ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ CHUYỀN
BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ
TRONG QUAN HỆ NHÂN THÂN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ CHUYỀN
BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ
TRONG QUAN HỆ NHÂN THÂN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Minh Hồng
HÀ NỘI - 2015
2
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
Ph¹m ThÞ ChuyÒn
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
Chương 1:
1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA
5
NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG QUAN HỆ NHÂN THÂN
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
1.1.
Khái niệm quyền của người phụ nữ và bảo vệ quyền của
5
người phụ nữ
1.1.1. Quyền của người phụ nữ
5
1.1.2. Bảo vệ quyền của người phụ nữ
9
1.1.3. Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa
12
vợ và chồng
1.2.
Sự phát triển của quy định về quyền của người phụ nữ và bảo
14
vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ
và chồng ở Việt Nam
1.2.1. Quyền của người phụ nữ trong pháp luật trước Cách mạng
14
tháng Tám năm 1945
1.2.2. Quyền của người phụ nữ trong pháp luật hôn nhân và gia đình
17
từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
Chương 2:
NỘI DUNG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ
27
TRONG QUAN HỆ NHÂN THÂN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
2.1.
Quyền của người vợ được thương yêu, chung thủy và được
27
chăm sóc, quý trọng
2.1.1. Quyền được yêu thương, chung thủy
4
27
2.1.2. Quyền được chăm sóc, giúp đỡ, tôn trọng
29
2.1.3. Quyền sống chung giữa vợ và chồng
30
2.2.
Quyền bình đẳng của người vợ trong việc thực hiện các quan
31
hệ gia đình
2.2.1. Quyền bình đẳng của vợ đối với chồng trong mối quan hệ với con
31
2.2.2. Quyền bình đẳng trong việc thực hiện chính sách dân số và kế
35
hoạch hóa gia đình
2.2.3. Quyền được lựa chọn nơi cư trú
38
2.2.4. Quyền được lựa chọn nghề nghiệp, học tập và tham gia các
40
hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội
2.2.5. Quyền được tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
48
2.2.6. Quyền của người vợ trong việc ly hôn
51
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN
58
NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ
TRONG QUAN HỆ NHÂN THÂN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
3.1.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền của người phụ
58
nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng
3.1.1. Những thành tựu đã đạt được
58
3.1.2. Một số khó khăn, vướng mắc trong việc bảo vệ quyền của
61
người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng
3.2.
Một số đề xuất nhằm bảo đảm quyền của người phụ nữ trong
66
quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định trong các văn bản pháp luật
66
về hôn nhân và gia đình
3.2.2. Nâng cao chất lượng tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật
73
KẾT LUẬN
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
78
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
HN&GĐ
: Hôn nhân và gia đình
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
Số hiệu
Trang
bảng
3.1
Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai, thời kì 2002-2012
59
3.2
Tỷ lệ phụ nữ 15-49 tuổi sinh con thứ 3 trở lên chia theo
60
thành thị/ nông thôn 2006 -2013
3.3
Tỷ lệ phụ nữ có chồng bị chồng gây các hành vi bạo lực
61
thể xác khác nhau
3.4
Tỷ lệ các hành vi bạo lực tình dục cụ thể do chồng gây ra
62
theo sự trả lời của phụ nữ
3.5
Quyền quyết định của vợ chồng trong các công việc gia đình
7
63
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2014 được Quốc hội thông
qua ngày 19 tháng 06 năm 2014 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2015. Đây là một bước hoàn thiện quan trọng về cơ sở pháp lý cho việc thực
hiện chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho
cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo
đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Xuất phát từ mục đích của việc xác lập
quan hệ vợ chồng là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc và bền vững, kế thừa và phát triển các quy định của Luật HN&GĐ năm
2000, Luật HN&GĐ năm 2014 khi điều chỉnh các quan hệ giữa vợ và chồng
đã dựa trên nguyên tắc tiến bộ, bình đẳng và đưa ra nhiều quy định cụ thể về
quyền, nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng.
Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và
chồng là một vấn đề rất cơ bản nhưng chưa được nghiên cứu một cách chuyên
sâu, thấu đáo đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay đang có những
chuyển biến phức tạp, quyền nhân thân của người phụ nữ trong quan hệ giữa
vợ và chồng đang ngày càng bị xâm phạm dưới nhiều hình thức và mức độ
khác nhau, chẳng hạn như nạn bạo lực thể chất, bạo lực tinh thần…
Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và
chồng không chỉ thể hiện ở việc ghi nhận những quyền nhân thân của họ
trong pháp luật mà phải đảm đảm cho những quyền đó được trở thành hiện
thực trên thực tế, điều đó đòi hỏi một cơ chế đồng bộ từ việc xây dựng pháp
luật đến các biện pháp thực hiện ở mọi cấp, mọi ngànhh. Chỉ khi nào bảo vệ
tốt quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng thì việc
đảm bảo bình đẳng giới mới trở thành hiện thực.
8
Luật HN&GĐ năm 2014 ban hành đã mang nhiều quy định tiến bộ trong
việc đảm bảo quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân của vợ và chồng,
chẳng hạn quy định về nghĩa vụ sống chung của vợ chồng, đại diện giữa vợ và
chồng trong quan hệ kinh doanh… góp phần đảm bảo quyền và lợi ích chính
đáng của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng. Tuy nhiên,
để đưa ra nhiều biện pháp giải quyết hiệu quả, nhằm thúc đẩy và thực hiện tốt
hơn nữa quyền bình đẳng của người phụ nữ thì việc nghiên cứu vấn đề "Bảo vệ
quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng theo Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014" có ý nghĩa lí luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề về quyền của người phụ nữ hiện nay cũng đã có một số đề tài
nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau như khóa luận tốt nghiệp năm 2003:
"Bảo vệ quyền của người phụ nữ theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000",
của Lương Thị Kim Dung, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội; Luận văn
thạc sĩ: "Ảnh hưởng của Nho giáo đến các quy định pháp luật Việt Nam về
mối quan hệ giữa vợ và chồng", của Đinh Hạnh Nga, Khoa Luật - Đại học
quốc gia Hà Nội; Luận văn Thạc sĩ: "Bảo vệ quyền người phụ nữ trong quan
hệ tài sản giữa vợ và chồng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000", của
Trần Thị Hồng Nhung, Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội…Tuy nhiên, vấn
đề bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng
chưa được nghiên cứu một cách chuyên sâu và quan tâm đúng mức. Các công
trình nghiên cứu mới chỉ nghiên cứu về việc bảo vệ quyền của người phụ nữ một
cách nói chung hay chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về bảo vệ quyền của người
phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng mà chưa có sự đề cập tới việc
bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
* Mục đích
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền của
người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng theo Luật HN&GĐ
9
năm 2014 trong đó có xem xét dưới góc độ bình đẳng giới. Từ đó, tìm ra một
số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này và nâng
cao hơn nữa vấn đề bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân
giữa vợ và chồng.
* Nhiệm vụ
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về quyền của người phụ nữ và bảo vệ quyền
của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng.
- Tìm hiểu thực trạng về nội dung bảo vệ quyền của người phụ nữ
trong quan hệ nhân thân giữa vợ với chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện quy định của
pháp luật về bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ
với chồng.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với đề tài "Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân
thân giữa vợ và chồng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014" luận văn
tập trung làm rõ những vấn đề về bảo vệ quyền nhân thân của người phụ nữ
với tư cách là người vợ, người mẹ trong quan hệ giữa vợ và chồng, tức là các
quyền nhân thân phát sinh trên cơ sở quan hệ hôn nhân
Vì vậy, những vấn đề về quyền của người phụ nữ không gắn liền với
quan hệ vợ chồng không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích đề ra, tác giả sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như sau:
- Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Đảng và Nhà nước về
pháp luật
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, so sánh, thống
kê, tổng hợp.
10
6. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn
- Luận văn nghiên cứu và phân tích sâu sắc, toàn diện về ý nghĩa, mục
đích, nội dung bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa
vợ và chồng dưới góc độ bình đẳng giới.
- Luận văn đánh giá thực trạng về nội dung bảo vệ quyền của người
phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng trên thực tế, đưa ra một số
kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về vấn đề này và nâng cao
hiệu quả việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa
vợ và chồng, nhằm thực hiện bình đẳng giữa vợ và chồng trên thực tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền của người phụ nữ
trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng
Chương 2: Nội dung bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ
nhân thân giữa vợ và chồng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và một số kiến nghị nhằm bảo
đảm quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng.
11
Ket-noi.com chia se mien phi
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN
CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG QUAN HỆ NHÂN THÂN
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ VÀ BẢO VỆ QUYỀN
CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ
1.1.1. Quyền của ngƣời phụ nữ
Theo nghĩa chung nhất, quyền của người phụ nữ được hiểu là khả
năng mà người phụ nữ được hưởng. Để tiếp cận một cách đầy đủ khái niệm
quyền của người phụ nữ, chúng ta cần xem xét dưới góc độ quyền con người
và bình đẳng giới.
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó đã có nhiều định
nghĩa khác nhau về quyền con người (theo một tài liệu của Liên hợp quốc, có
đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố) [42]. Tuy nhiên,
trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia, chưa có một
định nghĩa đầy đủ về quyền con người mà mỗi định nghĩa tiếp cận dưới
những góc độ nhất định và khác nhau.
Ở cấp độ quốc tế, theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp
quốc thì "Quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu, có tác dụng
bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc
mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con
người" [43].
Ở Việt Nam, quyền con người được hiểu là "những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp luật quốc tế" [21].
Theo quan điểm của chúng tôi, quyền con người là một quyền vừa
mang tính tự nhiên vừa mang tính pháp lý. Quyền con người là quyền tự
12
nhiên được hiểu là những quyền khi sinh ra họ đã có, mà người khác phải tôn
trọng "mọi người sinh ra đều bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai
có thể xâm phạm được" (Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948).
Quyền con người là quyền pháp lý tức là quyền con người được pháp điển
hóa, được ghi nhận bằng pháp luật, được cộng đồng tôn trọng và bảo đảm
thực hiện.
Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng
được xác định như là những chuẩn mực được thừa nhận, những chuẩn mực
này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại và được áp dụng cho
tất cả mọi người. Vì vậy, dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định
nhưng một điều rõ ràng rằng quyền con người là những giá trị cao cả cần
được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.
1.1.1.2. Khái niệm bình đẳng giới
Quyền bình đẳng là thành quả đấu tranh lâu dài của nhân loại tiến bộ
qua các thời kì lịch sử. Năm 1948, Liên hợp quốc ra Tuyên ngôn toàn thế giới
về quyền con người, khẳng định: "Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng
về phẩm giá và các quyền". Ý tưởng về sự bình đẳng này được trích dẫn từ
Tuyên ngôn Độc Lập của Mỹ và Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
của Cách mạng Pháp. Điều đó cho thấy bình đẳng là một nguyên lý căn bản
cần được chấp nhận bởi mọi quốc gia, mọi dân tộc. Bình đẳng là một khái
niệm chung của cả nhân loại, nó hướng đến việc khẳng định quyền lợi ngang
nhau của mọi người, mọi đối tượng, mọi nhóm người trong xã hội. Bình đẳng
là mục tiêu phấn đấu của mọi dân tộc, mọi xã hội tiến bộ và là lý tưởng chung
của mọi cuộc cách mạng trên thế giới.
Ở Việt Nam, quyền bình đẳng của công dân được tôn trọng và bảo vệ.
Điều này đã trở thành nguyên tắc hiến định. Điều 16, Hiến pháp năm 2013
khẳng định: "Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật". Quy định này có
nghĩa là mọi công dân không phân biệt giới tính, dân tộc, tuổi tác, thành phần
13
và địa vị xã hội đều được hưởng các quyền như nhau và có nghĩa vụ như nhau
theo quy định của pháp luật.
Bình đẳng giới là sự cụ thể hóa quyền bình đẳng trước pháp luật của
công dân giữa nam và nữ. Để tiếp cận với khái niệm bình đẳng giới chúng ta
cần nhìn nhận dưới góc độ xã hội học và khoa học pháp lý.
Bình đẳng giới theo quan niệm xã hội học là sự đối xử ngang quyền
giữa hai giới nam và nữ, cũng như giữa các tầng lớp phụ nữ trong xã hội có
xét đến đặc điểm riêng của nữ giới, được điều chỉnh bởi các chính sách đối
với phụ nữ một cách hợp lý. Hay nói cách khác, bình đẳng giới là sự thừa
nhận và thiết lập các cơ hội ngang nhau đối với nữ và nam trong xã hội.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý thì bình đẳng giới là một dạng của
bình đẳng xã hội nói chung, cần được điều chỉnh bằng pháp luật, nhằm thiết
lập sự bình đẳng giữa nam giới và nữ giới. Theo Luật bình đẳng giới năm
2006, bình đẳng giới được hiểu là "việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau,
được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của
cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển
đó" [30, khoản 3 Điều 5].
Trên cơ sở khái niệm về quyền con người và bình đẳng giới chúng ta
nhận thấy rằng người phụ nữ có các quyền như nam giới và họ được hưởng
tất cả những quyền mà pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Bên cạnh đó, để có nhận
thức đầy đủ về bình đẳng giới thì cần phải tính đến những đặc thù về giới
của người phụ nữ, đó là đặc điểm sinh học và truyền giống của người phụ nữ
khác đàn ông, họ phải thực hiện chức năng sinh nở, thực hiện chức năng làm
vợ, làm mẹ. Ngoài ra, về thể chất, người phụ nữ thường có sức khỏe và sự
chịu đựng kém hơn đàn ông. Do vậy, quyền của người phụ nữ cần được thừa
nhận và cần được đảm bảo với nội dung của bình đẳng giới. Với mục tiêu
"xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong
phát triển kinh tế- xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới
14
thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam
và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình" [30, Điều 4]. Theo đó,
nội dung về quyền bình đẳng giới của người phụ nữ bao gồm nhiều lĩnh vực
như về kinh tế, tài chính, xã hội…Tuy nhiên, nhìn nhận dưới khía cạnh quyền
nhân thân của người phụ nữ là người vợ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và
chồng thì quyền bình đẳng giới mang những nội dung theo quy định tại Điều 18
Luật bình đẳng giới năm 2006 như sau:
1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và
các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình
2. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc quyết định
lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hóa gia đình phù hợp; sử dụng
thời gian nghĩ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật [30].
Bên cạnh đó, quyền bình đẳng giới của người phụ nữ còn được ghi
nhận trong Công ước về việc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ (CEDAW) của Hội đồng Liên hợp quốc được thông qua ngày 10 tháng 12
năm 1979. Công ước CEDAW đảm bảo sự bình đẳng cho người phụ nữ bằng
việc ghi nhận sự bình đẳng trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội... Đặc
biệt trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, công ước CEDAW đã có những quy
định về quyền của người phụ nữ dưới góc độ bình đẳng giới như sau:
- Người phụ nữ được cung cấp những thông tin riêng cho việc đảm
bảo sức khỏe và hạnh phúc gia đình, kể cả các thông tin về hướng dẫn kế
hoạch hóa gia đình; quyền không bị phân biệt đối xử vì các lý do liên quan
đến đặc trưng riêng biệt về giới tính; quyền của người phụ nữ có thai được
bảo vệ đặc biệt; quyền được quan tâm, chăm sóc khi mang thai….(khoản 2
Điều 11; khoản 2 Điều 12);
- Người phụ nữ có quyền và trách nhiệm như nhau đối với người
chồng trong mọi vấn đề liên quan đến con cái, trong mọi trường hợp thì lợi
ích của con cái là điều quan trọng nhất (Điều 16);
15
- Người phụ nữ được bình đẳng với người chồng trong việc tham gia
bầu cử, ứng cử và tham gia những chức vụ trong bộ máy nhà nước (Điều 7),
được bỏ phiếu trong mọi cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý, được quyền ứng cử
vào các vị trí của cơ quan dân cử, được tham gia xây dựng và thực hiện các
chính sách của Chính phủ, tham gia các chức vụ của Nhà nước và thực hiện
mọi chức năng cộng đồng ở tất cả các chính quyền;
- Người phụ nữ được tạo điều kiện trong nghề nghiệp, tham gia học
tập cũng như được quyền tham gia vào các hoạt động giải trí, thể thao và mọi
mặt của đời sống...
Từ những nội dung đã phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm quyền
của người phụ nữ như sau:
Quyền của người phụ nữ là tập hợp các quyền của con người mà
người phụ nữ được hưởng, được tôn trọng, được bảo vệ và bảo đảm thực hiện
bằng hệ thống các quy định của pháp luật.
1.1.2. Bảo vệ quyền của ngƣời phụ nữ
Việc ghi nhận quyền của người phụ nữ trong pháp luật là điều quan
trọng nhưng chưa đủ khi thực tế trong đời sống hôn nhân và gia đình hiện nay
các quyền của người phụ nữ còn bị xâm phạm, chẳng hạn như thực trạng bất
bình đẳng trong mọi lĩnh lực về kinh tế, chính trị, tình trạng bạo lực gia đình…
Vì vậy, điều quan trọng là cần phải bảo vệ và đảm bảo cho quyền của người
phụ nữ được thực hiện trong thực tế. Có hai phương thức để bảo vệ quyền phụ
nữ bao gồm phương thức tự bảo vệ và phương thức yêu cầu cơ quan, tổ chức
can thiệp bảo vệ. Theo đó, phương thức tự bảo vệ là một biện pháp dân sự
được thực hiện bởi chính chủ thể, theo đó người phụ nữ có quyền sử dụng các
biện pháp tự bảo vệ. Trên cơ sở sự ghi nhận của pháp luật về quyền nhân thân
của người phụ nữ trong quan hệ giữa vợ và chồng thì người phụ nữ sẽ ý thức
được việc thực hiện quyền bảo vệ đối với các quyền nhân thân của mình, để
ngăn chặn các hành vi xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
16
Phương thức yêu cầu cơ quan, tổ chức can thiệp bảo vệ là một biện
pháp dân sự do chủ thể thực hiện. Trên cơ sở pháp luật ghi nhận các quyền
nhân thân của phụ nữ, người phụ nữ được áp dụng biện pháp yêu cầu cơ quan,
tổ chức bảo vệ để kịp thời xử lý hành vi xâm phạm quyền của mình. Khoản 1
Điều 5 của Luật Phòng chống bạo lực năm 2007 gia đình quy định:
1. Nạn nhân bạo lực gia đình có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ
sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác
của mình;
b) Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp
ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này [31].
Mặt khác, do phụ nữ là "phái yếu" nên bảo vệ quyền phụ nữ cần được
xem xét và ghi nhận dựa trên cơ sở những yếu tố đặc thù về giới, nghĩa là
pháp luật phải ghi nhận quyền của người phụ nữ dựa trên cơ sở bình đẳng
giới. Việc bảo vệ quyền của người phụ nữ hiện nay đã được ghi nhận trong
Hiến pháp và các văn bản liên quan.
Bảo vệ quyền của người phụ nữ được thực hiện toàn diện trên mọi
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, lao động, việc làm, giáo dục, văn hóa, hôn nhân gia đình. Trong Hiến pháp vấn đề quyền của người phụ nữ luôn được thể hiện
nhất quán, quyền bình đẳng của phụ nữ ngày càng được quy định mở rộng và
hoàn thiện hơn qua các bản Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013, thể hiện tinh
thần bảo vệ quyền của người phụ nữ ngay trong các quy định mang tính
nguyên tắc về chế độ hôn nhân và gia đình. Cụ thể, Điều 36 quy định:
1. Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên
tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng tôn
trọng lẫn nhau.
2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hệ quyền lợi
của người mẹ và trẻ em [33].
17
Với quy định trên người phụ nữ cần phải được đảm bảo quyền lợi của
mình trên mọi lĩnh vực, nhất là trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng,
nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người phụ nữ và khẳng định vị trí, vai
trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Quy định của Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc quy định
cụ thể về quyền của người phụ nữ trong các văn bản pháp luật như Bộ luật dân
sự năm 2005, Luật bình đẳng giới năm 2006, Luật phòng chống bạo lực gia đình
năm 2007, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014… Theo đó, Bộ luật dân sự
(BLDS) năm 2005 đã có sự quy định về quyền của người phụ nữ tại Điều 40
Mục 2 Quyền nhân thân như sau: "Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền,
nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự, cùng
nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững" [29].
Luật HN&GĐ năm 2014 với tư cách là đạo luật quy định trực tiếp, cụ
thể về quan hệ hôn nhân và gia đình đã đưa ra nhiều quy định liên quan đến
quyền của người phụ nữ cũng như những bảo đảm trong việc thực hiện quyền
của họ. Trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình, Luật
quy định: "Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng" [34, khoản 1 Điều 2] và "Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm
bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về
hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của
người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình" [34, khoản 4 Điều 2]. Các nguyên
tắc cơ bản này tạo nền tảng pháp lý cho việc bảo vệ quyền của người phụ nữ
trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng. Trên cơ sở đó, Luật HN&GĐ năm
2014 đã cụ thể hóa quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ
và chồng từ Điều 17 đến Điều 27.
Như vậy, bảo vệ quyền của người phụ nữ được hiểu là: hệ thống các
biện pháp, cách thức được pháp luật quy định nhằm bảo đảm việc thực thi
đầy đủ, có hiệu quả các quyền con người của phụ nữ trên thực tế cũng như xử
lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm quyền của người phụ nữ.
18
1.1.3. Bảo vệ quyền của ngƣời phụ nữ trong quan hệ nhân thân
giữa vợ và chồng
1.1.3.1. Khái niệm bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ
nhân thân giữa vợ và chồng
Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với đời sống
tinh thần của cá nhân được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Điều 24 BLDS
năm 2005 quy định: "Quyền nhân thân được quy định trong Bộ Luật này là
quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người
khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác" [29].
Sự kiện kết hôn làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Nội
dung của quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ về
nhân thân và tài sản, trong đó các quyền về nhân thân đóng vai trò quan trọng trong
đời sống vợ và chồng, là cơ sở đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt chức năng xã
hội. Từ quy định tại Điều 24 BLDS năm 2005, quyền nhân thân của vợ và chồng
được hiểu là quyền gắn liền với vợ và chồng, phát sinh trên cơ sở kết hôn hợp
pháp, liên quan đến lợi ích tinh thần của vợ và chồng, không có nội dung kinh tế,
không định giá được thành tiền và không thể chuyển giao cho người khác.
Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và
chồng là một nội dung quan trọng góp phần hạn chế hành vi xâm phạm quyền
của người vợ, tạo cơ sở để thực hiện quyền bình đẳng của người vợ đối với
người chồng trong đời sống hôn nhân và gia đình.
Từ khái niệm bảo vệ quyền của người phụ nữ như đã phân tích tại
mục 1.1.2 ta có thể hiểu bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân
thân giữa vợ và chồng là hệ thống các biện pháp, cách thức được pháp luật
quy định nhằm bảo đảm việc thực thi đầy đủ cũng như xử lý kịp thời, nghiêm
minh các hành vi xâm phạm quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân
giữa vợ và chồng. Theo đó, các quyền nhân thân của người vợ cần được bảo
vệ như quyền được yêu thương, chung thủy, chăm sóc; quyền được thực hiện
chính sách dân số; quyền đại diện; quyền được lựa chọn nơi cư trú…
19
Từ khái niệm trên đây rút ra được một số đặc điểm của quyền nhân
thân của người vợ trong quan hệ giữa vợ và chồng như sau:
Thứ nhất, quyền nhân thân của người vợ phát sinh trên cơ sở hôn nhân
hợp pháp và tồn tại trong suốt thời kì hôn nhân. Các quyền nhân thân này chỉ
chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt. Tức là, quyền nhân thân của người
vợ sẽ được bắt đầu bằng việc đăng kí kết hôn và sẽ chấm dứt khi sau khi có
quyết định, bản án của Tòa án giải quyết ly hôn có hiệu lực hoặc khi người
chồng chết hoặc người chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết.
Thứ hai, quyền nhân thân của người vợ luôn gắn liền với chồng,
không thể chuyển dịch cho người khác (không thể do người khác thực hiện
thay). Đặc điểm này xuất phát từ những đặc trưng của quyền nhân thân và
tính chất của quan hệ vợ chồng. Theo đó, các quyền nhân thân của người vợ
như quyền được yêu thương, chung thủy, chăm sóc; quyền được thực hiện kế
hoạch hóa gia đình…là những quyền gắn liền với chồng, liên quan đến lợi ích
tinh thần của vợ và chồng nên các quyền nhân thân trên không thể chuyển
giao cho người khác.
Từ những phân tích nêu trên, chúng ta nhận thấy rằng, việc bảo vệ
quyền của người vợ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng là một vấn đề
có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện quan hệ vợ chồng tiến bộ, đảm bảo
quyền bình đẳng thực chất cho người phụ nữ trên thực tế.
1.1.3.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan
hệ nhân thân giữa vợ và chồng
Vấn đề bảo vệ quyền của người phụ nữ nói chung và bảo vệ quyền
của người vợ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng nói riêng xét trên hai
phương diện lý luận và thực tiễn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Điều này thể
hiện ở những nội dung sau đây:
- Bảo vệ quyền của người vợ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và
chồng góp phần xóa bỏ tư tưởng gia trưởng - phong kiến, quyền áp đặt của
20
- Xem thêm -