Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự theo pháp luật nước ngoài và luật quốc...

Tài liệu Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự theo pháp luật nước ngoài và luật quốc tế

.PDF
98
70
57

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ NAM B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI TRONG LUËT H×NH Sù THEO PH¸P LUËT N¦íC NGOµI Vµ LUËT QUèC TÕ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ NAM B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI TRONG LUËT H×NH Sù THEO PH¸P LUËT N¦íC NGOµI Vµ LUËT QUèC TÕ Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số: 60 38 01 08 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS.GVC. LÊ VĂN BÍNH HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Trong quá trình nghiên cứu, học viên đã tham khảo nhiều công trình nghiên cứu khác, có kế thừa, phân tích, bình luận và phát triển. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Học viên đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN LÊ NAM MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ LUẬT HÌNH SỰ QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI........................ 7 1.1. Khái niệm quyền con người và bảo vệ quyền con người ................ 7 1.2. Vấn đề quyền con người và quyền công dân ................................. 11 1.3. Khái niệm luật hình sự quốc tế và luật hình sự quốc gia về bảo vệ các quyền con người ..................................................................... 15 Chương 2: BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƯỜI BẰNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI VÀ LUẬT HÌNH SỰ QUỐC TẾ ............ 23 2.1. Pháp luật hình sự một số nước về bảo vệ quyền con người ........ 23 2.1.1. Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự Trung Quốc .............. 23 2.1.2. Bảo vệ quyền con người theo pháp luật hình sự Nga ........................ 25 2.1.3. Bảo vệ quyền con người theo pháp luật hình sự Nhật Bản .............. 27 2.1.4. Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự Liên bang Đức ........... 29 2.2. Luật hình sự quốc tế và quyền con người ..................................... 31 2.3. Tòa án hình sự quốc tế và vấn đề quyền con người ...................... 37 2.4. Bảo vệ quyền con người thông qua tương trợ tư pháp theo luật hình sự quốc tế .......................................................................... 40 2.5. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự quốc tế ................ 43 Chương 3: BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM SO VỚI LUẬT QUỐC TẾ: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP .......................................................................... 49 3.1. Pháp luật Việt Nam và luật hình sự Việt Nam trong tương quan so sánh với luật quốc tế về bảo vệ quyền con người................. 49 3.1.1. Nhóm các quyền dân sự và chính trị .................................................. 50 3.1.2. Nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa................................................. 65 3.2. Một số kiến nghị, giải pháp cho Việt Nam từ việc nghiên cứu luật quốc tế và luật hình sự quốc tế về bảo vệ quyền con người ..... 72 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống, chính sách pháp luật bảo vệ quyền con người ........ 72 3.2.2. Gia nhập Tòa án hình sự quốc tế của Việt Nam ................................ 79 3.2.3. Giáo dục, đào tạo quyền con người ở Việt Nam ................................ 80 3.3. Một số giải pháp khác ...................................................................... 82 KẾT LUẬN .................................................................................................... 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. BLHS: Bộ luật hình sự CAND: Công an nhân dân CEDAW: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ CTQG: Chính trị Quốc gia ĐHQGHN: Đại học Quốc gia Hà Nội ICC: Tòa án hình sự quốc tế ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự ILO: Tổ chức Lao động Quốc tế LGBT: Cộng đồng những người đồng tính luyến ái LHQ : Liên hợp quốc NCKH: Nghiên cứu khoa học UDHR: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền VBPL: Văn bản pháp luật VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Nói đến việc bảo vệ quyền con người, dù dưới bất kỳ góc độ nào đều có nghĩa cùng đề cập đến việc bảo vệ nhân thân, các quyền và lợi ích hợp pháp của con người nói chung và công dân nói riêng. Tại Lời nói đầu Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 [14] đã khẳng định rằng: Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới. Điều cốt yếu là quyền con người cần phải được pháp luật bảo vệ để con người không buộc phải nổi dậy như là một biện pháp cuối cùng nhằm chống lại sự độc tài và áp bức. Các quốc gia thành viên đã cam kết, cùng với Liên hợp quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của con người. Như vậy, việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ chung của tất cả các quốc gia, tất cả các dân tộc trên thế giới (hay cụ thể hơn đó là nhiệm vụ của mỗi người trong cộng đồng các dân tộc cùng sinh tồn trên Trái Đất), trước hết là trên bình diện chính trị - pháp lý, sau là thực tiễn xã hội. Đã trải gần 70 năm từ khi thông qua Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948, nhưng việc nghiên cứu về nhân quyền và bảo vệ quyền con người đã và luôn luôn là vấn đề nóng hổi, cần thiết và có ý nghĩa chính trị thời đại quan trọng. Trước yêu cầu của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, khi mà việc bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế, an ninh con người và quyền con người bằng pháp luật quốc tế nói chung và đặc biệt là bằng luật hình sự và luật hình sự quốc tế nói riêng trước nguy cơ đe dọa của chiến tranh xâm lược, của xung đột vũ trang và bạo lực, sự hủy hoại và suy thoái môi trường sống, trước tội 1 ác diệt chủng và chống loài người, cũng như việc bảo vệ quyền con người đối với người phạm tội, là đòi hỏi có tính cấp thiết hơn bao giờ hết. Điều nói trên là các lý do mà học viên đã nghiên cứu và lựa chọn đề tài: “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự theo pháp luật nước ngoài và luật quốc tế” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề về quyền con người đã được nghiên cứu rất nhiều ở cả trong và ngoài nước. Ví dụ, Bảo vệ an ninh quốc gia an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Sách chuyên khảo do Lê Văn Cảm làm chủ biên, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007; Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, do tập thể tác giả: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao và Lã Khánh Tùng đồng biên soạn, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2009; Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật hình sự Việt Nam, đề tài NCKH (2014) và Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân theo luật hình sự Việt Nam, do Trịnh Tiến Việt làm chủ biên, NXB CTQG, Hà Nội, 2010; Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam, do Trần Quang Tiệp làm chủ biên, NXB CTQG, Hà Nội, 2004; Quyền con người. Tập hợp những bình luận/khuyến nghị chung của Ủy ban Công ước LHQ, sách tham khảo, Khoa Luật, ĐHQGHN, NXB CAND, 2010; Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật quốc tế, Đề tài NCKH của Nguyễn Bá Diến và Hoàng Ngọc Giao, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2006; Bảo vệ quyền con người bằng các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, đề tài NCKH cấp ĐHQG Hà Nội, do Lê Văn Cảm, Nguyễn Ngọc Chí và Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2004; Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật, đề tài NCKH 2 trọng điểm cấp ĐHQG Hà Nội, do Lê Văn Cảm chủ trì, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2013; Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người, đề tài NCKH về nhân quyền do Nguyễn Ngọc Chí chủ trì, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2011; Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người, Tưởng Duy Kiên, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006. Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, như: Công ước quốc tế về bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp, của Nguyễn Minh Tuấn, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về hội nhập quốc tế, 2012; Tòa án hình sự quốc tế - Một thiết chế quan trọng của luật hình sự quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 5/2009 và Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện điều 119 Bộ luật hình sự sửa đổi với tội mua bán người, của Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Kiểm sát, số 5(3)/2011; Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về bảo vệ quyền phụ nữ trên cơ sở tiếp thu pháp luật quốc tế, của Trần thị Hồng Lê, Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học, số 2/2014; Vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc phòng ngừa và xử lý các vi phạm quyền con người, Vũ Văn Nhiêm, Tạp chí NN và PL, 2011. Quyền con người còn được nghiên cứu ở cấp độ các luận văn và luận án, như: Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Huy Hoàn, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2004; Bảo đảm thực hiện quyền con người trong thi hành án phạt tù, Luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Đức Phúc, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2011; Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Hoa Kỳ, Luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Thị Mỹ Quỳnh, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2012; Bảo vệ các quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của Tạ Xuân Trà, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2014; hoặc liên quan đến nhân 3 quyền chúng ta có thể kể đến các loại tài liệu khác, như: Báo cáo nghiên cứu rà soát quy định của pháp luật Việt Nam về các quyền dân sự, chính trị, của Bộ Tư pháp, 2013; Báo cáo nghiên cứu so sánh nội dung Công ước chống tra tấn với các quy định trong pháp luật Việt Nam, của Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2007. Ở nước ngoài, có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về quyền con người, như: Nhân quyền và đánh giá tư pháp tại Đức của Grimm Dicter và Các bảo đảm quyền cá nhân theo Hiến pháp Liên bang Mỹ của Scialia Atomin, NXB, Martinus Nijhoff publishers, Dordrecht, 1994; Abashidze A.Kh. Hệ thống khu vực về bảo vệ các quyền của con người. Trường Đại học Tổng hợp Hữu nghị các Dân tộc. M., 2010; Abashidze A.Kh., Solntcev A.M. Thể chế về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền và tự do trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tạp chí Luật quốc tế. Moscow, 2010. № 2; UN Human Rights Treaty Bodies/Eds.: Helen Keller, Universität Zürich, Geir Ulfstein. - Cambridge University Press, 2012.; New Challenges for the UN Human Rights Machinery. What Future for the UN Treaty Body System and the Human Rights Council Procedures?/Edited by: M. Cherif Bassiouni, William A. Schabas - Antwerp: Intersentia Publishers, 2011; Международная и внутригосударственная защита прав человека.: Учебник. –М.: Статут. 2011.; Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam (Truyền thống, Lý luận và Thực tiễn): Tradition on and Theory and implementation of Hunman Right in China and Vietnam, NXB CTQG, Hà Nội, 2003; Wolfgang Benedek, Tìm hiểu về quyền con người, NXB Tư pháp Hà Nội, 2008. Những công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến những vấn đề khác nhau về quyền con người: nghiên cứu lý luận về quyền con người; phân biệt quyền con người và quyền công dân; một số khía cạnh pháp lý, xã hội về quyền con người; nghiên cứu đa ngành và liên ngành về quyền con người; 4 nghiên cứu về các chế định cụ thể của pháp luật hình sự Việt Nam, luật hình sự quốc tế về quyền con người; về an ninh con người và bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự và trong quá trình tố tụng hình sự. Tuy nhiên, xã hội luôn biến đổi, con người ngày một phát triển cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nên nghiên cứu về con người mà đặc biệt là về lĩnh vực bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự (trên cơ sở của luật quốc gia và luật quốc tế) luôn có tính mới, cần nghiên cứu. Do đó, việc học viên chọn đề tài “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự theo pháp luật nước ngoài và luật quốc tế” để nghiên cứu và làm luận văn thạc sỹ luật học là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích nghiên cứu Làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động về quyền con người trong pháp luật hình sự quốc tế; phân tích làm rõ một số điều khoản về luật hình sự quốc tế và quyền con người. Hệ thống hóa một số quy định về nhân quyền của một số nước, khu vực trên thế giới, các quy định pháp luật về tòa án hình sự quốc tế; phân tích, so sánh, đánh giá, tìm ra hạn chế của các quy định về quyền con người của một số khu vực. Đề xuất một vài phương án nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về quyền con người trong pháp luật hình sự; phương án hoàn thiện quy định pháp luật của Việt Nam về hoạt động quyền con người trong luật hình sự. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Đề tài “Bảo vệ quyền con người trong vấn đề luật hình sự theo pháp luật quốc tế” được lựa chọn không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động về quyền con người trong pháp luật hình sự quốc tế mà còn nêu lên được những tồn tại, thiếu sót của hệ thống pháp 5 luật điều chỉnh hoạt động nêu trên trên cơ sở phân tích các vấn đề thực tiễn, kết hợp so sánh, từ đó đề xuất một vài phương án nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền con người trong luật hình sự quốc tế. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quyền con người trong lĩnh vực hình sự theo luật quốc tế. Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật về hoạt động nhân quyền trong vấn đề luật hình sự theo pháp luật quốc tế. 6. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử cho việc nghiên cứu đề tài. Ngoài ra, là các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống như: phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp... Các phương pháp này sẽ giúp học viên trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. 7. Kết cấu của luân văn Ngoài phần lời mở đầ u ; phần kế t luận và danh mục tài liệu tham khảo , nội dung của luận văn được kết cầu gồm ba chương: Chương 1. Khái quát chung về quyền con người và luật hình sự quốc tế về bảo vệ quyền con người; Chương 2. Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật nước ngoài và luật hình sự quốc tế; Chương 3. Bảo vệ quyền con người theo pháp luật Việt Nam so với luật quốc tế: Một số kiến nghị, giải pháp. 6 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ LUẬT HÌNH SỰ QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI 1.1. Khái niệm quyền con người [34] và bảo vệ quyền con người Theo tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa khác nhau về quyền con người [34, 40, p.4]. Ý thức về tôn trọng quyền con người và việc bảo vệ quyền con người là một quá trình lịch sử lâu dài, liên tục và luôn gắn liền với lịch sử phát triển của loài người, quyền con người cũng được khẳng định thông qua các hình thái kính tế-xã hội khác nhau, qua đó quyền con người đã trở thành giá trị cao quý chung của nhân loại và được cộng đồng quốc tế công nhận. Quyền con người được thể hiện thông qua các yếu tố như: bình đẳng, tự do, bác ái, nhân văn, lòng bao dung, công lý, những khách thể quan trọng này luôn được luật hình sự nói chung và luật hình sự quốc tế nói riêng bảo vệ nhằm tránh cho con người khỏi sự xâm hại của những vi phạm pháp luật ở mức độ cao nhất [34]. Tư tưởng về quyền con người và việc bảo vệ quyền này đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử của nhân loại [35]. Từ sau thế chiến thứ hai, các nước xã hội chủ nghĩa đã nêu các quyền dân tộc cơ bản như một bộ phận thiết yếu của các quyền tập thể, qua đó đề cập một cách toàn diện và biện chứng hơn về quyền con người [4]. Ở châu Âu lục địa, tư tưởng về quyền tự nhiên của con người ngày càng trở nên phổ biến. Các đại diện tiêu biểu cho tư tưởng này như: Lôccơ (Anh), Rútxô (Pháp), Xpinôda (Hà Lan), I. Can tơ, Pruphenđóocphơ (Đức), Jepphécxơn (Hoa Kỳ) [11, tr.15]. Mặc dù, khái niệm quyền con người đương đại chủ yếu bắt nguồn từ châu Âu, nhưng ngày nay 7 những khái niệm cơ bản về quyền con người, về tự do và công bằng xã hội đã có tính chất phổ quát trên toàn thế giới. Các nội dung đầu tiên về quyền con người có thể đã được ghi nhận trong các Hiệp định về quyền tự do tôn giáo; Công ước Westphalia năm 1648 và việc cấm chế độ chiếm hữu nô lệ như Tuyên ngôn về việc buôn bán nô lệ của Quốc hội Vienna vào năm 1815; việc sáng lập xã hội chống chế độ chiếm hữu nô lệ Hoa Kỳ năm 1833; Công ước về chống chế độ chiếm hữu nô lệ năm 1926 [38, tr.13] v.v... Trong các công trình nghiên cứu về quyền con người, chúng ta có thể nhấn mạnh đến hai văn bản nổi tiếng và có nhiều ý nghĩa cho đến ngày nay, đó là: Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789. Theo đó, Tuyên ngôn đã khẳng định rằng: những chân lý đã được công nhận như những sự thật hiển nhiên là tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng; tạo hóa đã cho họ các quyền không thể thay thế được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc [43]. Đây là những văn bản thực định xác nhận chính thức về mặt pháp lý của Nhà nước đối với quyền con người và việc bảo vệ quyền con người. Như vậy, cốt lõi của khái niệm quyền con người là khát vọng bảo vệ nhân phẩm của tất cả con người hay điều cốt yếu là các quyền con người phải được bảo vệ bằng pháp luật, gồm pháp luật quốc gia (bao gồm luật hình sự) và pháp luật quốc tế (bao gồm luật hình sự quốc tế) [21]. Các quyền con người cần được bảo vệ bằng luật quốc tế nói chung, luật hình sự và luật hình sự quốc tế nói riêng [30] đã ghi nhận cụ thể trong ba văn kiện quốc tế quan trọng về quyền con người của Liên hợp quốc, cụ thể là: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (UDHR) năm 1948; hai Công ước về: các quyền dân sự, chính trị (ICCPR); và về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) năm 1966. Tổng thể các quyền con người đã được ghi nhận và được bảo vệ bằng pháp luật quốc tế, luật hình sự và luật hình sự quốc tế, cần được các quốc gia, dân 8 tộc và các tổ chức, cũng như mọi người trên toàn thế giới tôn trọng, thực thi và bảo vệ. Trong số các quyền này, có các quyền được bảo vệ trực tiếp bằng luật hình sự nói chung và luật hình sự quốc tế nói riêng (trên các bình diện nội dung và trình tự, cũng như thủ tục xét xử), như: quyền sống; quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền được bảo vệ không bị bắt làm nô lệ; quyền được bảo vệ để không bị tra tấn; quyền được bồi thường về mặt pháp lý khi bị vi phạm; quyền được bảo vệ khỏi bị bắt giữ, giam cầm hoặc lưu đầy một cách tùy tiện; quyền được xét xử bởi một Tòa án độc lập và không thiên vị; quyền được suy đoán vô tội; quyền được bảo vệ không bị áp dụng luật hồi tố; quyền về sức khỏe; quyền được đối xử nhân đạo khi bị tước tự do. Ở Việt Nam, quyền con người, các quyền và tự do cơ bản của con người lần đầu tiên đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946 (Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa). Tuyên ngôn độc lập đã nhấn mạnh rằng tất cả con người và tất cả các dân tộc trên thế giới đều có quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Do đó, quyền con người không chỉ là quyền của cá nhân mà còn là quyền của mỗi dân tộc, của các dân tộc. Hai quyền này thống nhất và làm tiền đề cho nhau vì bảo vệ quyền con người cũng chính là bảo vệ quyền của mỗi dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Nói một cách khác, khi quyền dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ được bảo đảm, thì quyền con người của mỗi con người trong các quốc gia đó mới được tôn trọng, bảo vệ và có điều kiện phát triển. Bảo vệ và phát triển quyền con người là thước đo văn minh, dân chủ và thể hiện bản chất nhân đạo của một Nhà nước. Những tiến bộ trong việc thực hiện quyền con người thông qua việc thực hiện các thế hệ quyền con người trong lịch sử nhân loại cho thấy, để đạt được thành quả này làm một quá trình đấu tranh của các dân tộc bị áp bức 9 nhằm đòi các quyền vốn thuộc về họ, về mỗi con người, chống lại các chế độ thực dân, phong kiến và các chế độ bóc lột khác. Để hiện thực hóa quyền con người, các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người đã được ban hành, ví dụ như: như Hiến chương Liên hợp quốc đã khẳng định mục tiêu, quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của Liên hợp quốc trong việc bảo vệ, thúc đẩy tôn trọng các quyền và quyền tự do cơ bản của con người trên toàn thế giới. Tuyên ngôn thế giới năm 1948 về quyền con người được xem là một trong những kết quả có tính nhân văn nhất của Liên hợp quốc, đồng thời có ý nghĩa lịch sử vì đã xây dựng được những chuẩn mực chung về quyền con người cho tất cả các quốc gia và các dân tộc. Ngày 10/12 hàng năm là “Ngày Nhân quyền thế giới”. Như vậy, quyền con người được pháp điển hóa trong các Công ước quốc tế ở các cấp độ khác nhau về nhân quyền, đầu tiên là “Bộ luật” [12] quốc tế về nhân quyền và sau đó là các Công ước quốc tế khác về nhân quyền, trong đó quan trọng nhất là hai Công ước về các quyền dân sự, chính trị và về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 [14]. Chúng ta có thể nhận thấy rằng để bảo vệ các quyền của con người nói trên cần cần phải được thực hiện trên cơ sở hai bình diện: i) trên cơ sở luật định (quốc gia và quốc tế), tức là các quyền của con người cần được luật hóa thông qua các hệ thống pháp luật: luật quốc tế (phổ cập, khu vực và liên khu vực), luật quốc gia và các điều ước song phương; ii) việc đảm bảo thực thi pháp luật trên thức tế. Vậy, khái niệm về bảo vệ quyền con người có thể được hiểu như sau: bảo vệ quyền con người (các cá nhân) là một quá trình, là trách nhiệm của cả xã hội (quốc gia và cộng đồng quốc tế). Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau (kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa…) trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu và là tiên quyết nhất trong việc bảo vệ quyền con người. Về khía cạnh pháp lý, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con 10 người là hệ thống các quy định trong hệ thống pháp luật nhằm cụ thể hóa, bảo đảm thực hiện bảo vệ quyền con người và cơ chế bảo đảm thực hiện các quy định đó trong thực tiễn đời sống. Như vậy, từ việc nghiên cứu khái quát lý luận về quyền con người và bảo vệ quyền con người đã nêu cho thấy, dưới góc độ khoa học thì quyền con người là những đặc quyền vốn có tự nhiên của con người, chỉ có con người mới có và các quyền này phải được bảo vệ bằng pháp luật quốc gia và quốc tế, trong đó có luật hình sự và luật hình sự quốc tế. Nội dung của việc bảo vệ quyền con người bằng luật hình sự và luật hình sự quốc tế, hay vai trò của luật hình sự và luật hình sự quốc tế với việc bảo vệ quyền con người sẽ được học viên nghiên cứu và thực hiện trong luận văn này. 1.2. Vấn đề quyền con người và quyền công dân [2] Quyền con người là những quyền tự nhiên của con người và không thể bị tước bỏ bởi bất cứ ai và với bất cứ chính thể nào. Các quyền không thể bị tước bỏ bao gồm: quyền được sống; quyền tự do; quyền mưu cầu hạnh phúc; và quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật. Trong xã hội quốc tế hiện đại, địa vị pháp lý của con người đã được luật quốc tế bảo vệ, điều đó đã được ghi nhận trong các văn bản luật quốc tế quan trọng, như: Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 (điều 6); Công ước về quyền dân sự và quyền chính trị năm 1966 (điều 2), Việt Nam gia nhập Công ước này năm 1982; Công ước về bảo vệ quyền của kiều dân và gia đình, thành viên gia đình của họ năm 1990 (điều 8); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979 (đã được 182 quốc gia phê chuẩn mặc dù còn nhiều bảo lưu); Công ước LHQ về quyền trẻ em năm 1989 (có 192 quốc gia thành viên, Việt Nam đã phê chuẩn hai Nghị định thư bổ sung cho Công ước Quyền trẻ em, trong đó Việt Nam đã công nhận thẩm 11 quyền của Ủy ban giám sát Công ước Quyền trẻ em); Công ước về việc ngăn cấm và trừng phạt tội diệt chủng năm 1948; Công ước về chống tra tấn và trừng phạt hay đối xử tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục năm 1984 (Công ước này đã được Việt Nam phê chuẩn bằng Nghị quyết 83/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8); Công ước về việc xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965; Công ước của LHQ về quyền của người khuyết tật năm 2007 (Việt Nam đã Phê chuẩn Công ước này bằng Nghị quyết 84/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 8). Khái niệm quyền con người là khái niệm về phẩm giá vốn có của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và các Công ước năm 1966 về chính trị và dân sự, về kinh tế, văn hóa và xã hội. Các Công ước này cũng ghi nhận ý tưởng về con người tự do trong việc hưởng quyền tự do khỏi sự sợ hãi, tự do làm điều mong muốn và được hưởng các quyền bình đẳng và không thể chuyển nhượng. Quyền con người mang tính phổ quát có nghĩa là chúng được áp dụng ở khắp nơi và không thể lấy đi hay bị tước đoạt. Thể nhân có quyền được bảo vệ quyền lợi của mình ở tòa án quốc tế khu vực, ví dụ như các đơn khiếu kiện đã trở thành đối tượng xem xét của các tổ chức quốc tế. Quyền của cá nhân được đệ trình lên toà án quốc tế đã được ghi nhận tại điều 25 của Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người năm 1950. Theo đó, bất kỳ cá nhân nào đều có quyền gửi đơn thỉnh cầu đến Hội đồng châu Âu về quyền con người. Đơn khiếu kiện cần phải đưa ra những dẫn chứng cụ thể, thuyết phục về việc vi phạm nhân quyền đối với người làm đơn do Nhà nước đã tham gia Công ước gây ra. Đơn được lưu trữ tại Ban thư ký của Hội đồng châu Âu và 12 được xem xét chỉ sau khi mọi biện pháp, phương tiện pháp lý đã được áp dụng trong nước theo khuôn khổ của luật quốc tế nhưng không có kết quả, trong thời hạn sáu tháng kể từ khi các cơ quan pháp lý trong nước có quyết định cuối cùng về vụ việc này. Thể nhân là chủ thể trách nhiệm hình sự quốc tế khi là tội phạm quốc tế, thực tiễn đã có các vụ việc xét xử quốc tế để minh chứng cho vấn đề này. Ví dụ theo Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng năm 1948, những cá nhân gây nên nạn diệt chủng, đồng phạm diệt chủng, âm mưu, kích động và những ý định thực hiện việc diệt chủng sẽ bị trừng phạt mà không phụ thuộc vào việc người đó là lãnh đạo một quốc gia hay thường dân. Tội phạm diệt chủng bị xét xử bởi toà án quốc gia (Ví dụ, Nuon Chea (89 tuổi) và Khieu Samphan (84 tuổi) là những thủ lĩnh đầu tiên của chế độ Khmer Đỏ lĩnh án tù trung thân do Tòa án Campuchia ra phán quyết ngày 07/8/2014 vì "phạm tội ác chống lại loài người, diệt chủng, đàn áp chính trị cùng những hành vi vô nhân đạo khác khác") [42] nơi xảy ra hành vi diệt chủng hoặc bởi Toà án hình sự quốc tế. Toà do các quốc gia thành viên tham gia Công ước hoặc LHQ lập ra. Như vậy, quyền con người đã được định nghĩa thông qua những đặc tính cơ bản của nó. Theo Văn phòng Cao ủy LHQ thì quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự cho phép và tự do cơ bản của con người. Điều đó có nghĩa là mọi người đều có quyền con người từ khi vừa được sinh ra, bởi họ là con người và quyền đó được công nhận trên phạm vi toàn cầu. Con người từ khi được hiện diện trên trái đất cho đến nay vẫn chưa thể thống nhất được hai quan điểm về nhân quyền: hoặc coi quyền con người 13 là quyền tự nhiên; hoặc coi quyền con người là quyền pháp lý. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, cộng đồng quốc tế đã đi đến thống nhất khi thông qua Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948, trong đó đã khẳng định quyền con người là quyền bẩm sinh vốn có, là sự bình đẳng với nhau ở tất cả mọi người, ở mọi xã hội. Quyền đó không thể bị tước đoạt hay hạn chế tùy tiện bởi bất cứ ai, bất cứ nhà nước hay bởi một thể chế nào, nó không thể bị phân chia và hạn chế bất cứ một phần hay toàn bộ các quyền của con người. Các văn bản quan trọng nhất về quyền con người của nhân loại là: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và hai công ước năm 1966 của LHQ về: các quyền chính trị, dân sự; và các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Đa số các quốc gia (trong đó có Việt Nam) đều đã ký kết và gia nhập và đang thực hiện hóa nội dung của các văn kiện phổ cập này trong thực tiễn [43]. Tại các quốc gia, con người trở thành các cá nhân bình đẳng với nhau trong một Nhà nước và các quyền tự nhiên được cụ thể hóa thành các quyền công dân trong pháp luật. Như vậy, quyền công dân chưa phải là hình thức cuối cùng, toàn diện nhất và đồng nhất với quyền con người. Quyền công dân của nước nào sẽ được luật pháp nước đó quy định cho người mang quốc tịch của nước đó. Tức là, quyền công dân bó hẹp trong mối quan hệ của một Nhà nước với cá nhân. Nhưng chúng ta cần biết rằng mọi cá nhân trong một quốc gia đồng thời là chủ thể của hai quyền: quyền con người và quyền công dân. Điều đó đã lý giải cho câu hỏi: tại sao quyền con người và quyền công dân từ lâu đã là một trong những nội dung cơ bản được ghi nhận trong nhiều Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới [20], tuy nhiên cần tránh việc các quy định của văn bản dưới Hiến pháp vô tình hay cố ý thu hẹp lại các quyền của con người theo hiến định [16, tr. 60]. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan