Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam...

Tài liệu Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam

.PDF
86
906
67

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ HOA BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ HOA BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn HÀ NỘI - 2010 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tình hình thực tế hiện nay, tài sản vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị kinh tế, trong điều kiện kinh tế thị trường nó trở thành yếu tố quan trọng trong giao lưu dân sự. Với vai trò và ý nghĩa to lớn đó, theo quy định của Bộ luật dân sự, để phát huy quyền chủ động của các cơ quan nhà nước và cá nhân trong quá trình xử lý tài sản, để quản lý tài sản được chặt chẽ, hạn chế những tiêu cực phát sinh trong quá trình quản lý và sử dụng tài sản cần thiết phải có những quy đinh chặt chẽ hơn trong quá trình bán đấu giá tài sản. Hơn nữa, Nghị quyết 08 NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, cùng với tiến trình hội nhập quốc tế yêu cầu nghiệp vụ bán đấu giá tăng cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý Việt Nam, nội dung bán đấu giá tài sản vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và toàn diện. Chẳng hạn, dưới góc độ khoa học, hàng loạt vấn đề cần được làm sáng tỏ để có quan điểm thống nhất và đầy đủ như lịch sử, khái niệm, bản chất pháp lý và các loại tài sản bán đấu giá, lịch sử phát triển của các quy phạm về lĩnh vực này, tìm hiểu pháp luật các nước có quy định về bán đấu giá tài sản hay việc tổng kết và đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định về bán đấu giá tài sản, các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng... Mặc dù, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 về bán đấu giá tài sản (sau đây gọi tắt là Nghị định 05/2005/NĐ-CP) và Thông tư số 03/2005/TT-BTP ngày 4/5/2005 hướng dẫn một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP. Tuy nhiên, sau 3 năm thực hiện Nghị định 05/2005/NĐ-CP đã bộc lộ một số bất cập, vướng mắc và có nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn, để đáp ứng yêu cầu này, gần đây Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 4/3/2010 thay thế Nghị định số 05/2005/2005/NĐ-CP có hiệu lực ngày 1/7/2010 (sau đây 1 gọi tắt là Nghị định 17/2010/NĐ-CP). Nghị định này mới ra đời và chưa có thông tư hướng dẫn, điều này dẫn đến việc mức thu phí bán đấu giá đối với người tham gia đấu giá tài sản ở nhiều địa phương chưa đảm bảo được chi phí cho các tổ chức đấu giá hoạt động theo cơ chế "tự thu, tự chi"; tình trạng người bị thi hành án gây khó khăn trong quá trình bán đấu giá tài sản... Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận và thực tiễn về bán đấu giá tài sản, sự thể hiện chúng trong các quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời đánh giá việc áp dụng những quy định của pháp luật trong thực tiễn để đưa ra kiến giải lập pháp, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về lĩnh vực này trong giai đoạn hiện nay, không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Từ những vấn đề trên, tác giả luận văn chọn đề tài "Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam hiên nay " để làm luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật dân sự. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề bán đấu giá tài sản không còn mới về mặt lý luận nhưng luôn mang tính mới mẻ về mặt thực tiễn. Ở nước ta hiện nay, liên quan tới vấn đề này hiện có một số bài nghiên cứu từ các tạp chí, cụ thể là: ThS. Nguyễn Thị Nga: "Lý luận và thực tiễn đấu giá quyền sử dụng đất", Tạp chí Luật học, số 5/2004; Đỗ Khắc Trung: "Bán đấu giá tài sản - thực trạng và hướng hoàn thiện", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2007; Nguyễn Mạnh Cường: : "So sánh đấu giá hàng hóa trong luật Thương mại với đấu giá tài sản trong Luật Dân sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2008; Đặng Thị Bích Liễu: "Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở Việt Nam", Luận án Tiến sĩ Luật học; Bộ Tư pháp - Vụ Bổ trợ Tư pháp: Các quy định nước ngoài về bán đấu giá tài sản, Luật về bán đấu giá tài sản của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, (Tài liệu dịch tham khảo) tháng 7, 2004. Như vậy, bán đấu giá tài sản đang được thực hiện khá phổ biến, tuy nhiên những vấn đề pháp lý về bán đấu giá tài sản vẫn chưa được luận giải một cách có hệ thống, sâu sắc và đầy đủ của khoa học pháp lý. 2 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích, đánh giá, tổng kết các quan hệ về bán đấu giá tài sản để làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn về những nội dung cơ bản của nghiệp vụ bán đấu giá tài sản theo luật dân sự Việt Nam và việc áp dụng những quy định này trong thực tiễn, từ đó xác định những bất cập để đề xuất kiến giải lập pháp. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của nghiệp vụ bán đấu giá tài sản cho đến nay, phân tích khái niệm, các loại tài sản bán đấu giá, chủ thể tham gia bán đấu giá, các đơn vị được tiến hành bán đấu giá, trình tự và thủ tục bán đấu giá trong các quy định hiện hành để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của nghiệp vụ bán đấu giá theo quy định của pháp luật Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm pháp luật về nghiệp vụ bán đấu giá trong thực tiễn nước ta, đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh việc quy định nghiệp vụ bán đấu giá và thực tiễn áp dụng nhằm đề xuất và luận chứng sự cần thiết phải hoàn thiện và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về nghiệp vụ này trong pháp luật Việt Nam. 3.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về bán đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam cụ thể là: lịch sử hình thành và khái niệm bán đấu giá tài sản, chủ thể tham gia bán đấu giá, hình thức và trình tự, thủ tục bán đấu giá trong các quy định hiện hành. 3 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nghiệp vụ bán đấu giá tài sản. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. - Các phương pháp cụ thể: phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp. 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về bán đấu giá. - Phân tích thực trạng bán đấu giá tài sản hiện nay. - Đánh giá được những điểm mới của Nghị định 17/2010/NĐ-CP. - Phân tích bình luận trình tự thủ tục bán đấu giá theo Nghị định 17/2010/NĐ-CP, tìm một số bất cập của Nghị định 17/2010/NĐ-CP, trên cơ sở đó đưa ra hướng hoàn thiện Nghị định 17/2010/NĐ-CP và ban hành văn bản hướng dẫn Nghị định 17/2010/NĐ-CP. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về bán đấu giá tài sản. Chương 2: Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản theo pháp luật hiện nay. Chương 3: Thực trạng bán đấu giá và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản. 4 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN 1.1.1. Sơ lược lịch sử đấu giá tài sản trên thế giới Hiện nay, đấu giá là đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã hội. Thậm chí, đấu giá có thể ảnh hưởng gián tiếp tới cuộc sống của chúng ta. Giá trị của con đường, giá vé máy bay, hay nhà ở đều chịu sự tác động rất lớn của vấn đề bán đấu giá. Đấu giá có một lịch sử lâu dài, đã được ghi nhận sớm nhất là năm 500 TCN theo Herodotus, ở Babylon đấu giá phụ nữ để đạt mục đích hôn nhân được tổ chức hàng năm. Nếu phụ nữ được bán ngoài hình thức bán đấu giá sẽ bị coi là bất hợp pháp. Trong suốt thời Đế chế La Mã, sau chiến thắng quân sự, binh sĩ La Mã thường thu lượm chiến lợi phẩm được để lại để bán đấu giá. Sau đó nô lệ thường bị bắt như là chiến lợi phẩm "của" chiến tranh, đã được bán đấu giá tại các đấu trường, với số tiền thu được sẽ hướng tới dự trữ cho chiến tranh. Người La Mã cũng sử dụng đấu giá để thanh lý tài sản của người phải thi hành án mà tài sản đã bị tịch thu.Ví dụ, Marcus Aurelius bán đồ nội thất gia đình để trả hết nợ, bán hàng kéo dài trong nhiều tháng. Một trong những cuộc đấu giá lịch sử quan trọng diễn ra vào năm 193 sau công nguyên, khi toàn bộ Đế chế La Mã đã được đưa vào khối bán đấu giá của Praetorian Guard. Ngày 23/3, Bộ đội Praetorian giết hoàng đế đầu tiên Pertinax, sau đó đưa ra đế chế cho người trả giá cao nhất. Didius Julianus chào bán mọi người khác cho giá 6.250 drachmas (tiền Hy Lạp), một hành động có ý nghĩa khởi xướng cho một cuộc chiến không bom đạn. Didius sau đó bị xử tử hai tháng sau khi Septimius Severus đã chinh phục La Mã. Thời kỳ cuối của đế quốc La Mã 5 vào thế kỷ 18, các cuộc bán đấu giá không được tán thành ở châu Âu, trong khi chúng chưa bao giờ được phổ biến rộng rãi ở châu Á. Thế kỷ 18 ở Trung Quốc, gốm từ lâu đã trở thành một mặt hàng chủ yếu tại các gian hàng nghệ thuật. Năm 2005, vào thế kỷ 14 gốm Trung Quốc đã được bán bởi Christie với giá 15.680.000 £ hoặc 30.600.000 $. Nó lập một kỷ lục đấu giá thế giới cho nghệ thuật gốm. Từ "đấu giá", có nguồn gốc từ tiếng Latin, có nghĩa là "tăng" hoặc "tăng thêm". Suốt chiều dài lịch sử, bán đấu giá đã được thực hiện một cách tương đối phổ biến để thỏa thuận việc trao đổi hàng hóa. Trong thực tế, cả hai đều mặc cả và bán theo giá khởi điểm càng được phổ biến hơn. Quả thực, trước thế kỷ XVII vài cuộc đấu giá được tổ chức một cách tản mạn. Ở Anh vào thế kỷ XVII và XVIII, bán đấu giá đèn cầy đã được sử dụng cho việc bán hàng hóa và thuê bất động sản. Bán đấu giá theo hình thức này bắt đầu bằng ánh sáng một ngọn đèn cầy sau đó giá đề nghị được đưa ra theo thứ tự tăng dần cho đến khi ra ánh đèn lụi dần. Giá đưa ra cao nhất tại thời điểm tắt ngọn đèn chính là giá bán. Trong thời gian cuối thế kỷ 18, ngay sau khi Cách mạng Pháp, đấu giá đã được tổ chức tại quán ăn và những quán cà phê để bán các tác phẩm nghệ thuật. Những cuộc đấu giá như vậy được tổ chức hàng ngày, và danh mục sản phẩm được thông báo trước một cách chi tiết đặc biệt đối với các vật phẩm quý hiếm hoặc những công trình nghệ thuật phức tạp. Ngôi nhà đấu giá lâu đời nhất trên thế giới là Stockholm (Stockholms Auktionsverk). Nó được thành lập tại Thụy Điển vào năm 1674. Sotheby là ngôi nhà đấu giá lớn thứ hai của thế giới, đã tổ chức bán đấu giá đầu tiên vào năm 1744. Còn Christie là ngôi nhà đấu giá lớn nhất thế giới, được thành lập khoảng năm 1766. Các ngôi nhà bán đấu giá vẫn còn hoạt động bao gồm Dorotheum (1707), Bonhams (1793), Phillips de Pury và Company (1796), Freeman (1805) và Lyon & Turnbull (1826). Trong lịch sử đấu giá thì thế giới 6 còn biết đến bức tượng cổ Artemis ở Hy Lạp được điêu khắc bằng đá cẩm thạch. Trong năm 2007, một đồng La Mã có điêu khắc "Artemis và Stag" đã được bán tại Sotheby tại New York ở Hoa Kỳ với giá 28.600.000 $, vượt xa so với ước tính của nó và thiết lập kỷ lục mới là tác phẩm điêu khắc đắt giá nhất cũng như được giao bán trong một cuộc bán đấu giá. Mặc dù những cuộc bán đấu giá ra đời từ rất lâu và lần đầu tiên chúng đã được phân tích có hệ thống vào năm 1961 bằng cách sử dụng các phương tiện của cuộc bán đấu giá. Vickrey chứng minh cân bằng đối với những cuộc bán đấu giá và cũng đã chứng minh làm thế nào để những cuộc bán đấu giá khác nhau được tính toán và có thể tạo ra doanh thu bán tương đương. Vickrey đoạt giải Nobel Kinh tế năm 1996. Thời kỳ hiện đại của học thuyết có thể được xác định là năm 19931994 với cách mạng đấu giá rộng rãi phổ tần số ở Mỹ, theo Paul Milgrom trong "học thuyết đấu giá để làm việc". Việc thay đổi đã lôi cuốn được sự chú ý của công chúng đối với học thuyết bán đấu giá, và nhiều phiên đấu giá đã diễn ra kể từ đó, kể cả bán đấu giá gỗ, đấu giá khí thải, và bán đấu giá tài sản. Đấu giá là một thị trường đặc biệt mà tài sản được bán cho người trả giá cao nhất. Nhìn chung, có ba thành phần chính để tạo nên một cuộc bán đấu giá:  Người mua là người có nhu cầu mua sản phẩm  Người bán là người cung cấp một sản phẩm  Tổ chức bán đấu giá đóng vai trò giám sát thị trường Như vậy, có thể nhận thấy, sẽ tồn tại các kiểu trả giá, các hình thức của người bán, và các quy tắc bán đấu giá có thể dẫn đến những kết quả cực kỳ khác nhau, sẽ có một số phiên đấu giá có thể thuận lợi cho người mua, người bán và tổ chức bán đấu giá. Những cuộc đấu giá khác nhau mang 7 những đặc điểm riêng về chủ thể tham gia. Có rất nhiều biến thể về hình thức bán đấu giá cơ bản, bao gồm giới hạn thời gian, giới hạn tối thiểu hoặc tối đa của giá đề nghị, và các quy tắc đặc biệt để xác định người mua được hàng và giá bán. Những người tham gia đấu giá có thể có hoặc có thể không biết nhân thân hoặc các hành động của người tham gia khác. Tùy thuộc vào đấu giá, người tham gia có thể tham gia trực tiếp hoặc từ xa thông qua một loạt các phương tiện, bao gồm cả điện thoại và internet. Người bán thường chi trả hoa hồng cho tổ chức bán đấu giá hoặc công ty bán đấu giá trên cơ sở một tỷ lệ phần trăm của giá bán Tuy nhiên, một thực tế thường xuất hiện trong các cuộc bán đấu giá đó là sự thông đồng từ phía những người tham gia. Bất cứ khi nào người tham gia tại một phiên đấu giá nhận thức được sự đồng nhất với những người tham gia khác về mặt lợi ích, sẽ xuất hiện nguy cơ là họ sẽ thông đồng để điều khiển kết quả đấu giá. Bằng cách đồng ý trả giá chỉ đối với người ngoài, không bao giờ chống lại các thành viên của hội, từ đó mức độ cạnh tranh trở nên yếu hơn, điều này có thể ảnh hưởng đáng kể đến mức giá cuối cùng. Sau khi kết thúc chính thức phiên đấu giá, đấu giá không chính thức sẽ diễn ra trong vòng giữa thành viên. Sự khác biệt về giá giữa đấu giá sau đó sẽ được phân chia giữa các thành viên. Ngược lại, chủ sở hữu của tài sản bán đấu giá có thể tăng cạnh tranh bằng việc tự mình đóng vai trò là người tham gia trả giá. Ở Anh và nhiều nước khác và trả giá trên đối tượng của chính mình bị coi là bất hợp pháp. Trong một phiên đấu giá kín ở Anh, một giá giả mạo là một giá được đưa ra bởi một người tham gia thông đồng với người bán đấu giá hoặc các nhà cung cấp, được thiết kế để đánh lừa những người tham gia trả tiền nhiều hơn. Ở Úc, cò mồi là một tội hình sự nhưng một nhà cung cấp giá hoặc chào giá là đồng sở hữu khi đưa mức dưới giá khởi điểm là được phép, nếu được khai báo bởi người bán đấu giá. Tại Thụy Điển và nhiều nước khác 8 không có quy định pháp lý, nhưng nó sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới uy tín của một tổ chức bán đấu giá. Mỗi hình thức bán đấu giá có đặc tính riêng như độ chính xác giá cả và thời gian cần thiết để chuẩn bị và tiến hành đấu giá. Tầm quan trọng của số lượng những người tham gia. Mở phiên đấu giá trong một khoảng thời gian dài với nhiều người tham gia thì giá cuối cùng đưa ra sẽ sát với giá trị thị trường. Trường hợp có vài người tham gia và họ chỉ được cho phép đưa ra một giá, thời gian được lưu, nhưng giá trúng có thể không phản ánh đúng giá trị thị trường với bất kỳ mức độ chính xác. Giá trị đặc biệt và tầm quan trọng trong quá trình bán đấu giá thực tế là thời gian trôi qua kể từ thời điểm đó giá đầu tiên được tiết lộ vào thời điểm kết thúc giá thầu đã trở thành một thỏa thuận ràng buộc. Mặc dù hình thức mua bán đấu giá ở nước ngoài đã và đang hết sức phổ biến như đấu giá nông trại ở Úc, giấy phép sử dụng các phần của quang phổ điện cho truyền thông (ví dụ như mạng điện thoại di động). Thị trường điện tử tư nhân sử dụng các kỹ thuật bán đấu giá tổ hợp để liên tục bán hàng hóa (than, quặng sắt, ngũ cốc, nước...) cho một nhóm người mua (dựa trên giá cả và giá các yếu tố phi giá cả); đấu giá gỗ, trong đó các công ty mua giấy phép để kết nối với đất đai của chính phủ; những cuộc đấu giá phân phát gỗ, trong đó các công ty mua gỗ trực tiếp từ đấu giá rừng của chính phủ; đấu giá điện, trong đó quy mô lớn máy phát điện và người tiêu dùng điện vào việc tạo ra giá thầu hợp đồng; đấu giá môi trường, trong đó công ty dự thầu mua các giấy phép để tránh bị yêu cầu giảm tác động môi trường; hay công việc kinh doanh đồ cổ, ngoài việc đóng vai trò là một cơ hội cho hoạt động thương mại, chúng cũng phục vụ như là sự kiện xã hội và giải trí với các tài sản như: tem, tiền xu, xe hơi cổ điển, mỹ thuật…; đấu giá bất động sản bao gồm cả bất động sản khu dân cư và thương mại, trang trại, lô đất bỏ trống và đất đai; bán đấu giá các loại hàng cũ, đặc biệt là đối với các thiết bị nông nghiệp hoặc bán máy 9 móc công nghiệp không sử dụng đến hoặc thông qua thủ tục phá sản; trong các ngữ cảnh pháp lý, bán đấu giá buộc phải diễn ra, như khi trang trại hoặc nhà ở được bán đấu giá theo các bước tòa án; vé du lịch ở Thụy Điển. Các cuộc đấu giá này được thực hiện với các trang web như ebay.com, Yahoo Auction... Như vậy, lịch sử về bán đấu giá tài sản đã xuất hiện từ rất lâu gắn liền với tiến trình phát triển của kinh tế - xã hội của một quốc gia. Ngày nay, khi kinh tế, khoa học công nghệ phát triển thì hình thức bán đấu giá tài sản cũng đa dạng, số lượng người tham gia đấu giá ngày càng nhiều, không chỉ công dân của một quốc gia tham gia mà công dân các nước trên thế giới cũng có thể tham gia đấu giá tài sản qua mạng INTENET. Điều đó chứng tỏ bán đấu giá là hình thức mua bán tài sản thông dụng, rộng rãi tạo điều kiện cho việc bán tài sản với giá cao, đem lại lợi ích tốt nhất cho người bán tài sản. 1.1.2. Sự phát triển của pháp luật Việt Nam về đấu giá tài sản Bán đấu giá tài sản và nhu cầu mua tài sản đấu giá xuất hiện từ nhu cầu nội tại của nền kinh tế, của các chủ thể tham gia quan hệ thị trường. Tuy nhiên, ở nước ta trong thời kỳ nền kinh tế tập trung hầu như không có hình thức bán đấu giá và trong một thời gian dài quan hệ mua bán tài sản đấu giá chỉ được thực hiện để thi hành án, phục vụ cho hoạt động tư pháp chứ chưa thực sự là hoạt động mua bán mang tính chất thị trường. Văn bản quy định việc bán đấu giá tài sản do Thông tư liên ngành Tòa án, Viện kiểm sát, Bộ Tư pháp ban hành số 06-89/TTLN ngày 7 tháng 12 năm 1989 hướng dẫn về việc thi hành án đã quy định về trình tự thủ tục tiến hành bán đấu giá tài sản để thi hành án. Thông tư trên chưa đề cập đến việc bán đấu giá tài sản khi có nhu cầu cần thiết của chủ sở hữu tài sản. Hoạt động này đơn thuần là một giao dịch dân sự nhưng mang tính bắt buộc, nên chưa hướng dẫn một cách đầy đủ trình tự bán đấu giá một cách cơ bản. Chẳng hạn, Thông tư quy định: "Việc bán đấu giá nhà được tiến hành tại nơi có nhà. Đối với các tài sản khác chấp hành viên có thể tiến hành bán đấu giá tại nơi có tài sản hoặc tại một 10 địa điểm thuận lợi khác. Nếu bán đấu giá tại trụ sở Tòa án thì không để ảnh hưởng đến sự hoạt động của cơ quan" [31]. Quy định trên cho thấy chưa có được một địa điểm bán đấu giá ổn định, chuyên về bán đấu giá mà được tiến hành một cách ngẫu nhiên tùy theo tài sản và sự lựa chọn của chấp hành viên thậm chí có thể được tiến hành tại trụ sở của Tòa án. Để thực thi việc thi hành án dân sự có hiệu quả, ngày 26-4-1993, Pháp lệnh Thi hành án dân sự ra đời quy định trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, trong đó quy định cụ thể trình tự bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự, còn việc bán đấu giá tài sản trong giao lưu dân sự chưa được điều chỉnh. Điều đó phần nào cho thấy cơ chế thị trường vào thời kỳ này chưa phát triển, nhu cầu bán đấu giá tài sản của nhân dân ta chưa nhiều. Hơn nữa, việc bán đấu giá tài sản và quản lý bán đấu giá tài sản trong thời kỳ này chưa đạt hiệu quả cao. Nguyên nhân cơ bản tập trung vào sự thiếu một thể chế hoàn chỉnh, một đội ngũ Chấp hành viên bán đấu giá đủ năng lực và cơ sở vật chất tương đối đầy đủ để phục vụ cho việc tiến hành bán đấu giá. Khi Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995 ra đời tạo đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động bán đấu giá tài sản tại Việt Nam phát triển (từ Điều 452 Điều 455 Bộ luật Dân sự Việt Nam). Để cụ thể hóa luật về quy chế và tổ chức bán đấu giá, ngày 19/12/1996 Chính phủ ban hành Nghị định số 86/CP ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản (sau đây gọi tắt là Nghị định 86/CP). Nghị định 86/CP của Chính phủ bước đầu đã xây dựng khung pháp lý cụ thể cho hoạt động bán đấu giá tài sản. Do đây là lĩnh vực còn mới mẻ nên Quy chế chưa xác định rõ nội dung công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản. Đối với địa vị pháp lý của người bán đấu giá tài sản cụ thể là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản được quy định chung chung là thành lập theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp trực tiếp quản lý chung còn về chuyên môn nghiệp vụ chưa được đề cập đến. 11 Để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước về hoạt động bán đấu giá tài sản và hướng dẫn cụ thể chuyên môn nghiệp vụ cho các tỉnh trong việc tổ chức bán đấu giá tài sản, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 399/PLDSKT ngày 07/4/1997 hướng dẫn cụ thể việc quản lý và tổ chức bán đấu giá tài sản. Bộ luật Dân sự đầu tiên ở nước ta được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995. Đây là một văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh một lĩnh vực rộng lớn các quan hệ xã hội là các giao lưu dân sự của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác trong đó có những quy định về bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện nhất là trước sự phát triển toàn diện của đất nước trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Bộ luật Dân sự năm 1995 đã bộc lộ hạn chế, không đáp ứng được những nhu cầu mới của các quan hệ mang yếu tố dân sự. Tương tự như vậy, sau tám năm thực hiện Nghị định số 86/CP, cũng còn có nhiều khó khăn vướng mắc mà nguyên nhân chủ yếu là do các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động bán đấu giá tài sản không những thiếu, mà nhiều quy định đã không còn phù hợp với thực tế đòi hỏi khách quan của cuộc sống hoặc quy định chưa cụ thể rõ ràng, gây khó khăn cho việc bán đấu giá như mức tiền đặt trước, mức phí trong trường hợp bán đấu giá không thành, căn cứ làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản, chuộc lại tài sản, cơ chế ngăn ngừa, xử lý sự liên kết dìm giá hoặc cản trở cuộc bán đấu giá. Bên cạnh đó việc bán đấu giá tài sản để thi hành án, tài sản bị xử lý sung công quỹ nhà nước theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa tập trung vào một đầu mối. Vì vậy trên địa bàn một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tồn tại nhiều tổ chức của nhà nước thực hiện bán đấu giá tài sản dẫn đến tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Sự phối kết hợp giữa các ban, ngành ở một số địa phương trong hoạt động bán đấu giá tài sản còn chưa được chặt chẽ và đồng bộ, cả trong việc ủy quyền, chuyển giao tài sản để bán đấu giá, cũng như 12 việc chuyển quyền sở hữu cho người mua được tài sản đã bán đấu giá, trong một số trường hợp còn từ chối hoặc chậm trể trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản đã bán đấu giá đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng. Những trở ngại nêu trên đã làm cho quyền và lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản bán đấu giá không được đảm bảo, làm giảm uy tín của các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản. Trước tình hình và những yêu cầu mới đó, việc ban hành Nghị định về bán đấu giá tài sản thay thế Nghị định số 86/CP là một yêu cầu cấp thiết. Qua thực tiễn gần 10 năm áp dụng Quy chế bán đấu giá tài sản và kinh nghiệm học tập từ các nước có thể chế bán đấu giá phát triển, hoàn thiện, ngày 14/6/2005 Quốc hội thông qua Bộ luật Dân sự năm 2005 (từ Điều 456 đến Điều 469 liên quan đến bán đấu giá tài sản) và Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2005/NĐ - CP ngày 18/01/2005 thực sự là một bước phát triển mới trong công tác bán đấu giá tài sản, là cơ sở pháp lý quan trọng để phát triển dịch vụ bán đấu giá tài sản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị định 05/2005/NĐ-CP đã đáp ứng yêu cầu về nâng cao hiệu quả hoạt động và xã hội hoá công tác bán đấu giá tài sản. Nghị định 05/2005/NĐ-CP được xây dựng trên quan điểm kế thừa và phát triển các quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản còn phù hợp để giải quyết các vấn đề bức xúc mà thực tế đòi hỏi, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc về bán đấu giá tài sản. Ngay sau khi Nghị định 05/2005/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03/2005/TT-BTP hướng dẫn một số quy định của Nghị định, Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số 34/2005/TT-BTC hướng dẫn việc xác định giá khởi điểm và chuyển giao tài sản nhà để bán đấu giá và các công văn liên quan. Ngoài các văn bản luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, Công văn hướng dẫn, các tỉnh còn có Quy chế đấu giá quyền sử dụng đất, Quy chế bán đấu giá nhà thuộc sở hữu nhà nước. 13 Tình hình tổ chức thực hiện Nghị định số 05/2005/NĐ-CP cho thấy, xã hội hoá hoạt động bán đấu giá tài sản nhằm tạo điều kiện thu hút ngày càng mạnh mẽ các loại doanh nghiệp bán đấu giá thuộc các thành phần kinh tế khác nhau nhằm tiến tới giảm bớt và xoá hẳn bao cấp của nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản. Mục tiêu trên cũng nhằm quán triệt chủ trương cải cách hành chính của nhà nước ta là bộ máy cần sắp xếp gọn nhẹ, tinh giản biên chế, đầu mối các cơ quan giảm thiểu tối đa, tránh tình trạng một việc giao cho nhiều cơ quan thực hiện. Điều đó đồng nghĩa với việc tập trung đầu mối là Trung tâm bán đấu giá của tỉnh tồn tại song song với các doanh nghiệp tham gia bán đấu giá tài sản thuộc các thành phần kinh tế khác. Tránh tình trạng các cơ quan không có chức năng bán đấu giá tài sản tự tổ chức bán đấu giá sẽ khó đảm bảo được trình tự, thủ tục chặt chẽ thống nhất dễ dẫn đến tình trạng "vô tổ chức" trong lĩnh vực này. Sau 4 năm thực hiện Nghị định 05/2005/NĐ-CP đó bộc lộ một số bất cập, vướng mắc và có nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn: Thứ nhất, do sự không đồng bộ trong các quy định của pháp luật hoặc quy định còn chưa rõ ràng nên trong thực tế hoạt động bán đấu giá tài sản ở mỗi địa phương rất khác nhau, thực hiện không thống nhất và khó quản lý. Đặc biệt, ngoài các doanh nghiệp, các địa phương thành lập khá đa dạng tổ chức bán đấu giá tài sản tại địa phương. Trên toàn quốc, nhiều tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản được thành lập theo các quy định pháp luật khác nhau, ví dụ: Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản (theo Nghị định số 05/2005/NĐ-CP), Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất cấp tỉnh, huyện (theo Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg), Trung tâm phát triển quỹ đất (theo Thông tư liên tịch số 38/2004/TTLT/BTNMT-BNV), Hội đồng bán đấu giá do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định thành lập để bán đấu giá tài sản của Nhà nước tại địa phương. 14 Có địa phương, bán đấu giá quyền sử dụng đất do Ban quản lý cơ sở hạ tầng hoặc Trung tâm phát triển quỹ đất của tỉnh thực hiện, có nơi thành lập Hội đồng cấp tỉnh, cấp huyện để bán đấu giá, có nơi giao cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản thực hiện. Có nơi, các tài sản như ô tô, nhà, xưởng dôi dư đều do tổ chức quản lý tài sản tự tổ chức bán, không đảm bảo tính khách quan, minh bạch. Đối với tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước do các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tịch thu, thì một số các cơ quan đó vẫn thành lập Hội đồng bán đấu giá tài sản tổ chức bán đấu giá tài sản, mặc dù Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính quy định rất rõ việc bán các loại tài sản đó do Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản, hoặc Hội đồng bán đấu giá tài sản cấp huyện bán. Việc chuyển giao loại tài sản này sang cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ở một số nơi chưa được thực hiện nghiêm túc. Thứ hai, do sự không đồng bộ, thống nhất trong các quy định của pháp luật nên hiện nay có nhiều loại tổ chức thực hiện việc bán đấu giá tài sản và bán đấu giá theo các trình tự, thủ tục rất khác nhau, không chặt chẽ dẫn đến việc khó quản lý, kiểm soát hoạt động và gây thất thoát tài sản, chủ yếu là tài sản công. Đặc biệt là việc bán đấu giá của các Hội đồng bán đấu giá tài sản. Hội đồng bán đấu giá tài sản được thành lập ở địa phương có nhiều bất cập, hạn chế. Các Hội đồng này được thành lập để bán đấu giá theo vụ việc, không mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp. Khi kết thúc cuộc bán đấu giá, Hội đồng tự giải thể. Do đó, khi có tranh chấp xảy ra liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia đấu giá, người trúng đấu giá, các bên không có cơ sở pháp lý để khiếu nại Hội đồng. Ngoài ra, do cơ chế hoạt động (bao gồm cả cơ chế tài chính) và trách nhiệm pháp lý của Hội đồng bán đấu giá tài sản không rõ ràng, nên khó kiểm soát, dẫn đến thất thoát, thiệt hại về vật chất trong việc bán đấu giá các loại tài sản của Nhà nước. Có nhiều 15 Hội đồng bán với số tiền chênh lệch rất thấp như: Hội đồng bán đấu giá tỉnh Lạng Sơn bán tài sản tịch thu do vi phạm hành chính với giá khởi điểm 2.628.606.760 đồng, giá bán 2.629.174.760 đồng, chênh lệch 568.000đồng. Thứ ba, Nghị định số 05/2005/NĐ-CP chưa quy định rõ ràng và cụ thể về phạm vi điều chỉnh, chưa xác định rõ những loại tài sản nào Nhà nước quy định bắt buộc phải bán đấu giá và bán theo trình tự, thủ tục nào. Đối với việc bán đấu giá tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức theo quy định của Luật Thương mại thực tế thi hành không có nhiều vướng mắc, bức xúc. Bất cập lớn nhất hiện nay trong hoạt động bán đấu giá là bán đấu giá tài sản công, những tài sản buộc phải bán đấu giá như tài sản thi hành án, tài sản là tang vật phương tiện vi phạm hành chính, tài sản nhà nước, tài sản là quyền sử dụng đất Thứ tư, một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP còn chưa đầy đủ, chưa đảm bảo tính thống nhất, chưa rõ ràng, gây khó khăn cho địa phương trong quá trình triển khai thực hiện, thậm chí có nhiều kẽ hở, dẫn đến hiện tượng tiêu cực và hiện tượng "cò" trong việc tổ chức bán đấu giá tài sản. Ví dụ như: quy định về khoản tiền đặt trước khi tham gia đấu giá, quy định về việc người mua được tài sản từ chối mua, quy định về mức chênh lệch giữa các lần trả giá, về việc đăng ký mua tài sản nhưng không tham gia cuộc bán đấu giá; quyền và trách nhiệm của người có tài sản bán đấu giá, người tham gia đấu giá, người mua tài sản bán đấu giá chưa được xác định rõ ràng, trình tự, thủ tục bán đấu giá chưa được quy định chặt chẽ, chế tài xử lý chưa nghiêm. Đây là những kẽ hở từ pháp luật đã bị nhiều đối tượng lợi dụng. Thứ năm, năng lực đội ngũ đấu giá viên còn hạn chế, cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhiều Trung tâm, doanh nghiệp còn hạn chế, thiếu thốn chưa đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ chuyên môn. Quy định hiện hành về điều kiện cấp Thẻ đấu giá viên, điều kiện hoạt động của doanh nghiệp bán đấu giá quá đơn giản, đăng ký hành nghề đối với đấu giá viên chưa chặt chẽ, việc quản lý đấu giá viên còn lỏng lẻo dẫn đến hoạt động bán đấu giá chưa mang tính chuyên 16 nghiệp, dễ phát sinh tiêu cực. Ngoài ra, do không có yêu cầu về bồi dưỡng nghiệp vụ bán đấu giá tài sản nên, cán bộ, viên chức của Trung tâm, doanh nghiệp chưa được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ bán đấu giá tài sản một cách bài bản, phải vừa học vừa làm. Ngoài ra, do quy định của pháp luật không rõ ràng nên trong thực tế nhiều cuộc bán đấu giá không do đấu giá viên điều hành. Vì vậy, khi có tranh chấp phát sinh về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan đến vụ việc bán đấu giá rất khó giải quyết. Thứ sáu, khi bán đấu giá tài sản thi hành án, tài sản tịch thu do vi phạm hành chính, tổ chức bán đấu giá gặp rất nhiều khó khăn. Khách hàng có tâm lý không thích mua tài sản thi hành án, bởi lẽ nhiều trường hợp không giao được tài sản cho người trúng đấu giá do có sự tranh chấp, khiếu kiện kéo dài. Do đó, hiệu quả bán đấu giá tài sản thi hành án không cao, tỷ lệ bán đấu giá thành so với hợp đồng ủy quyền thấp (khoảng 31%). Ngoài ra, trong trường hợp bán đấu giá không thành đối với tài sản thi hành án, tài sản tịch thu do vi phạm hành chính thì không có cơ chế rõ ràng về việc thanh toán các chi phí thực tế. Thứ bảy, các quy định về quản lý nhà nước trong Nghị định số 05/2005/NĐ-CP còn thiếu, lỏng lẻo dẫn đến các cơ quan chức năng chưa đủ căn cứ để áp dụng biện pháp xử lý đối với các tổ chức bán đấu giá tài sản và các tổ chức không có chức năng bán đấu giá tài sản mà vẫn bán đấu giá. Trong thực tế, các doanh nghiệp đăng ký hoạt động bán đấu giá một cách tràn lan, cơ quan quản lý nhà nước không nắm được cụ thể tình hình tổ chức, hoạt động của các tổ chức bán đấu giá tài sản, đấu giá viên và kết quả hoạt động bán đấu giá tài sản. Thứ tám, nhận thức của các cơ quan nhà nước về quản lý hoạt động bán đấu giá tài sản còn chưa thống nhất. Sự phối hợp giữa các Bộ có liên quan, các ban, ngành ở một số địa phương trong hoạt động bán đấu giá tài sản còn chưa được chặt chẽ và đồng bộ. Một số cơ quan nhà nước có thẩm quyền 17 đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản trong một số trường hợp còn từ chối hoặc chậm trễ trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản đã bán đấu giá đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng. Việc giao tài sản thi hành án đã được bán đấu giá bị chậm trễ, kéo dài làm ảnh hưởng đến uy tín của các tổ chức bán đấu giá tài sản. Đồng thời quyền, lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản bán đấu giá không được bảo đảm, làm giảm uy tín của dịch vụ bán đấu giá tài sản trong xã hội. Để lĩnh vực bán đấu giá tài sản ngày càng phát triển, ổn định, phục vụ tốt cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội thì rất cần phải sớm khắc phục những hạn chế nêu trên. Để đáp ứng yêu cầu này, gần đây Chính phủ đã ban hành nghị định số 17/2010/NĐ-CP thay thế nghị định số 05/2005/NĐ-CP có hiệu lực ngày 1/7/2010. 1.1.3. Khái niệm bán đấu giá tài sản Bán đấu giá là một giao dịch mua bán tài sản giữa tổ chức bán đấu giá và các chủ thể khác theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Đây là một giao dịch dân sự, nên có đầy đủ nội dung của hợp đồng mua bán tài sản. Tuy nhiên, trình tự thủ tục, mua bán và thực hiện hợp đồng do pháp luật quy định, do vậy khái niệm bán đấu giá được nghiên cứu theo quan niệm truyền thống và quy định của pháp luật Theo quan niệm truyền thống thì bán đấu giá là việc bán hàng hoá hoặc tài sản công khai có nhiều người cùng muốn mua một tài sản, cho nên mỗi người trả một giá theo nhu cầu, điều kiện kinh tế của mình, người trả giá cao nhất phù hợp với nhu cầu của người bán sẽ được mua tài sản. Trên thế giới, các quốc gia có thể chế đấu giá hoàn thiện đều thừa nhận bán đấu giá là hình thức bán và mua tài sản công khai, theo đó các tài sản và quyền tài sản được bán cho người trả giá cao nhất (Điều 3, Luật về bán 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan