Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự...

Tài liệu Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự

.PDF
112
353
152

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ PHƯƠNG GIANG BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2007 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ PHƯƠNG GIANG BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quế Anh HÀ NỘI - 2007 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ 1.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 1.2. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 1.2.1. Biện pháp hành chính 1.2.2. Biện pháp hình sự 1.2.3. Biện pháp dân sự 1.2.4. Biện pháp kiểm soát biên giới 1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự 1.4. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự theo các điều ước quốc tế và pháp luật một số quốc gia 1.4.1. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự theo các điều ước quốc tế 1.4.2. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự theo pháp luật một số quốc gia 1.5. Khái quát sự hình thành và phát triển của những quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự 2 Chương 1 Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ 2.1. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.1.1. Hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.1.2. Hành vi không bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.2. 8 8 8 13 14 15 16 18 19 21 22 23 30 35 42 42 42 46 48 Quyền tự bảo vệ 4 2.3. Thẩm quyền và trình tự xử lý hành vi xâm phạm bằng biện pháp dân sự 2.4. 50 Các biện pháp dân sự được áp dụng để xử lý hành xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.5. Quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự 2.6. Xác định thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền sở 52 54 58 hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.7. Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời 2.7.1. Quyền yêu cầu 2.7.2. Điều kiện áp dụng 63 64 65 2.7.3. Nghĩa vụ của bên yêu cầu 2.7.4. Thẩm quyền áp dụng 65 66 2.7.5. Thủ tục áp dụng 66 2.7.6. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng 67 2.7.7. Hủy bỏ việc áp dụng 68 Chương 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 3.1. Thực trạng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 70 70 3.1.1. Thực trạng về việc xác lập quyền sở hữu đối với nhãn hiệu thông qua việc đăng ký bảo hộ 70 3.1.2. Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 75 3.1.3. Thực tiễn xử lý vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự 79 3.2. 3.3. Những tồn tại chủ yếu trong hoạt động bảo vệ quyền sở hữu công 86 nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật bảo vệ quyền sở hữu 92 công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự 101 KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 5 103 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong khi thế giới đang chuyển sang nền kinh tế tri thức, sở hữu trí tuệ ngày càng có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của bất kỳ một quốc gia nào. Nhận thức được tầm quan trọng này, Việt Nam đã và đang tích cực xây dựng một hệ thống sở hữu trí tuệ nhằm góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như nhằm tiếp tục chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Việc bảo hộ tốt quyền sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nói riêng có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Nó tạo ra một hành lang pháp lý an toàn bảo đảm cho các cá nhân, tổ chức tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa trên thị trường. Mặt khác, nó còn thúc đẩy những hoạt động cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh tế muốn nâng cao uy tín và chất lượng của tổ chức mình cần có một chiến lược xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu một cách vững chắc, chống lại những hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể kinh tế khác. Ngoài ra, việc bảo hộ này còn tạo điều kiện khuyến khích đầu tư phát triển, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, góp phần thúc đẩy nền kinh tế của nước ta ngày càng phát triển. Không những thế việc bảo hộ tốt nhãn hiệu còn góp phần đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, đặc biệt khi Việt Nam mới gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cùng một loạt các sự kiện kinh tế đánh dấu mốc cho bước ngoặt mở cửa hội nhập vừa diễn ra. Nhận thức được tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ nói chung trong đó có nhãn hiệu, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định sự cần thiết phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ. Thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, Nhà nước ta đã xác định: "Cần tạo môi trường thuận lợi cho các tổ 6 chức khoa học, doanh nghiệp và cá nhân hoạt động theo luật định. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh bảo hộ sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa…" [1]. Điều này cho thấy sự quan tâm chú trọng của Đảng và Nhà nước, là động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho việc xây dựng hành lang pháp lý bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nói riêng. Xét đến cùng, quyền sở hữu trí tuệ là quyền đối với một loại tài sản (dù là tài sản đặc biệt - không hữu hình) và vì thế nó được đối xử như các quyền của các loại tài sản khác. Do vậy, để bảo vệ các đối tượng quyền của quyền sở hữu trí tuệ có nhiều biện pháp khác nhau, nhưng việc bảo vệ được thực hiện bằng biện pháp dân sự có vai trò quan trọng. Nhận thức được vai trò quan trọng của việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự trên, tác giả chọn đề tài "Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự" làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu vấn đề Trước khi Bộ Luật Dân sự ra đời năm 1995, Nhãn hiệu nói riêng và sở hữu trí tuệ nói chung chưa thật sự được biết đến ở Việt Nam. Vì vậy, hầu như rất ít các công trình nghiên cứu, sách, báo, tạp chí về vấn đề này được công bố. Vài năm trở lại đây, mặc dù sở hữu trí tuệ trong đó có nhãn hiệu vẫn là vấn đề mới song cũng đã được đề cập tới ngày một nhiều hơn trong các công trình nghiên cứu, các sách, báo, tạp chí... Có thể kể ra một số ví dụ: "Nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật dân sự" của tác giả Đinh Văn Thanh và Đinh Thị Hằng; "Nâng cao vai trò của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ" của tác giả Nguyễn Thị Quế Anh; "Các phương pháp xác định tài sản vô hình" của tác giả Đoàn Văn Trường; "Các yếu tố của quyền sở hữu trí tuệ" của tác giả Phùng Trung Tập; "Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ", Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Xuân Thảo; "bảo hộ quyền ở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam", Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Luật; 7 "Những vấn đề pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam", Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Mai Thanh; "Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự", Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Tình… Ngoài ra, còn một số bài báo và tạp chí chuyên ngành viết về vấn đề này như: "Bảo vệ nhãn hiệu hàng hóa - nhận thức và thách thức" của Hoài Nam, bản tin Sở hữu công nghiệp, số 20, tháng 3 năm 2003; "Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ - một chế định quan trọng trong Luật Sở hữu trí tuệ 2006" của tác giả Hương Lan, tạp chí Công nghệ, tháng 11 năm 2006; "Hậu WTO và vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ", Báo Vietnamnet... Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu trên chưa nghiên cứu sâu đến các biện pháp dân sự nhằm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Chính vì thế trong luận văn này, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu về việc bảo vệ nhãn hiệu bằng các biện pháp dân sự dưới góc độ quy định pháp luật và thực tiễn. 3. Mục đích của đề tài Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề tổng quan liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự, luận văn muốn làm rõ khái niệm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự, phân tích các quy định pháp luật về các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở Việt Nam. Thông qua đó, luận văn đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ nhãn hiệu bằng các biện pháp dân sự ở Việt Nam hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự ở Việt Nam giai đoạn hiện nay đặt trong tương quan của quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, đồng thời có sự liên hệ, phân tích, đối chiếu, so sánh với quy định tương tự trong pháp luật một số quốc gia cũng như trong các điều ước quốc tế đa phương và song 8 phương. Từ những phân tích về mặt pháp luật, luận văn cũng nêu ra thực trạng việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự ở nước ta với những mặt tích cực, những hạn chế nhất định. Thông qua việc phân tích các quy định pháp luật và thực tiễn thi hành, luận văn đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu nền tảng là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Từ đó, luận văn được xây dựng trên cơ sở kết hợp các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của khoa học pháp lý cũng như phương pháp thu thập thông tin, phân tích tài liệu, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh… Với việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu này, luận văn đã có được những thông tin và kết luận chính xác về các vấn đề nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần cung cấp những thông tin mang tính lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu thông qua các biện pháp dân sự ở Việt Nam. Về mặt lý luận: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của luận văn, tác giả muốn đề xuất những kiến nghị góp phần trong việc xây dựng các quy định pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, đặc biệt có ý nghĩa đối với công tác lập pháp khi đề ra những hạn chế hiện nay của các quy định về xác định thiệt hại cũng như cách tính mức bồi thường thiệt hại, đề ra phương án xác định thiệt hại và bồi thường thiệt hại phù hợp hơn với điều kiện hiện tại, nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền bị xâm phạm. Với những quan điểm cá nhân được đề cập trong luận văn đã bổ sung vào công tác nghiên cứu về sở hữu trí tuệ nói chung, về quyền sở hữu công 9 nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng, tạo ra sự đa dạng về các luận điểm nghiên cứu. Từ đó, có thể phân tích để tìm ra những luận điểm mang tính khoa học và lý luận cao có thể đưa vào áp dụng trong thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa cung cấp những luận điểm xác đáng và chi tiết về biện pháp dân sự bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có thể làm nguồn thông tin phục vụ cho công tác giảng dạy về lĩnh vực này. Về mặt thực tiễn: Theo thông lệ quốc tế cũng như hoạt động thực thi pháp luật nhiều quốc gia, trong đó có những quốc gia mạnh về sở hữu trí tuệ thì biện pháp dân sự được áp dụng phổ biến để bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, điều này còn phù hợp với bản chất của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là một quyền dân sự. Tuy nhiên tại Việt Nam, biện pháp này vẫn chưa phát huy được vai trò chủ đạo. Mặc dù pháp luật hiện hành đề cập đến bốn biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng trong đó biện pháp dân sự được quy định khá đầy đủ nhưng trên thực tế biện pháp dân sự để bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ít được chủ thể quyền sử dụng. Chính vì vậy, nghiên cứu của luận văn đã chỉ ra tính ưu việt khi biện pháp này được áp dụng trong thực tế và mang những ý nghĩa thực tiễn nhất định. Thứ nhất, ý nghĩa về mặt xã hội, phân tích của luận văn đã cung cấp cho người dân nói chung cũng như chủ thể quyền những hiểu biết sâu hơn về biện pháp dân sự và ưu điểm khi áp dụng việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của mình bằng biện pháp dân sự. Thứ hai, ý nghĩa đối với công tác thực thi pháp luật. Luận văn đã chỉ ra một số hạn chế của cơ quan thực thi bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự trong thực tiễn thi hành, từ đó đề ra kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác này. 10 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự Chương 2: Những quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự Chương 3: Thực trạng hoạt động bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự ở Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện pháp luật 11 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU VÀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU 1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ trên thế giới, quan hệ sở hữu ngày càng phát triển đến đỉnh cao dẫn đến sự ra đời của một quan hệ sở hữu đặc biệt đó là sở hữu trí tuệ. Sở hữu trí tuệ ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Những sản phẩm trí tuệ này có thể mua bán, chuyển giao quyền sử dụng, cho phép sử dụng, tặng cho, để lại thừa kế… tương tự như bất kỳ loại hình tài sản hữu hình nào khác. Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền đối với giống cây trồng và quyền sở hữu công nghiệp. Trong các quyền đã liệt kê, quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu của các cá nhân, tổ chức đối với các tài sản là đối tượng của sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, bí mật kinh doanh, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành đã tập hợp và đưa ra phạm vi quyền sở hữu công nghiệp khá rộng so với trước đây, thể hiện trong khái niệm tương đối khái quát về quyền sở hữu công nghiệp, được quy định tại Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005: "Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh". Trong các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được liệt kê thì nhãn hiệu là đối tượng gắn chặt nhất với 12 quá trình lưu thông hàng hóa. Bằng nhãn hiệu, nhà sản xuất có thể đánh dấu hàng hóa mà mình sản xuất khi đưa ra thị trường, có thể quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông tin quảng cáo hay trong các giấy tờ giao dịch, v.v… nhằm đẩy mạnh quá trình lưu thông hàng hóa, tăng doanh số bán hàng. Cũng thông qua nhãn hiệu, người tiêu dùng có thể dễ dàng lựa chọn hàng hóa phù hợp với nhu cầu, sở thích cũng như chất lượng mà mình mong muốn. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật mỗi nước cũng như trong các điều ước quốc tế có khác nhau vì bị chi phối bởi quan điểm về các dấu hiệu cấu thành nên nhãn hiệu. Nếu mở rộng các dấu hiệu cấu thành nên nhãn hiệu thì phạm vi quyền đối với nhãn hiệu được mở rộng và ngược lại. Hiện nay trên thế giới có nhiều khái niệm nhãn hiệu theo những góc độ khác nhau. Có thể kể đến các điều ước quốc tế đa phương và song phương điều chỉnh các lĩnh vực liên quan đến nhãn hiệu khá nhiều như: Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883 với các quy định về sở hữu công nghiệp nói chung trong đó có nhãn hiệu. Nội dung công ước Paris đề cập đến bốn vấn đề chủ yếu là nguyên tắc đối xử quốc gia; quyền ưu tiên; một số nguyên tắc chung đối với bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà các nước thành viên phải tuân thủ; các quy định hành chính phục vụ cho việc thi hành công ước. Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu năm 1891 và Nghị định thư liên quan đến Thỏa ước Madrid năm 1989 quy định chủ yếu về hoạt động của hệ thống đăng ký quốc tế bao gồm việc nộp đơn đăng ký quốc tế; hiệu lực của đăng ký quốc tế; việc từ chối bảo hộ; quy định về việc thay đổi, hủy bỏ, đình chỉ hiệu lực đăng ký quốc tế; các điều kiện tham gia Thỏa ước Madrid và Nghị định thư Madrid. Các điều ước quốc tế nêu trên chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về nhãn hiệu hay một khái niệm rõ ràng về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu mà thông qua các quy định về xác lập quyền sở hữu công nghiệp, 13 quy định về trình tự thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu cho thấy quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đã được ghi nhận. Hiệp ước Luật nhãn hiệu năm 1994 ra đời với mục đích đơn giản hóa và hài hòa hóa các quy định về thủ tục và yêu cầu hành chính của hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc gia và khu vực. Mặc dù Hiệp ước không đưa ra một khái niệm cụ thể về nhãn hiệu nhưng thông qua Điều 2 về quy định liệt kê các nhãn hiệu được áp dụng, Hiệp ước đã đưa ra các đặc tính bản chất của nhãn hiệu: "được cấu tạo bởi các ký hiệu nhìn thấy được". Cũng tại Điều 2, khoản 1 điểm b của Hiệp ước: "Hiệp ước này không áp dụng đối với nhãn hiệu là ảnh chụp ba chiều và nhãn hiệu vô hình, cụ thể là nhãn hiệu âm thanh và nhãn hiệu mùi". Cách hiểu về nhãn hiệu theo Hiệp ước Luật nhãn hiệu chỉ giới hạn trong "các ký hiệu nhìn thấy được" mà không bao gồm nhãn hiệu là hình ảnh ba chiều, nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi. Tuy nhiên, Hiệp ước nhắc đến nhãn hiệu ba chiều sẽ được thừa nhận "với điều kiện là chỉ có những bên ký kết chấp nhận việc đăng ký nhãn hiệu ba chiều, mới bắt buộc phải áp dụng Hiệp ước này đối với các nhãn hiệu đó" Cách hiểu như vậy đã thu hẹp phạm vi khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được thừa nhận. Đến Hiệp định TRIPS năm 1995 với những tiến bộ mang ý nghĩa to lớn trong đó có mang lại cho sở hữu trí tuệ những đóng góp nhất định, Hiệp định đã đưa ra khái niệm nhãn hiệu tại khoản 1 Điều 15: Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa. Các dấu hiệu đó đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu hàng hóa. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng, các thành viên có thể quy định rằng khả năng đăng ký thuộc khả năng phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là các dấu hiệu nhìn thấy được [29]. 14 Khái niệm nhãn hiệu của TRIPS được mở rộng phạm vi cũng như chi tiết hơn rất nhiều so với cách hiểu trước kia thông qua việc liệt kê các dấu hiệu cấu thành nên nhãn hiệu, có thể nhận thấy khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu cũng được mở rộng hơn so với Hiệp ước Luật Nhãn hiệu. Dưới một góc độ nhất định, thông qua khái niệm nhãn hiệu, thông qua liệt kê các đối tượng có khả năng bảo hộ thì cách hiểu về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trong TRIPS đã thể hiện sự tiến bộ và là cơ sở để các quốc gia xây dựng cho mình một khái niệm riêng phù hợp. Ở mỗi quốc gia có những quy định, quan điểm tiếp cận riêng liên quan đến các yếu tố có thể phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các chủ thể kinh doanh, từ đó có những điểm khác biệt nhất định trong quan niệm về quyền đối với nhãn hiệu. Ví dụ: ở Australia và Hoa Kỳ, âm thanh và mùi vị có thể được đăng ký nhãn hiệu hay nhãn hiệu được đăng ký ngay khi chúng không có sẵn tính phân biệt, với điều kiện nhãn hiệu có được tính phân biệt thông qua sử dụng, quan niệm về quyền đối với nhãn hiệu ở những nước này được mở rộng rất nhiều. Tuy nhiên, ở hầu hết các nước chỉ có tên gọi, hình ảnh, màu sắc mới được thừa nhận là một trong số những yếu tố cấu thành nên nhãn hiệu và như vậy, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu cũng thu hẹp trong quyền đối với các dấu hiệu cấu thành đó. Ở Việt Nam, trước đây trong Bộ luật Dân sự 1995, tại Điều 785 quy định "Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc". Xét về nội dung, Điều 785 Bộ luật Dân sự 1995 quy định có tính chất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các cơ sở sản xuất kinh doanh. Quy định này đã coi các dấu hiệu có thể phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau đều có thể là nhãn hiệu. Tuy nhiên, nếu so sánh Điều 785 với Điều 15 của Hiệp định TRIPS thì ta thấy còn bất cập. Điều 785 Bộ luật Dân sự 1995 đã quy định hạn chế một số yếu tố có thể được tiến hành đăng ký làm nhãn hiệu như tên riêng, các chữ 15 cái, chữ số hoặc tổ hợp dấu hiệu nào đó có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ, v.v... còn Hiệp định TRIPS lại quy định là bất kỳ dấu hiệu nào. Xuất phát từ đòi hỏi thực tế và để thúc đẩy nhanh cho tiến trình hội nhập, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết. Trong nội dung Hiệp định có điều khoản quy định khái niệm nhãn hiệu: Nhãn hiệu hàng hóa được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác bao gồm từ ngữ, tên người, hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp màu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận [28]. Cách hiểu này có tính chất khái quát và phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế theo quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về nhãn hiệu và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, tức là phù hợp với TRIPS. Khái niệm này mở rộng hơn về phạm vi các yếu tố có thể được đăng ký và bảo hộ (tức là được thừa nhận quyền đối với nhãn hiệu) không chỉ là những từ ngữ, hình ảnh thông thường như trước mà còn có thể sử dụng cả chữ cái, chữ số, tổ hợp màu sắc, các yếu tố hình. Tiếp thu những quan điểm tiến bộ trong các điều ước quốc tế về khái niệm nhãn hiệu và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 tại khoản 16 Điều 4 giải thích "nhãn hiệu" được hiểu "là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau" và cụ thể hơn trong Điều 72 khi nhắc đến điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ, đó là "dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc". Các dấu hiệu này tiếp tục được làm rõ thông qua Điều 73, Điều 74 quy định về dấu hiệu không được bảo hộ với danh 16 nghĩa nhãn hiệu, về khả năng phân biệt của nhãn hiệu. Khái niệm về nhãn hiệu trong Luật Sở hữu trí tuệ 2005 đã có những thay đổi nhất định so với pháp luật trước kia theo hướng tích cực và gần hơn với quy định trong Hiệp định TRIPS, cho thấy hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam nói chung cũng như quy định về nhãn hiệu nói riêng đang từng bước chuyển biến theo sự hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời tạo ra cơ sở và là điều kiện quan trọng giúp cho việc thực thi luật sở hữu trí tuệ cũng như pháp luật về nhãn hiệu có hiệu quả. Từ những phân tích ở trên, khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có thể được hiểu một cách chung nhất là quyền của các chủ thể do pháp luật quy định hoặc thừa nhận đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ với các chủ thể khác, bao gồm dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. 1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu Giữa hai khái niệm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có mối quan hệ mật thiết với nhau thể hiện ở chỗ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo nghĩa rộng bao gồm cả việc đăng ký xác lập quyền, trình tự khai thác, sử dụng nhãn hiệu và các biện pháp bảo vệ nhãn hiệu khỏi các hành vi xâm phạm. Theo nghĩa này, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bao hàm cả bảo vệ quyền. Pháp luật Việt Nam quy định việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được bảo đảm thông qua việc xác lập quyền đối với nhãn hiệu đó (theo nguyên tắc đăng ký trước), tức là để quyền và lợi ích hợp pháp của mình được bảo đảm, chủ sở hữu nhãn hiệu phải tiến hành xác lập quyền đối với nhãn hiệu bằng việc nộp đơn đăng ký đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục pháp luật quy định và được cấp văn bằng bảo hộ. Chính vì vậy, khi phân tích khái niệm bảo vệ 17 quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu cần thiết làm rõ khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được hiểu là việc nhà nước thông qua các quy định pháp luật xác lập quyền cho chủ sở hữu đối với nhãn hiệu, bảo đảm cho chủ sở hữu khai thác quyền đối với nhãn hiệu một cách hiệu quả và có các biện pháp bảo vệ quyền này khỏi hành vi xâm phạm. Việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được thể hiện dưới hình thức cấp văn bằng bảo hộ, ở Việt Nam văn bằng bảo hộ là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Sau khi tiến hành đăng ký nhãn hiệu và được cấp văn bằng bảo hộ, chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ được độc quyền sử dụng (có hạn chế) nhãn hiệu và được pháp luật bảo vệ cho nhãn hiệu đó. Từ thời điểm này, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đã được bảo hộ sẽ bị áp dụng các biện pháp xử lý nhất định như biện pháp hành chính, biện pháp dân sự, biện pháp hình sự, biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới liên quan đến nhãn hiệu. Mỗi biện pháp có những nét đặc thù tạo thành hệ thống công cụ pháp lý bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, bảo đảm cho các quy định của pháp luật về nhãn hiệu được thi hành nghiêm chỉnh, có hiệu lực, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu nhãn hiệu và đặc biệt để thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ quốc tế về bảo hộ nhãn hiệu. Từ những phân tích trên, khái niệm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có thể được hiểu như sau: Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là sự tác động bằng pháp luật thông qua việc sử dụng các biện pháp dân sự, biện pháp hành chính, biện pháp hình sự, biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới liên quan đến nhãn hiệu nhằm ngăn chặn, chống lại những hành vi xâm phạm để bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hợp pháp đã được nhà nước công nhận bảo hộ. 18 1.2. CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu cũng như quyền sở hữu tài sản nói chung là quyền dân sự tuyệt đối của chủ sở hữu mà những người khác có nghĩa vụ tôn trọng, không được thực hiện hành vi xâm phạm. Nhà nước với vai trò chủ đạo thiết lập một hệ thống pháp luật với những biện pháp bảo vệ nhất định nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm, bảo vệ quyền sở hữu cho chủ sở hữu nhãn hiệu. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo quy định của pháp luật được trình bày cụ thể dưới đây. 1.2.1. Biện pháp hành chính Biện pháp hành chính hiểu một cách chung nhất là biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Bản chất của biện pháp hành chính là việc áp dụng đơn phương các biện pháp chế tài của cơ quan nhà nước đối với bên có nghĩa vụ. Trong biện pháp hành chính, quan hệ không cân bằng giữa một bên chủ thể có quyền là cơ quan nhà nước nhân danh nhà nước áp đặt ý chí của mình lên đối tượng quản lý (bên có nghĩa vụ phục ting). Tức là, có sự không bình đẳng giữa các bên tham gia trong quan hệ quản lý hành chính, một bên nhân danh nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước để đưa ra các quyết định hành chính, còn bên kia phải phục tùng những quyết định ấy. Xét về bản chất, biện pháp hành chính được áp dụng nhằm bảo đảm cho công tác quản lý hành chính nhà nước được ổn định, biện pháp này được nhà nước sử dụng để trừng phạt, răn đe ở mức độ nhẹ. Biện pháp hành chính áp dụng để bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được hiểu là biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện bằng việc áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với các tổ chức cá nhân có hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công 19 nghiệp đối với nhãn hiệu theo đề nghị của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc theo sự phát hiện của chính cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính. Khác với biện pháp dân sự luôn có mục đích là khắc phục những thiệt hại đã xảy ra, ý nghĩa của biện pháp hành chính trong bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là nhằm trừng phạt, răn đe những hành vi xâm phạm quyền bằng các biện pháp chế tài như cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm, tịch thu hàng hóa giả mạo nhãn hiệu…nhưng không tính đến những thiệt hại của bên chủ sở hữu bị vi phạm quyền. Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Nghị định 106/2006/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp đã phân định rõ hành vi vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp trong đó có nhãn hiệu, quy định hình thức xử phạt hành chính và các mức xử phạt, quy định các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, bao gồm: Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan cảnh sát, cơ quan quản lý thị trường, cơ quan hải quan, thanh tra chuyên ngành sở hữu công nghiệp. Đồng thời phân định rõ phạm vi thực hiện chức năng xử lý hành chính các hành vi xâm phạm. Trên thực tế, biện pháp hành chính thường được chủ sở hữu nhãn hiệu lựa chọn khi xảy ra hành vi xâm phạm vì việc xử lý hành chính đối với các hành vi xâm phạm nhãn hiệu thường được thực hiện trong thời gian ngắn, điều đó giúp ngăn chặn kịp thời hành vi xâm phạm đối với nhãn hiệu kịp thời hơn; thủ tục xử lý vi phạm đối với nhãn hiệu theo biện pháp hành chính được tiến hành đơn giản, ít tốn kém đồng thời với ý nghĩa trừng phạt đối với tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm, biện pháp hành chính có tác dụng răn đe và phòng ngừa nhất định đối với việc tái phạm cũng như đối với những người khác có ý định thực hiện các hành vi xâm phạm. Tuy nhiên, vẫn có những hạn chế nhất định trong biện pháp hành chính khi giải quyết xâm phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu, thể hiện ở chỗ: việc áp dụng xử phạt hành chính chưa đáp ứng yêu cầu của chủ sở hữu nhãn hiệu khi việc vi phạm quyền sở hữu nhãn hiệu thường gây nên những thiệt hại nặng nề cho chủ sở hữu 20 nhưng việc xử lý vi phạm bằng biện pháp hành chính chỉ được bồi thường một khoản tiền chưa đủ để chủ sở hữu nhãn hiệu khắc phục thiệt hại về vật chất. Hơn nữa, việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên thực tế rất khó thực hiện. 1.2.2. Biện pháp hình sự Biện pháp hình sự là công cụ chế tài do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng nhằm trừng phạt những hành vi xâm phạm trật tự xã hội ở mức độ nghiêm trọng bị coi là tội phạm được quy định trong pháp luật hình sự. Bản chất của biện pháp hình sự nói chung là việc nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước với mục đích trừng phạt và răn đe những hành vi xâm phạm trật tự xã hội, trật tự quản lý nhà nước... ở mức độ nghiêm trọng bị coi là tội phạm. Trong bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, biện pháp hình sự thường được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng điều chỉnh đối với các hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu, gây hậu quả nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của họ, ảnh hưởng đến trật tự xã hội, đặc biệt đối với hậu quả của việc sản xuất hàng giả kém chất lượng làm tổn hại đến sức khỏe của người tiêu dùng, thiệt hại về vật chất và tinh thần cho chủ sở hữu quyền. Thực chất biện pháp này cũng có những đặc điểm giống với biện pháp hành chính khi nó thể hiện tính áp đặt ý chí của nhà nước đến đối tượng vi phạm nhằm bảo đảm trật tự xã hội, ngăn chặn sự xâm phạm trật tự xã hội. Tuy nhiên biện pháp hình sự trong bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu thể hiện ở mức độ nghiêm khắc hơn nhiều so với biện pháp hành chính. Theo quy định tại Điều 156, 157, 158, 167, 171 Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999 thì biện pháp hình sự được áp dụng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu khi có các hành vi như chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam nhằm mục đích kinh doanh, sản xuất, buôn bán hàng giả, các hành vi này có thể bị coi là tội phạm và bị 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan