Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng pháp luật hình sự (trên cơ sở số liệu, thực ...

Tài liệu Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng pháp luật hình sự (trên cơ sở số liệu, thực tiễn địa bàn thành phố đà nẵng)

.PDF
78
611
74

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN QUANG HUY BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU, THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN QUANG HUY BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU, THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG) Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Quốc Toản Hà Nội - 2015 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ của rất nhiều cá nhân và tập thể. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trịnh Quốc Toản người đã tận tâm hướng dẫn tôi thực hiện quá trình nghiên cứu luận văn của mình. Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các quý thầy cô giáo, người đã đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những năm học vừa qua. Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Cục Điều tra - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, … đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập và viết luận văn này. Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. Đà Nẵng, tháng 5 năm 2015 Học viên Đoàn Quang Huy 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đoàn Quang Huy 4 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 7 CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ................................ 12 1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước và sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế ......................................................................... 12 1.1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước .................................. 12 1.1.2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế ..................................... 13 1.1.3. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý về kinh tế .................................................................................................................. 17 1.1.4. Đối tượng, nội dung và công cụ quản lý nhà nước về kinh tế.............. 20 1.1.5. Các công cụ quản lý Nhà nước về kinh tế ........................................... 22 1.2. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế Nhà nước bằng chế tài hình sự là đòi hỏi khách quan ............................................................................................. 28 1.3. Các dấu hiệu pháp lý chung và đường lối xử lý đối với các hành vi xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế ....................................... 29 1.3.1. Khái niệm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ........................ 30 1.3.2. Các dấu hiệu pháp lý của nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế . 30 CHƯƠNG II :CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC HÀNH VI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2009 ĐẾN NĂM 2014 ....................... 33 2.1. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng các pháp luật hình sự từ sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 ..................................................................................................... 33 5 2.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước năm 1985 .......................................... 33 2.1.2. Thời kỳ từ năm 1985 đến năm 1999 ................................................... 38 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về các hành vi xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến năm 2014 .......................................................................... 40 2.2.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng........ 41 2.2.2. Tình hình xử lý các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến 2014 ...................................... 42 2.3. Những tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế và nguyên nhân của nó .......... 53 2.3.1. Tồn tại và hạn chế .............................................................................. 53 2.3.2. Nguyên nhân ...................................................................................... 57 CHƯƠNG III: NHU CẦU, QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CHẾ TÀI HÌNH SỰ ĐỂ BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ................ 59 3.1. Nhu cầu và quan điểm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chế tài hình sự để bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế ............................. 59 3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chế tài hình sự để bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế. .................................................. 59 3.1.2. Quan điểm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chế tài hình sự để bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế............................................... 61 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về các hành vi xâm phạm trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế ................................. 63 3.3. Một số giải pháp khác tăng cường hiệu quả áp dụng chế tài hình sự để bảo vệ trật tự quản lý nhà nước về kinh tế: ................................................... 70 KẾT LUẬN.................................................................................................. 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 76 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trước sự hội nhập, phát triển sâu rộng của nền kinh tế đất nước ta với nền kinh tế thế giới, đã mở ra cho đất nước những thời cơ, thuận lợi để phát triển và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nền kinh tế đã có sự chuyển đổi mạnh mẽ với các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển đa dạng, phong phú. Bên cạnh đó, sự quản lý của Nhà nước về kinh tế ở tầm vĩ mô nhằm ổn định nền kinh tế, tạo môi trường lành mạnh cho các quan hệ kinh tế phát triển cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức do mặt trái của nền kinh tế thị trường đem lại. Tính chất vi phạm, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế diễn biến phức tạp, với phương thức, thủ đoạn, tính chất ngày càng tinh vi, sử dụng công nghệ cao, hình thành tổ chức xuyên quốc gia…vv, đã và đang đe dọa gây mất ổn định nền kinh tế đất nước. Pháp luật hình sự đóng vai trò hết sức quan trọng, là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước ta để đấu tranh, phòng ngừa tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay các quy định của pháp luật hình sự còn chưa được hoàn thiện, thực tiễn áp dụng thì hiệu lực, hiệu quả và tính đồng bộ chưa cao, chưa đáp ứng kịp thời với đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế và yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Thành phố Đà Nẵng với vị trí vùng kinh tế trung tâm, đầu mối giao thông trọng yếu của khu vực Miền trung và Tây nguyên đã và đang có những sự đổi thay, phát triển mạnh mẽ về kinh tế cùng với nền kinh tế đất nước. Tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn cũng diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng. Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn, đây là cơ sở quan trọng để nghiên 7 cứu, hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự để bảo vệ trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế. Dự báo tình hình tội phạm xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế còn diễn biến phức tạp trong thời gian tới, đặt ra vấn đề cấp thiết cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự để tạo hành lang pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng pháp luật hình sự (trên cơ sở số liệu, thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng).” làm luận văn Thạc sĩ. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Vấn đề bảo vệ trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế bằng pháp luật hình sự, theo tìm hiểu của cá nhân đã được một số tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng chủ yếu là dưới góc độ tội phạm học hoặc Luật Hình sự, chưa có công trình hoặc Luận văn, Luận án nào nghiên cứu dưới góc độ của chuyên ngành Luật Kinh tế, đây cũng chính là những khó khăn và thuận lợi của tác giả khi chọn đề tài này làm Luận văn Thạc sĩ. Về tình hình nghiên cứu liên quan đến Luận văn được sắp xếp như sau: - Hệ thống sách, Giáo trình quản lý của Nhà nước về kinh tế; Giáo trình, Bình luận khoa học Luật Hình sự như: “Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế” của trường Đại học Kinh tế quốc dân do GS.TS Đỗ Hoàng Toàn và PGS.TS Mai Văn Bưu chủ biên; Sách “Lịch sử Luật Hình sự Việt Nam” do Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2002; “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam” của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Sách “Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999” của Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp; “Bình luận khoa học BLHS, phần các tội phạm”, tập VI, các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, của tác giả Đinh Văn Quế. Đề cương giáo trình “Đặc điểm tội phạm học của tội phạm về trật tự quản lý kinh 8 tế, chức vụ và giải pháp phòng chống” của TS. Phạm Quang Phúc (Đào tạo cao học - Chuyên ngành Tội phạm học và Điều tra tội phạm) năm 2005. - Luận án Tiến sĩ “Tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hương; Luận án Tiến sĩ của tác giả Bùi Minh Thanh: “Vi phạm pháp luật và đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay” (năm 2003); Luận án Tiến sĩ của tác giả Mai Thế Bày: “Đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” (năm 2006). Những công trình này nghiên cứu về chính sách hình sự hoặc nghiên cứu các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế chủ yếu dưới góc độ Tội phạm học và Luật Hình sự. - Các công trình nghiên cứu thể hiện qua những bài viết trên các Tạp chí chuyên ngành, Hội thảo, các số chuyên đề như: Tài liệu hội thảo “Một số kinh nghiệm rút ra qua công tác giải quyết án kinh tế - chức vụ ở cấp phúc thẩm” Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (8/2012), “Một số vấn đề về hình sự hóa, phi hình sự hóa các hành vi phạm pháp trên lĩnh vực kinh tế trong chính sách hình sự hiện nay” của GS.TS Hồ Trọng Ngũ - UVTT Uỷ ban Quốc phòng An ninh của Quốc hội; “Hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trước yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Ngọc Trí - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Tạp chí Dân chủ và Pháp luật “Dự án Bộ luật Hình sự (sửa đổi) nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”… 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu nhận thức chung về quản lý của Nhà nước về kinh tế và chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế qua các thời kỳ lịch sử; thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 9 Từ đó, Luận văn làm rõ những tồn tại, hạn chế và đề xuất, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự bảo vệ trật tự quản lý của Nhà nước ta về kinh tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế, chính sách hình sự về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế qua các thời kỳ lịch sử lập pháp và thực trạng đấu tranh, xử lý tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong 05 năm trở lại đây (từ năm 2009 đến 2014). 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong Chính sách hình sự về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng; sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so sánh, … 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng pháp luật hình sự. Chương 2: Các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến năm 2014. 10 Chương 3: Nhu cầu, quan điểm và các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự để bảo vệ trật tự quản lý nhà nước về kinh tế. 11 CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước và sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế 1.1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước Trước hết có thể hiểu trật tự là tình trạng ổn định, có thứ bậc trên dưới, trước sau... [19, tr.16]. Quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân (hoặc vắn tắt là quản lý Nhà nước về kinh tế) là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra, trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. Quản lý kinh tế là nội dung cốt lõi của quản lý xã hội nói chung và nó phải gắn chặt với các hoạt động quản lý khác của xã hội. Quản lý nhà nước về kinh tế được thể hiện thông qua các chức năng kinh tế và quản lý kinh tế của Nhà nước [25, tr.21]. Theo nghĩa rộng, quản lý Nhà nước về kinh tế được thực hiện qua ba cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp của Nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước về kinh tế được hiểu như hoạt động quản lý kinh tế có tính chất nhà nước nhằm điều hành nền kinh tế, được điều hành bởi cơ quan hành hành pháp là Chính phủ [18, tr.51]. Từ các khái niệm nêu trên, thấy rằng Nhà nước quản lý về kinh tế để đảm bảo nền kinh tế, các quan hệ kinh tế phát triển ổn định theo đúng định hướng và theo trật tự do Nhà nước đặt ra. Bản chất của quản lý Nhà nước về kinh tế là đặc trưng thể chế chính trị của đất nước, sự đặc trưng này thể hiện rõ tính giai cấp của Nhà nước. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đây là mối quan hệ có tính biện chứng V.I. Lê-nin đã rút ra nguyên lý về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị: "Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. 12 Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế" [31, tr 311 – 312]. Từ đó cho thấy, đường lối, chính sách phải phản ánh được nhu cầu và quy luật kinh tế; chỉ trong điều kiện đó, chính trị mới lãnh đạo, quản lý kinh tế có hiệu quả, mới giữ được vai trò chính trị. “Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường” [10]. Như vậy, Nhà nước chỉ quản lý về kinh tế trên tầm vĩ mô, giải quyết những quan hệ vĩ mô liên quan đến toàn bộ nền kinh tế, mà không can thiệp vào công việc nội bộ của doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh. Tóm lại, sự quản lý của Nhà nước về kinh tế đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của một quốc gia. Trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định thì Nhà nước luôn có sự điều chỉnh, thay đổi về chính sách, đường lối trong hoạt động quản lý về kinh tế nhằm đảm bảo phù hợp với khả năng, điều kiện của đất nước và xu thế chung của thế giới. Bên cạnh đó để đảm đảm bảo sự ổn định, có trật tự của nền kinh tế thì Nhà nước cũng đặt ra những chế tài nghiêm khắc để trừng trị, răn đe những hành vi xâm phạm trật tự quản lý về kinh tế. Tùy theo mức độ của hành vi xâm phạm thì sẽ có những chế tài khác nhau. Đối với những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có mức độ nguy hiểm cao thì pháp luật hình sự sẽ điều chỉnh và sẽ bị cho là tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. 1.1.2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế Nhà nước cũng như pháp luật là những hiện tượng có tính lịch sử. Nó chỉ ra đời và tồn tại trong những giai đoạn lịch sử xã hội nhất định. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và năng xuất lao động xã hội làm xuất hiện chế 13 độ tư hữu và xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng không thể điều hòa được, thì Nhà nước ra đời. Nhà nước đặt các quy tắc xử sự mới thể hiện ý chí của giai cấp thống trị thay cho tập tục lạc hậu và thừa nhận các quy tắc tập quán còn phù hợp để nâng lên thành luật để điều hành cá c quan hệ xã hội [25, tr.10]. Nhà nước quản lý kinh tế là một xu hướng tất yếu của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, vì đất nước muốn phát triển, muốn đi lên tất yếu là phải đi từ kinh tế, phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu để phát triển đất nước, để nền kinh tế đi đúng hướng và phát triển thì phải có sự quản lý của Nhà nước. Sự cần thiết Nhà nước phải quản lý về kinh tế thể hiện ở những lý do sau: Thứ nhất, Kinh tế là lĩnh vực hoạt động xã hội chứa đựng mâu thuẫn giai cấp trực tiếp và sâu sắc nhất: V.I.Lê-nin khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì Nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của Nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được” [29, tr 9]. Giai cấp được phân hoá và hình thành trong lĩnh vực kinh tế, trong lĩnh vực này thì mâu thuẫn luôn gay gắt vì đây là mối quan hệ có tính lợi ích và bóc lột, khi mâu thuẫn này đến đỉnh điểm thì sẽ xảy ra sự đấu tranh bằng bạo lực, gây mất ổn định kinh tế, xã hội và đất nước. Nhà nước về bản chất “chỉ là một tổ chức thống trị của một giai cấp” [30, tr 303 ] và “bất cứ Nhà nước nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này trấn áp giai cấp khác” [31, tr 122]. Nhưng Nhà nước ta, với bản chất là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, vì vậy bảo vệ tính giai cấp của Nhà nước chính là bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân lao động, xóa bỏ sự áp bức, bóc 14 lột, Nhà nước phải can thiệp vào lĩnh vực kinh tế để giải quyết và điều hòa các mâu thuẫn lợi ích về kinh tế giữa chủ - thợ, qua đó Nhà nước góp phần ổn định nền kinh tế đất nước. Thứ hai, Nhà nước quản lý về kinh tế là để khắc phục nhược điểm, kiểm soát các quy luật và mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường: Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ. Ba quy luật trên cơ bản điều chỉnh nền kinh tế thị trường – dẫn đến lý thuyết kinh tế thị trường tự do. Thực tế chứng minh, kinh tế thị trường luôn có những mặt trái tồn tại là: Luôn luôn có nguy cơ mất cân đối cung - cầu tạo ra các cuộc khủng hoảng thừa hoặc khủng hoảng thiếu; vì mục tiêu lợi nhuận và cạnh tranh, doanh nghiệp ít quan tâm đến lợi ích chung của xã hội, lợi ích của cộng đồng (gây ô nhiễm, phá hoại môi trường, trốn thuế, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng…); bản chất kinh tế thị trường là làm giàu cho một bộ thiểu số trong xã hội chứ không phải đa số trong xã hội vì vậy luôn tạo ra sự phân hóa về giàu – nghèo trong xã hội. Nhận thức được vấn đề trên, từ khi đất nước mở cửa và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong các văn kiện Đại hội đảng, Nhà nước ta đã nhấn mạnh vai trò và sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế thị trường là "Bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" [32, tr 78]. Thứ ba, Nhà nước quản lý về kinh tế nhằm hỗ trợ, đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển đồng đều: Nhà nước ta đảm bảo phát triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, trong đó: Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng 15 mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch. Hoàn thiện cơ chế quản lý và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thứ tư, Nhà nước quản lý về kinh tế vì trong nền kinh tế quốc dân có một phần kinh tế Nhà nước: Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã nhấn mạnh “Phải tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô” [10]. Nhà nước ta khẳng định vai trò quan trọng, chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, Nhà nước xây dựng trò của kinh tế Nhà nước để có phương tiện và điều kiện để can thiệp một cách mạnh mẽ vào nền kinh tế. Thông qua kinh tế Nhà nước, Nhà nước ta can thiệp và điều tiết nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế, các quan hệ xã hội phát triển theo đúng định hướng, trật tự Nhà nước đã đề ra. Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đang thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Song song với những ưu điểm vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế hay còn gọi là mặt trái của cơ chế thị trường tác động tiêu cực đến bản chất xã hội chủ nghĩa như xu hướng phân hóa giàu. Vì vậy, quản lý nhà nước về kinh tế là một yêu cầu cần thiết khách quan, nhằm điều tiết các thành phần kinh tế và 16 thị trường hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực xã hội [27]. 1.1.3. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý về kinh tế 1.1.3.1. Mục tiêu của Nhà nước về quản lý kinh tế Mục tiêu chung mà Đảng và Nhà nước ta xác định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, giai đoạn 2010 – 2012 là “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”. Tóm tại, mục tiêu chung, cuối cùng cần phấn đấu đạt được chính là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh….” [14] Qua đó thấy rằng quản lý Nhà nước về mục tiêu cũng gắn liền với mục tiêu chung của kinh tế - xã hội đất nước theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Trong lĩnh vực quản lý kinh tế, Nhà nước đặt mục tiêu quan trọng nhất, hàng đầu là mục tiêu “Đảm bảo ổn định nền kinh tế vĩ mô”, bên cạnh các mục tiêu tăng trưởng và mục tiêu công bằng xã hội. Ba mục tiêu này là mục tiêu cơ bản để đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất nước trong nền kinh tế thế giới. 1.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong của quản lý Nhà nước về kinh tế Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng và giai đoạn tác động có chủ đích của Nhà nước tới nền kinh tế quốc dân, là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà Nhà nước phải tiến hành trong 17 quá trình quản lý nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường, vận hành bằng cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước thì chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế được xác định là chức năng quản lý kinh tế vĩ mô với các nội dung cơ bản như sau: - Chức năng định hướng, hướng dẫn phát triển kinh tế: Trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, căn cứ vào các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà Đảng đã đề ra, Nhà nước định hướng phát triển kinh tế. Thực hiện chức năng, định hướng của Nhà nước là: Xác định có căn cứ khoa học những mục tiêu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế quốc gia, phát triển các ngành và vùng lãnh thổ. Lập các quy hoạch, kế hoạch đồng thời lựa chọn các biện pháp chủ yếu để đạt được các mục tiêu đó trong thời gian nhất định. Nhà nước càng thực hiẹn tốt chức năng định hướng càng tránh được rủi ro cho các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong thời kỳ mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường, Nhà nước càng phải tăng cường định hướng, hướng phát triển kinh tế, vì: Các doanh nhân tự chủ kinh doanh nhưng chưa thể nắm được tình hình, xu hướng vận động của thị trường, dễ gây thua lỗ, thất bại và đổ vỡ, gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Nhà nước phải định hướng nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo và mục tiêu kinh tế - xã hội đã được Đảng và Nhà nước định ra. Nhà nước định hướng phát triển kinh tế và hướng dẫn các nhà kinh doanh, các tổ chức kinh tế hoạt động đúng định hướng nhằm thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch mà Nhà nước đã vạch ra. - Chức năng tổ chức thực hiện nền kinh tế Nhà nước có nhiệm vụ sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, trong đó quan trọng và cấp thiết hơn cả là sắp xếp, củng cố lại các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức các vùng kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm tạo nên cơ cấu kinh tế hợp lý. Nhà nước còn có trách nhiệm tổ chức lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế từ Trung ương 18 đến cơ sở, đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, đào tạo và đào tạo lại, sắp xếp các cán bộ công chức quản lý Nhà nước và quản lý doanh nghiệp, thiết lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức quốc tế. - Chức năng Nhà nước điều chỉnh, điều tiết quan hệ thị trường Trong khi điều hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước vừa phải tuân thủ và vận dụng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường định hướng, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường, vừa điều tiết, chi phối thị trường hoạt động theo định hướng của Nhà nước, đảm bảo cho kinh tế phát triển ổn định, công bằng và có hiệu quả. Để điều tiết, Nhà nước sử dụng hàng loạt biện pháp bao gồm các chính sách, các đòn bẩy kinh tế, các công cụ tài chính, thuế, tín dụng. - Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật, sai phạm chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã hội. Để bảo đảm tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản công, khắc phục khuyết tật của kinh tế thị trường và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động sản xuất kinh doanh Nhà nước phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát. Các chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trên chỉ có thể thực hiện tốt khi có những giải pháp đồng bộ, không thể thực hiện rời rạc từng chức năng. Nói đến chức năng tạo lập môi trường thuận lợi mà không chú ý đúng mức đến chức năng tổ chức, sắp xếp lại cơ quan, bố trí hợp lý cán bộ và cải cách hành chính thì không thể có môi trường thuận lợi. Cũng tương tự như vậy, nếu Nhà nước không làm tốt chức năng điều tiết, kiểm tra thì không thể tạo lập được môi trường lành mạnh và bình đẳng. Đại hội X của Đảng tiếp tục xác định Nhà nước tập trung làm tốt các 19 chức năng: Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế. Thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ "chế độ chủ quản"; tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp; phát triển mạnh các dịch vụ công cộng (giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục thể thao). Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính và tiền tệ, bảo đảm tính ổn định và sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia. 1.1.4. Đối tượng, nội dung và công cụ quản lý nhà nước về kinh tế 1.1.4.1. Đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế * Dựa vào cấu trúc của nền kinh tế quốc dân gồm: - Tài nguyên quốc gia: Là một đối tượng quản lý quan trọng nhưng tuỳ vào mỗi quốc gia thì có sự quản lý khác nhau. Tài nguyên không chỉ dành cho người đương thời mà còn cho đời sau nên cần coi quản lý tài nguyên như 1 nội dung về kinh tế. - Dự trữ quốc gia gồm: Vật tư, nội, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý, đó là 1 phần của tổng sản phẩm quốc dân được dùng để bảo hiểm đất nước trước các rủi ro, do đó nhà nước cũng cần quản lý đối tượng này. - Hệ thống kết cấu hạ tầng gồm: Các công trình giao thông, hệ thống thoát nước, phương tiện truyền dẫn ... do ngân sách quốc gia đầu tư và xây dựng. Hệ thống này phục vụ nhiều cho kinh tế nên cần quản lý. - Các doanh nghiệp: Quản lý Nhà nước về kinh tế chủ yếu là quản lý doanh nghiệp, các tế bào của nền kinh tế, là nhân vật chính nên nó là 1 đối tượng quản lý quan trọng. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan