Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự...

Tài liệu Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự

.PDF
87
2866
145

Mô tả:

MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU Chương 1: 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẢO 6 ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và những nội dung cơ bản của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự 6 1.1.1. Khái niệm biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự 6 1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự 9 1.1.3. Nội dung của áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự 13 1.2. Ý nghĩa của việc quy định biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự 16 1.3. Cơ sở của việc quy định biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự 20 1.3.1. Cơ sở lý luận 20 1.3.2. Cơ sở thực tiễn 22 Chương 2: 25 NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 2.1. Biện pháp phong tỏa tài khoản 25 2.1.1. Về đối tượng bị áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản 27 2.1.2. Quyền yêu cầu, thẩm quyền áp dụng và căn cứ áp dụng 28 2.1.3. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản 31 2.2. Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự 38 2.2.1. Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ 39 2.2.2. Quyền yêu cầu, quyền áp dụng và căn cứ, thẩm quyền áp dụng 42 2.2.3. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ giấy tờ, tài sản 44 2.3. Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi 51 hiện trạng tài sản 2.3.1. Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản 52 2.3.2. Quyền yêu cầu, căn cứ và thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản 54 2.3.3. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản 56 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP 62 LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự 62 31.1. Thực tiễn thực hiện biện pháp phong tỏa tài khoản 62 3.1.2. Thực tiễn thực hiện biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ 67 3.1.3. Thực tiễn thực hiện biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản 69 3.2. Các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự 71 3.2.1. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự 71 3.2.1.1. Đối với các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự nói chung 71 3.2.1.2. Đối với biện pháp phong tỏa tài khoản 76 3.2.1.3. Đối với biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ 77 3.2.1.4. Đối với biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản 79 3.2.2.2. Các kiến nghị về thực hiện các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự 79 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án dân sự là hoạt động đưa bản án, quyết định về dân sự của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành trên thực tế. Thi hành án dân sự bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và lợi ích của nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị-xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Xác định tầm quan trọng của công tác thi hành án dân sự, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về thi hành án dân sự, đó là: Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 136), Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2004) và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng Nhà nước trước đây, nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao để điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực này như Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và đặc biệt là việc Quốc hội ban hành Luật Thi hành án dân sự. 1 Bên cạnh việc kế thừa, phát triển và pháp điển hóa các quy định về thi hành án dân sự còn phù hợp, trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tình hình thực tiễn công tác thi hành án dân sự và tiếp thu có chọn lọc quy định của pháp luật về thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới, Luật Thi hành án dân sự đã quy định thêm nhiều nội dung mới, khắc phục được một số hạn chế, tồn tại của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004. So với các văn bản pháp Luật Thi hành án dân sự được ban hành trước, Luật Thi hành án dân sự quy định đầy đủ, chi tiết và khoa học hơn các vấn đề về thi hành án dân sự, vì vậy đã điều chỉnh hiệu quả hơn các quan hệ phát sinh trong thi hành án dân sự và phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Tuy nhiên, sau hơn ba năm triển khai thực hiện, Luật Thi hành án dân sự cũng đã bộc lộ những bất cập, đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, làm rõ thêm, trong đó có quy định về biện pháp bảo đảm thi hành án. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài "Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Đây là một nội dung hoàn toàn mới được quy định trong Luật Thi hành án dân sự. Trước khi Luật Thi hành án dân sự được ban hành, pháp Luật Thi hành án dân sự chưa quy định về vấn đề này. Đối với biện pháp phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án, trước đây được Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 quy định là một biện pháp cưỡng chế thi hành án. Chỉ đến khi Luật Thi hành án dân sự được ban hành thì chế định các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự mới được quy định một cách đầy đủ, cụ thể. Do đó, cho đến nay, chỉ có một số ít công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến đề tài này như: - " Luật Thi hành án dân sự Việt Nam những vấn đề lí luận và thực tiễn" do TS. Nguyễn Công Bình (chủ biên), Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2007. - "Những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự 2008", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010. 2 - "Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự", Nguyễn Thị Khanh, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 05/2010, tr. 13 - 16. - "Bản chất pháp lí của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự theo Luật Thi hành án dân sự", Trần Anh Tuấn, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 16/2009, tr. 50 - 55. - "Vài suy nghĩ về thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án", Hồ Quân Chính - Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về thi hành án dân sự, 7/2011. - "Biện pháp bảo đảm thi hành án-Bước ngoặt của pháp luật về thi hành án dân sự", thạc sĩ Lê Thị Kim Dung, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề Thi hành án dân sự và vấn đề xã hội hóa năm 2009. - "Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự", Trần Phương Hồng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề 2011. Tuy nhiên, do mục đích và phạm vi nghiên cứu, các công trình nghiên cứu này cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu mục đích, cơ sở áp dụng và giới thiệu về nội dung các quy định về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự mà chưa nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện, tổng thể về các nội dung liên quan đến vấn đề này. Tuy vậy, đây vẫn là những tài liệu nghiên cứu quan trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, là các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và thực trạng thực hiện các biện pháp này trong hoạt động thi hành án dân sự hiện nay. Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy vậy, do giới hạn của một luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội dung đề tài như khái niệm, đặc điểm, nội 3 dung và ý nghĩa của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự; cơ sở của việc pháp luật quy định biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự; nội dung các quy định của Luật Thi hành án dân sự về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và thực tiễn thực hiện chúng trong những năm qua. 4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, nội dung của chế định biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự; nhận diện được những hạn chế, bất cập của chế định này và các tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện chúng. Từ đó, tìm ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập, vướng mắc, tồn tại đã nhận diện, góp phần giải quyết các khó khăn, vướng mắc đặt ra trong công tác thi hành án dân sự hiện nay. Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên những khía cạnh sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. - Phân tích, đánh giá những quy định của Luật Thi hành án dân sự về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. - Khảo sát tình hình thực hiện các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự trong thực tiễn hiện nay. - Tìm ra được một số giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa MácLênin, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. 4 Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp thực tiễn. 6. Những điểm mới của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên quan đến biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, thể hiện ở các nội dung cơ bản sau đây: - Hoàn thiện khái niệm về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự; - Làm rõ được đặc điểm, ý nghĩa, nội dung của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và cơ sở của việc quy định biện pháp này; - Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của Luật Thi hành án dân sự về bảo đảm thi hành án dân sự và thực tiễn thực hiện; - Đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện những quy định của pháp luật về bảo đảm thi hành án dân sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Chương 2: Nội dung các quy định hiện hành về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và kiến nghị. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự Như chúng ta đã biết, theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thì thủ tục thi hành án dân sự được hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ các bước để đưa một bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành theo quy định của pháp luật. Quy trình, thủ tục về thi hành án dân sự được thực hiện từ khi cấp bản án, quyết định, tiếp nhận, thụ lý đơn yêu cầu thi hành án, ra quyết định thi hành án và tiến hành các tác nghiệp cụ thể cho đến khi chấm dứt việc thi hành án; quyền và nghĩa vụ của đương sự được thực hiện trên thực tế. Trong quy trình thi hành án dân sự, tùy theo từng vụ việc cụ thể mà Thủ trưởng, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự có thể thực hiện các thủ tục cần thiết khác nhau. Pháp luật về thi hành án dân sự đã có những quy định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án trong các trường hợp người phải thi hành án chống đối, cản trở việc thi hành án. Theo đó, trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện, có dấu hiệu trốn tránh việc thi hành án thì người được thi hành án có quyền yêu cầu hoặc Chấp hành viên tự mình áp dụng những biện pháp mang tính quyền lực nhà nước là các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự để buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Luật Thi hành án dân sự đã dành hẳn Mục I Chương IV, bao gồm các điều: từ Điều 66 đến Điều 69 để quy định về các biện pháp bảo đảm thi hành 6 án dân sự. Đây là một chế định hoàn toàn mới trong pháp luật về thi hành án dân sự ở nước ta. Theo Từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản thì biện pháp được hiểu là "cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể" [34, tr. 64], còn khái niệm bảo đảm được hiểu là "làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết hoặc là sự bảo đảm thực hiện được hoặc giữ được" [34, tr. 38] và thi hành là "làm cho thành có hiệu lực điều đã được chính thức quyết định" [34, tr. 936]. Về mặt pháp lý, khái niệm "thi hành án" là hoạt động làm cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành của Tòa án được thực hiện. Nếu như kết quả của hoạt động xét xử là "đưa ra các phán quyết (bản án, quyết định) trên cơ sở áp dụng các điều luật cụ thể để xem xét các tình tiết đã xảy ra, thì kết quả của thi hành án là làm cho các phán quyết đó được thực hiện trong thực tế" [25, tr. 59]. Khái niệm thi hành án dân sự là "hoạt động do cơ quan thi hành án dân sự tiến hành theo những thủ tục, trình tự nhất định nhằm đưa các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực thi hành của Tòa án ra để thi hành" [25, tr. 69]. Tuy nhiên, cần hiểu rộng ra là không chỉ bản án, quyết định của Tòa án mà còn thi hành các quyết định của Trọng tài thương mại, của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh… Như vậy, "biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự" có thể hiểu là các cách thức làm cho việc thi hành án dân sự được thực hiện một cách chắc chắn và đầy đủ nhằm đảm bảo tính hiệu lực của bản án, quyết định được tổ chức thi hành, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo phân tích của Giáo trình Luật Thi hành án dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội thì biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được bảo đảm thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, nhằm ngăn ngừa việc người phải thi hành án tẩu tán, định đoạt tài sản để trốn tránh việc thi hành án và đồng thời tạo áp lực, đôn đốc người phải thi hành án tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của họ. Trường hợp Chấp hành viên đã áp dụng biện pháp bảo đảm 7 thi hành án dân sự mà người phải thi hành án vẫn không tự nguyện thì sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự để buộc họ thi hành. Như vậy, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là biện pháp pháp lý mang tính quyền lực nhà nước, do đó, trong trường hợp cần thiết thì chỉ cần có căn cứ cho rằng tài sản mà người phải thi hành án hoặc người thứ ba đang quản lý, sử dụng thuộc sở hữu của người phải thi hành án là cơ quan thi hành án dân sự có thể áp dụng biện pháp này. Sau khi đã áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án và có căn cứ xác định tài sản đó thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của người phải thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phù hợp. Từ sự phân tích trên, Giáo trình đã đi đến định nghĩa về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự: Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là biện pháp pháp lý đặt tài sản của người phải thi hành án trong tình trạng bị hạn chế hoặc cấm sử dụng, định đoạt nhằm ngăn chặn việc người phải thi hành án tẩu tán, định đoạt tài sản trốn tránh việc thi hành án và đôn đốc họ tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình do Chấp hành viên áp dụng trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự [27, tr 187]. Có thể nói, định nghĩa nêu trên chưa hoàn toàn đầy đủ, cụ thể, chưa phản ánh hết được các nội dung, mục đích và ý nghĩa của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Bởivì, ngoài việc tác động đến tài sản của người phải thi hành án thì quyền tài sản của người phải thi hành án cũng được coi là đối tượng của các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự; khi được áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự không đặt tài sản của người phải thi hành án vào tình trạng bị cấm sử dụng, định đoạt mà chỉ là tạm thời bị cấm sử dụng, định đoạt đối với tài sản đó. Mặt khác, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được áp dụng một cách linh hoạt và trong nhiều trường hợp, được áp dụng sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế như: sau khi Chấp hành viên đã kê biên 8 tài sản của người phải thi hành án nhưng tài sản bị kê biên lại thuộc diện khó xử lý hoặc không thể xử lý được do không rõ nguồn gốc, do đang bị giải tỏa, di dời, do đang được sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ khác một cách hợp pháp, số tiền thu được từ việc xử lý tài sản không đủ cho chi phí cưỡng chế và thực hiện nghĩa vụ hoặc tài sản đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên đang có tranh chấp với người thứ ba,… Vì vậy, nếu Chấp hành viên phát hiện được các tài sản khác của người phải thi hành án thì có thể áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đối với tài sản này để thay thế cho tài sản đã bị kê biên. Do đó, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự cần được định nghĩa như sau: Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là biện pháp pháp lý được Chấp hành viên áp dụng theo một trình tự, thủ tục luật định trong quá trình tổ chức thực hiện việc thi hành án, đặt tài sản của người phải thi hành án trong tình trạng bị hạn chế hoặc tạm thời bị cấm sử dụng, định đoạt, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng nhằm bảo toàn điều kiện thi hành án, ngăn chặn người phải thi hành án thực hiện việc tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng về tài sản trốn tránh việc thi hành án, làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án. 1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được xem như là bước đệm, cầu nối trung gian giữa giai đoạn người phải thi hành án tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình và giai đoạn Chấp hành viên tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự; trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình thì trên cơ sở biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đã áp dụng, Chấp hành viên sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự tương ứng để xử lý tài sản của người phải thi hành án. Qua nghiên cứu cho thấy biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có các đặc điểm cơ bản như sau: 9 - Đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo thi hành án dân sự là tài sản, tài khoản Phần lớn các nghĩa vụ được tổ chức thi hành trong lĩnh vực thi hành án dân sự là nghĩa vụ về tài sản. Do đó, để việc thi hành án được thuận lợi, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được Chấp hành viên áp dụng đối với đối tượng là các tài sản, tài khoản được cho là của người phải thi hành án. Tài sản của người phải thi hành án có thể đang do người phải thi hành án hoặc do người khác chiếm giữ. Trên cơ sở kết quả xác minh hoặc thông tin do người được thi hành án cung cấp, Chấp hành viên có thể ra quyết định phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài sản, giấy tờ hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản để đảm bảo việc thi hành án. - Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được áp dụng linh hoạt, tại nhiều thời điểm, nhiều địa điểm khác nhau trong quá trình thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại, trốn tránh việc thi hành án Với mục đích cần phải ngăn chặn ngay hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án của đương sự, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có thể được áp dụng ngay tại thời điểm ra quyết định thi hành án và trong thời hạn tự nguyện thi hành án, cũng có thể được áp dụng ngay tại thời điểm cưỡng chế thi hành án hoặc sau khi cưỡng chế nếu phát hiện thấy người phải thi hành án có tài sản khác đủ để thi hành nghĩa vụ hoặc có thể thay thế cho tài sản đã bị kê biên để thuận lợi hơn cho việc thi hành án. Đồng thời, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự cũng được áp dụng tại nhiều địa điểm khác nhau, tùy thuộc vào nơi có tài sản, tài khoản hoặc nơi phát hiện được tài sản, tài khoản của người phải thi hành án. Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự cũng có thể được Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp ủy thác thi hành nghĩa vụ liên đới. 10 - Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được thực hiện với trình tự, thủ tục linh hoạt, gọn nhẹ, ít tốn kém, có thời gian áp dụng ngắn, có tác dụng thúc đẩy nhanh việc thi hành án Việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được Chấp hành viên thực hiện xuất phát từ yêu cầu của người được thi hành án hoặc khi Chấp hành viên thấy cần thiết và chủ động áp dụng. Thời gian từ khi có căn cứ áp dụng đến khi ban hành quyết định áp dụng và thực hiện quyết định áp dụng diễn ra một cách nhanh chóng, linh hoạt. Do việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự mới chỉ nhằm để ngăn chặn hành vi tẩu tán, thay đổi hiện trạng, chuyển dịch hoặc hủy hoại tài sản của người phải thi hành án mà chưa cần phải huy động lực lượng để thực hiện việc cưỡng chế nên thời gian thực hiện nhanh gọn và hầu như không tốn kém về kinh phí thực hiện. - Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự khi được áp dụng chưa làm thay đổi, chuyển dịch về quyền sở hữu, sử dụng tài sản của chủ sở hữu, chủ sử dụng Khi ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Chấp hành viên chỉ có mục đích ngăn chặn người phải thi hành án thực hiện hành vi tẩu tán, thay đổi hiện trạng hoặc hủy hoại tài sản, nhằm bảo toàn tài sản đó, đảm bảo điều kiện thi hành án. Do đó, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự chưa làm mất đi quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của chủ sở hữu, chủ sử dụng mà mới chỉ làm hạn chế quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản đó của chủ sở hữu, chủ sử dụng tài sản. - Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Chấp hành viên không bắt buộc phải thực hiện việc xác minh và thông báo trước cho đương sự Khi thực hiện áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Chấp hành viên không bắt buộc thực hiện việc xác minh và thông báo trước cho đương sự biết để đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời, linh hoạt, nhằm ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, chuyển dịch và làm thay đổi hiện 11 trạng tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Tùy theo từng loại tài sản mà Chấp hành viên sẽ ban hành quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự tương ứng. - Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có thể được Chấp hành viên tự mình ra quyết định áp dụng hoặc theo yêu cầu của đương sự và người yêu cầu phải chịu trách nhiệm về việc áp dụng Pháp luật về thi hành án dân sự đã có quy định về hai chủ thể có sáng kiến áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là Chấp hành viên và đương sự (thường là người được thi hành án). Theo đó, trong quá trình tổ chức thực hiện việc thi hành án, Chấp hành viên có quyền tự mình áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự hoặc ra quyết định áp dụng theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự. Tuy nhiên, để yêu cầu được Chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự thì người yêu cầu phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường. Trường hợp Chấp hành viên tự mình áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự không đúng hoặc Chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự vượt quá, không đúng theo yêu cầu của đương sự mà gây ra thiệt hại thì Chấp hành viên có trách nhiệm phải bồi thường. - Việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được thể hiện thông qua việc ban hành quyết định của Chấp hành viên Để việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được chặt chẽ, đúng pháp luật, tránh trường hợp áp dụng một cách tùy tiện thì pháp Luật Thi hành án dân sự quy định chỉ Chấp hành viên mới có quyền được áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Ngoài Chấp hành viên thì các chủ thể khác trong Cơ quan thi hành án dân sự không có quyền ra quyết định áp dụng các 12 biện pháp này. Mặt khác, việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự chỉ có hiệu lực pháp lý khi được Chấp hành viên quyết định dưới hình thức văn bản quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Các hình thức văn bản khác thể hiện nội dung áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự (như công văn, thông báo hay biên bản) đều không có giá trị pháp lý để bắt buộc phải thực hiện. - Khiếu nại đối với quyết định áp dụng biện pháp bảo thi hành án dân sự được giải quyết một lần và có hiệu lực thi hành Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có tác dụng làm hạn chế quyền sở hữu, sử dụng tài sản mà không có tính chất làm thay đổi, chuyển dịch về quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản đó. Mặt khác, do thời hạn áp dụng biện pháp này là rất ngắn. Hết thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự tương ứng hoặc chấm dứt biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đã áp dụng. Vì vậy, trên thực tế nếu Chấp hành viên áp dụng không đúng hoặc không phù hợp với yêu cầu của người được thi hành án thì cũng có thể xử lý được trong khi biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đã được áp dụng chưa làm phát sinh thiệt hại. Do đó, pháp luật về thi hành án dân sự đã quy định khiếu nại đối với quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự chỉ được xem xét, giải quyết một lần và có hiệu lực thi hành. 1.1.3. Nội dung của áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự Về bản chất, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được ví như là biện pháp khẩn cấp tạm thời của hoạt động thi hành án dân sự. Theo đó, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự giữ vai trò hỗ trợ cho việc thi hành các bản án, quyết định nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả thi hành của các bản án, quyết định, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp 13 pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng loại nghĩa vụ cụ thể mà biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự tương ứng sẽ được Chấp hành viên áp dụng trong quá trình tổ chức thực hiện việc thi hành án. Xuất phát từ định hướng về mục tiêu, bản chất, đặc điểm của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, để đảm bảo hiệu quả của việc áp dụng biện pháp này, pháp luật về thi hành án dân sự phải quy định một cách đầy đủ tất cả các nội dung liên quan đến biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Các nội dung này bao gồm: Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được áp dụng, người có quyền yêu cầu, người có thẩm quyền áp dụng và trình tự, thủ tục áp dụng. Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được quy định bao gồm: Phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự và tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản. Biện pháp phong tỏa tài khoản được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án phải thi hành khoản nghĩa vụ trả tiền hoặc tài sản trị giá được bằng tiền và các thông tin về điều kiện thi hành án cho thấy người đó đang có tiền trong tài khoản tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng, tài chính khác. Việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản do Chấp hành viên tự mình thực hiện hoặc theo yêu cầu của người được thi hành án, nhằm ngăn chặn người phải thi hành án thực hiện việc rút toàn bộ tiền hay một khoản tiền tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành án. Theo đó, mọi giao dịch đầu ra tài khoản của chủ tài khoản sẽ không thực hiện được hoặc bị hạn chế thực hiện. Việc áp dụng biện pháp này nhằm ngăn chặn việc người phải thi hành án rút hết tiền trong tài khoản nhằm tẩu tán tiền, trốn tránh việc thi hành án. Tuy nhiên, cần hiểu đúng về biện pháp này là không ngăn chặn đối với các dòng tiền chuyển vào tài khoản mà chỉ ngăn chặn đối với giao dịch đầu ra tương ứng với nghĩa vụ thi hành án của đương sự chứ không phải là ngăn chặn, cấm giao dịch đối với toàn bộ tiền trong tài khoản. Việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản 14 chính là tiền đề, là cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án nếu người đó không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình. Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự được Chấp hành viên áp dụng trong việc thi hành nghĩa vụ trả vật và cũng có thể được áp dụng nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Việc áp dụng biện pháp này nhằm tạm giữ các tài sản, giấy tờ của đương sự để ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại đối với các tài sản, giấy tờ này. Đây là biện pháp mang tính cấp bách và linh hoạt, nhằm tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho tác nghiệp nghiệp vụ khi phát hiện đương sự có tài sản, giấy tờ để thi hành án và áp dụng trong bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tổ chức thi hành án. Việc áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự là tiền đề, là cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trả giấy tờ, kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án để đảm bảo việc thi hành án. Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản được Chấp hành viên áp dụng đối với các động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản của người phải thi hành án nhằm ngăn chặn đương sự có hành vi hoặc có thể thực hiện hành vi đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng về tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Sau khi có quyết định áp dụng biện pháp này, mọi việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng đối với tài sản không được công nhận và không có giá trị pháp lý. Việc áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản là tiền đề, là cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự tương ứng như kê biên, xử lý tài sản; cưỡng chế trả vật, chuyển quyền sử dụng đất… Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự chính là cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong trường hợp người phải 15 thi hành án không tự nguyện thi hành. Vì vậy, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự phải được quyết định áp dụng nhanh chóng để kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án. Trong trường hợp, khi đã có đủ thông tin về điều kiện thi hành án của đương sự thì Chấp hành viên không bắt buộc phải thực hiện việc xác minh hay thông báo trước về việc sẽ áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự mà có thể ra ngay quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm. Chấp hành viên có thể quyết định theo yêu cầu của đương sự hoặc tự mình quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Xuất phát từ việc nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án mà thời gian áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự cũng được quy định rất ngắn, trong một thời hạn nhất định, Chấp hành viên phải quyết định áp dụng tiếp biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự đối với đương sự hoặc chấm dứt việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đã thực hiện. 1.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Với vai trò đảm bảo điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có ý nghĩa hết sức to lớn, đóng vai trò quan trọng đối với kết quả tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, cụ thể như sau: Thứ nhất, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đã góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Việc quy định biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đã giúp cho Chấp hành viên kịp thời thực hiện việc ngăn chặn người phải thi hành án thực hiện hành vi tẩu tán, hủy hoại hoặc thay đổi hiện trạng tài sản trốn tránh việc thi hành án để từ đó có thể bảo toàn được điều kiện thi hành án, đảm bảo được 16 quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, bảo đảm các bản án, quyết định đã có hiệu lực được thi hành trên thực tế. Việc ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự chính là thực hiện bước đệm, tạo tiền đề hiệu quả cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án trong trường hợp họ không tự nguyện thi hành án. Luật Thi hành án dân sự quy định biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đã tạo điều kiện cho Chấp hành viên thực hiện hạn chế quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản của người phải thi hành án ngay khi có thông tin về điều kiện thi hành án của họ đã khắc phục được hạn chế trước đây của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 là muốn hạn chế quyền sở hữu, sử dụng tài sản của người phải thi hành án phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục về cưỡng chế thi hành án dân sự thì mới tác động được đến tài sản của họ. Vì vậy, trong nhiều trường hợp việc áp dụng đã chậm trễ, thiếu hiệu quả. Mặt khác, việc quy định biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự cũng góp phần giảm thiểu các tác động tiêu cực trong quá trình tổ chức thi hành án, giảm thiểu sự xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Vì việc áp dụng biện pháp bảo đảm trên thực tế chưa làm mất đi quyền sở hữu, sử dụng của chủ sở hữu, chủ sử dụng đối với tài sản mà chỉ làm hạn chế quyền sở hữu, sử dụng tài sản. Do đó, trong trường hợp áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản để đảm bảo việc thi hành án không đúng thì vẫn có thể sửa chữa, khắc phục để bảo đảm quyền lợi của đương sự và người liên quan. Chẳng hạn, khi có căn cứ xác định tài sản bị áp dụng biện pháp bảo đảm không phải của người phải thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định chấm dứt việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự để trả lại tài sản cho chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp. 17 Thứ hai, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đã góp phần đẩy nhanh quá trình thi hành án, làm giảm thiểu các chi phí không đáng có. Sau khi ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án thì chỉ trong một thời hạn rất ngắn, Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự để xử lý tài sản đó để thi hành án. Vì vậy, sau khi bị Chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự thì người phải thi hành án sẽ phải cân nhắc, lường trước về các hậu quả pháp lý sẽ xảy ra đối với họ nếu không tự nguyện thi hành án. Đó là việc Chấp hành viên sẽ ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự tài sản sẽ bị xử lý để thi hành án, và khi đó người phải thi hành án còn phải chịu thiệt hại về kinh tế do phải chịu các chi phí cưỡng chế thi hành án và các chi phí khác có liên quan; đồng thời, người phải thi hành án còn mất uy tín, danh dự đối với cộng đồng dân cư nơi người đó sinh sống. Với những hậu quả tiêu cực có thể xảy ra, người phải thi hành án có thể sẽ lựa chọn phương án tự nguyện thi hành án để có thể bảo toàn tài sản đã bị áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, giảm thiểu thiệt hại về kinh tế phát sinh và bảo toàn được uy tín, danh dự đối với cộng đồng. Chính sự lựa chọn này của người phải thi hành án sẽ góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tổ chức thi hành án dân sự, giảm thiểu chi phí xã hội phát sinh. Trong trường hợp mặc dù đã bị Chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự nhưng người phải thi hành án vẫn không tự nguyện thi hành án hoặc không có phương án, thỏa thuận khác thì đây cũng chính là cơ sở, tiền đề để Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự để bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án; các tài sản của người phải thi hành án đã bị đặt trong tình trạng bị hạn chế quyền sử dụng, định đoạt hoặc tạm thời bị cấm định đoạt theo biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự trước đây sẽ được xử lý để thi hành án. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan