phù hợp, kết hợp giữa tri thức và kinh nghiệm quản lý
để đạt được mục tiêu, đồng thời để phát huy tiềm năng của đối tượng quản lý
thì phải có cơ chế quản lý đúng đắn. Để thực hiện tốt các quá trình quản lý,
ngoài các điều kiện phương tiện quản lý như máy móc, thiết bị... thì nhân
cách, phong cách của nhà quản lý là không thể thiếu được.
Xét dưới góc độ hoạt động thì quản lý có 4 chức năng cơ bản:
- Chức năng lập kế hoạch:
Dự kiến các hoạt động của một quá trình, một giai đoạn hoạt động hợp
lý và các điều kiện, những tình huống dự báo sẽ xảy ra và biện pháp giải
quyết các tình huống đó.
- Chức năng tổ chức:
Sự phân công, phối hợp giữa các bộ phận trong tổ chức để thực hiện
các mục tiêu đặt ra. Do có chức năng này mà chủ thể quản lý có thể phối
14
hợp, phân phối tốt nhất các nguồn lực hiện có. Hiệu quả đạt được nhiều hay
ít, thành công hay thất bại phụ thuộc nhiều vào năng lực và phong cách của
chủ thể quản lý, phụ thuộc vào việc sử dụng, huy động các nguồn lực cũng
như tạo động lực và khơi dậy tiềm năng của mỗi cá nhân trong tổ chức.
- Chức năng chỉ đạo:
Là sự chỉ huy, hướng dẫn, tác động để bộ máy hoạt động, đây chính là
quá trình tác động của chủ thể quản lý, sau khi kế hoạch đã được thiết lập, cơ
cấu của tổ chức đã được hình thành, nhân sự đã được tuyển dụng. Thực hiện
tốt chức năng này người quản lý phải biết phối hợp, gắn kết giữa các thành
viên lại với nhau, có hình thức, phương pháp động viên khích lệ để họ hoàn
thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức, xong
trong quá trình hoạt động có điều chỉnh và thúc đẩy.
- Chức năng kiểm tra:
Đây là chức năng cơ bản và rất quan trọng của quản lý, lãnh đạo mà
không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo, kiểm tra nhằm nắm tình hình
hoạt động của bộ máy, từ đó điều chỉnh hoạt động của bộ máy theo mong
muốn của nhà lãnh đạo để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý
KẾ HOẠCH
KIỂM TRA
THÔNG TIN
TỔ CHỨC
CHỈ ĐẠO
1.2.2. Quản lý trường học
1.2.2.1. Trường học
Trường học là một tổ chức giáo dục ở cơ sở nằm trong hệ thống giáo
dục quốc dân. Trong nhà trường hoạt động trung tâm là hoạt động dạy và
15
học, tất cả các hoạt động đa dạng khác đều hướng tới làm tăng hiệu quả của
quá trình dạy và học. Vì vậy quản lý trường học nói chung và quản lý trường
THCS nói riêng bản chất là: “Quản lý hoạt động dạy – học, tức là làm sao
đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến đến
mục tiêu giáo dục” [32; 35]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Trường học là một thiết chế xã hội
trong đó diễn ra quá trình đào tạo giáo dục với sự hoạt động tương tác của
hai nhân tố Thầy - Trò. Trường học là một bộ phận của cộng đồng và trong
guồng máy của hệ thống giáo dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở.” [1; 63]
Trường học là phần tử của hệ thống giáo dục quốc dân, đồng thời cũng
là phần tử của xã hội, thực hiện thể chế chuyên biệt của xã hội, của Nhà
nước, có chức năng đào tạo thế hệ trẻ, có mục tiêu rõ ràng, có tổ chức rất
chặt chẽ, được Nhà nước cung cấp các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện
các chức năng của mình. Trường học có mối quan hệ mật thiết với môi
trường kinh tế - chính trị - văn hóa, xã hội. Với tư cách là một phần tử trong
hệ thống giáo dục quốc dân nên trường học có nhiệm vụ và quyền hạn theo
luật định của Luật giáo dục.
1.2.2.2. Quản lý nhà trường
Giáo dục là một bộ phận trong hệ thống xã hội, có chức năng đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ sự tồn tại và phát triển của xã hội trong tương lai.
QLGD là sự vận dụng của khoa học quản lý vào các lĩnh vực hoạt động giáo
dục, để thực hiện mục tiêu mong muốn của giáo dục. Cũng giống như khái
niệm quản lý, QLGD được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trước hết tìm hiểu khái niệm giáo dục và quản lý giáo dục, do cách thức
tiếp cận khác nhau mà quản lý giáo dục được hiểu ở nhiều góc độ khác nhau:
Hiểu theo nghĩa rộng: Giáo dục là hoạt động diễn ra trong xã hội thì
quản lý giáo dục là quản lý mọi hoạt động về giáo dục trong xã hội. Quản lý
16
giáo dục có hệ thống và được tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương
và các cơ sở giáo dục trong phạm vi toàn quốc.
Hiểu theo nghĩa hẹp: Giáo dục là các hoạt động diễn ra trong ngành
GD&ĐT hay một đơn vị trường học, quản lý giáo dục được hiểu là quản lý
một đơn vị cơ sở GD&ĐT, quản lý nhà trường hay quản lý trường học.
Trong hệ thống quản lý giáo dục nói chung, quản lý trường học là một trong
những nội dung quan trọng, vì nhà trường là cơ sở, là nền tảng của ngành
GD&ĐT.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc, khi bàn về khái niệm quản lý nhà
trường đã khẳng định: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục
của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo
đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh.” [20; 22]
Theo tác giả M.Zade thì quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp
nhằm bảo đảm sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo
dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng
cũng như về mặt chất lượng.
QLGD được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự điều
hành hệ thống giáo dục quốc dân, các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. QLGD là hoạt động điều
hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục theo yêu
cầu phát triển xã hội.
Quản lý nhà nước về GD&ĐT là việc nhà nước thực hiện quyền lực
công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động GD&ĐT trong phạm vi
toàn xã hội.
QLGD cũng chịu sự chi phối của các quy luật xã hội và tác động của
quản lý xã hội. QLGD có những đặc trưng chủ yếu sau đây:
17
Sản phẩm giáo dục là nhân cách nên QLGD phải ngăn ngừa sự dập khuôn,
máy móc trong việc tạo ra sản phẩm và không được phép tạo ra phế phẩm.
QLGD nói chung và quản lý nhà trường nói riêng phải chú ý đến sự
khác biệt giữa đặc điểm lao động sư phạm so với lao động xã hội.
QLGD đòi hỏi những yêu cầu cao về tính toàn diện, tính thống nhất,
tính liên tục, tính kế thừa và tính phát triển.
Trong QLGD, các hoạt động quản lý hành chính nhà nước và quản lý
sự nghiệp chuyên môn đan xen vào nhau, thâm nhập lẫn nhau, không thể
tách rời nhau, tạo thành hoạt động QLGD thống nhất.
Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, QLGD phải quán triệt quan
điểm của quần chúng.
Dựa vào phạm vi quản lý, người ta đưa ra hai loại QLGD:
- Quản lý hệ thống giáo dục: QLGD được diễn ra ở tầm vĩ mô, trong
phạm vi toàn quốc, trên địa bàn lãnh thổ địa phương.
- Quản lý nhà trường: QLGD ở tầm vi mô, trong phạm vi một đơn vị,
một cơ sở giáo dục.
Quản lý nhà trường là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý (Các cấp QLGD) nhằm làm cho nhà
trường vận hành theo quy luật giáo dục để đạt tới mục tiêu giáo dục đặt ra
trong từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Tác giả Kônđacốp định nghĩa: “Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn
chỉnh, chúng ta hiểu quản lý nhà trường là một hệ thống xã hội sư phạm
chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và
hướng đích của chủ thể quản lý đến tất cả các mặt của đời sống nhà trường,
nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về các mặt kinh tế xã hội, tổ chức sư phạm
của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên”
Nhà trường là một thể chế xã hội hoàn chỉnh, một cơ quan giáo dục
chuyên biệt thực hiện chức năng giáo dục đào tạo của nhà nước, của cộng
18
đồng xã hội, chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống. Quản lý nhà trường
là một phạm vi cụ thể của quản lý hệ thống giáo dục. Quản lý nhà trường
thực chất là quản lý hoạt động giáo dục trên tất cả các mặt, các khía cạnh
liên quan đến hoạt động GD&ĐT trong phạm vi một nhà trường.
Về mặt bản chất của công tác quản lý nhà trường là quá trình chỉ huy,
điều khiển vận động của các thành tố và mối quan hệ giữa các thành tố. Mối
quan hệ đó do quá trình sư phạm trong nhà trường quy định, thông qua các
văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước và của ngành.
Công tác quản lý trường học chính là những công việc của nhà trường
mà người CBQL trường học thực hiện những chức năng quản lý theo yêu cầu
và nhiệm vụ quy định. Đó là các hoạt động có ý thức, có kế hoạch và có định
hướng của chủ thể quản lý tác động tới các hoạt động của nhà trường nhằm
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà trung tâm đó là hoạt động dạy và học
trong nhà trường. Có thể nói công tác quản lý trường học bao gồm việc giải
quyết sử lý các quan hệ nội bộ trong nhà trường và các quan hệ giữa nhà
trường với các lực lượng giáo dục khác trên địa bàn. Ở góc độ cụ thể thì quản
lý trường học đó là việc người CBQL tổ chức, chỉ đạo và điều hành mọi hoạt
động của nhà trường, trong đó mọi hoạt động đều hướng tới hiệu quả của hoạt
động trung tâm là đạy và học đáp ứng được mục tiêu giáo dục.
Quản lý giáo dục nói chung và quản lý trường học nói riêng là hệ
thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể
quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của
Đảng, thực hiện các chính sách của nhà trường XHCN Việt Nam, mà điểm
hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới
mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.
Quản lý nhà trường bao gồm:
- Quản lý các quá trình giáo dục.
- Quản lý các điều kiện cơ sở vật chất, tài chính và nhân lực.
19
Các quá trình giáo dục trong nhà trường gồm 6 thành tố có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau:
-Mục đích giáo dục (MĐ)
-Nội dung (ND)
-Phương pháp giáo dục (PP)
-Thầy giáo (GV)
-Học sinh (HS)
-Phương tiện giáo dục (PT)
Sơ đồ 1.2. Mối quan hệ giữa các thành
tố trong quá trình giáo dục
MĐ
ND
D
PP
QTG
D
GV
HS
PT
1.3. Trường THCS trong hệ thống giáo dục quốc dân
1.3.1. Đặc điểm của cấp học THCS
Là bậc học kế tiếp bậc tiểu học trong giáo dục phổ thông, đây là bậc
học nhằm tiếp tục củng cố và giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo
đức và trí tuệ, thể chất thẩm mỹ và kỹ năng cơ bản khác, phát triển năng lực
cá nhân, tính năng động và sáng tạo hình thành nhân cách con người Việt
Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân. Đặc biệt giúp cho
học sinh củng cố và phát triển những kết quả giáo dục tiểu học, cả học vấn
phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật, hướng
20
- Xem thêm -