Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bài tiểu luận hai mươi năm quan hệ ngoại giao việt - mĩ...

Tài liệu Bài tiểu luận hai mươi năm quan hệ ngoại giao việt - mĩ

.PDF
48
305
150

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - KĨ THUẬT BÌNH DƯƠNG KHOA KĨ THUẬT - CÔNG NGHỆ BÀI TIỂU LUẬN MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỀ TÀI: HAI MƯƠI NĂM QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ GIẢNG VIÊN: DOÃN THỊ HUỆ LỚP: D14DO3A NHÓM: 1 Bình Dương, ngày 13 tháng 10 năm 2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - KĨ THUẬT BÌNH DƯƠNG KHOA KĨ THUẬT - CÔNG NGHỆ BÀI TIỂU LUẬN MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỀ TÀI: HAI MƯƠI NĂM QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ GIẢNG VIÊN: DOÃN THỊ HUỆ LỚP: D14DO3A NHÓM: 1 Bình Dương, ngày 13 tháng 10 năm 2015 MỞ ĐẦU Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ không khởi đầu từ 20 năm trước, khi hai nhà nước thiết lập quan hệ ngoại giao, mà đã bắt nguồn từ trước đó rất lâu. Tổng thống Thomas Jefferson là người Mỹ đầu tiên quan tâm đến nước Việt Nam. Sau đó hơn Tàu Peacock từng đến Việt Nam vào thế kỷ 19 thế kỷ rưỡi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở đầu bài diễn văn khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bằng một câu nổi tiếng: "Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng...", đó cũng là lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, và tác giả không phải ai khác ngoài Thomas Jefferson. Bắt đầu từ số báo này, chúng ta sẽ điểm lại một số cột mốc đáng nhớ trong mối quan hệ giữa hai quốc gia. MỤC LỤC MỞ ĐẦU MỤC LỤC CHƯƠNG 1: QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT-MĨ TRONG LỊCH SỬ ......................... 1 1.1. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRƯỚC NĂM 1954 .................................. 1 1.1.1 "Cha đẻ" của nước Mĩ tìm giống lúa xứ Đàng Trong ........................... 1 1.1.2. Bản hiệp định thương mại dở dang ...................................................... 1 1.1.3 "Đại sứ đặc mệnh toàn quyền" Bùi Viện ............................................... 2 1.1.4 Trong chiến tranh Đông Dương (1945-1954) ........................................ 3 1.2. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRONG CHIẾN TRANH CHỐNG MĨ ( 1954 – 1975) .......................................................................................................... 6 1.3. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ GIAI ĐOẠN (1976-1995) .......................... 7 CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT MĨ TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY ........................................................................................... 13 2.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC .............................................................. 13 2.1.1. Xu thế phát triển lấy kinh tế trọng điểm ............................................. 14 2.1.2. Các nước lớn điều chỉnh quan hệ với nhau theo chiều hướng xây dựng quan hệ bạn bè chiến lược ổn định và cân bằng hướng về lâu dài. ........................................................................................................ 15 2.1.3. Sự phát triển nhanh chóng của nền thương mại thế giới. ................................................................................................... 16 2.1.4. Tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới được tăng cường mạnh mẽ do quá trình quốc tế hóa rất nhanh của nền tài chính thế giới ............ 17 2.2. LỢI ÍCH CỦA HAI BÊN KHI THIẾT LẬP QUAN HỆ NGOẠI GIAO ....................................................................................................................... 19 2.2.1. Lợi ích của Mỹ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. .......................................................................................... 19 2.2.2. Lợi ích của Việt Nam khi quan hệ với Mỹ ........................................... 22 2.3. QUÁ TRÌNH BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ ....... 23 2.4. NHỮNG NỖI BẬT SAU KHI BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ ................................................................................................................ 25 2.4.1. Về chính trị - ngoại giao ....................................................................... 25 2.4.2. Kinh tế và Thương mại ........................................................................ 29 2.4.2.1 Tình hình Kinh tế thương mại song phương Việt – Mĩ giai đoạn (1995 – 2000) ................................................................................. 29 2.4.2.2. Tình hình Kinh tế thương mại song phương Việt – Mĩ giai đoạn 2000 đến nay ................................................................................. 33 2.4.3. Quốc phòng và An ninh ....................................................................... 34 2.4.4.Văn hóa – xã hội .................................................................................. 37 2.4.4.1 Giáo dục ...................................................................................... 37 2.4.4.2. Y tế.............................................................................................. 38 2.4.4.3. Du lịch và Thể thao ................................................................... 39 2.4.5. Khoa học – Công nghệ ........................................................................ 40 2.5. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRONG TƯƠNG LAI ........................................................................................................... 41 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1: QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT-MĨ TRONG LỊCH SỬ 1.1. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRƯỚC NĂM 1954 1.1.1 "Cha đẻ" của nước Mĩ tìm giống lúa xứ Đàng Trong Trong cuốn US - Vietnam 1787 - 1941, tác giả Hopkins Miller viết rằng sau khi tuyên bố độc lập (1776), Chính phủ Hoa Kỳ lần đầu tiên đã biết đến xứ "Cochinchina" tức là "Đàng Trong". Tháng 7.1787, Công sứ Hoa Kỳ tại Pháp lúc bấy giờ là Thomas Jefferson đang ở Paris tham gia các cuộc đàm phán thương mại đã ngỏ ý muốn mua giống gạo của xứ Đàng Trong. Ông đã viết một lá thư cho bạn ở Mỹ: "Ông Poivre người thầu thuế vùng Ile-de France, đang đi thăm nhiều nước châu Á, Ông cho biết là ở Đàng Trong trồng nhiều giống lúa, có ba giống cần nước, có ba giống mọc ở vùng cao". Ý định của Jefferson lúc đó rất rõ ràng: "Lúa cạn Đàng Trong nổi tiếng là trắng thơm và phát triển tốt, tôi sẽ cố cho đem về ít lúa Đàng Trong". Và vị tổng thống tương lai của Hoa Kỳ lúc đó đã liên hệ với con trai của Nguyễn Ánh là Hoàng tử Cảnh để tìm giống lúa. 8Do không đi tới kết quả nên 4 tháng trước khi cách mạng Pháp bùng nổ (1789) Jefferson tiếp tục viết thư cho Malesherbes - chính khách Pháp và cũng là nhà nghiên cứu thực vật học - với nội dung: "Nếu ngài có thể bận tâm kiếm cho tôi ít giống lúa Đàng Trong thì thật quả là ông có công lớn đối với đồng hương của tôi". Nhưng cuối cùng Malesherbes đã không giúp được Jefferson. 1.1.2. Bản hiệp định thương mại dở dang Năm 1829, khi Tổng thống Andrew Jackson lên nhậm chức, một phái bộ do Edmund Roberts được đích thân tổng thống cử sang đem theo dự thảo hiệp định thương mại để có thể thay mặt Chính phủ Mỹ ký với triều đình nhà Nguyễn. Đầu tháng 1.1832 chiến hạm Peacock chở phái bộ đến Vũng Lấm (nay thuộc Khánh Hòa) vì cách xa thủ đô Huế. Vua Minh Mạng lệnh cho Viện 1 ngoại lang Nguyễn Tri Phương và Tư vụ Lý Văn Phức mở tiệc khoan đãi long trọng. Vua chuẩn bị cho lần sau đậu thuyền tại vịnh Trà Sơn (tức Cửa Hàn). Năm 1836 lần thứ hai phái bộ Mỹ vẫn do Edmund Roberts làm trưởng đoàn, cập bến vịnh Trà Sơn để xin được yết kiến trình quốc thư. Ngay trong bức thư đầu tiên này, Tổng thống Andrew Jackson đã nói rõ ý định giao hảo của Chính phủ Hoa Kỳ "thư này sẽ được trình Bệ hạ bởi ngài Edmund Roberts, một công dân khả kính của Hoa Kỳ, được cử làm đặc sứ mang trọng trách chuyển tới Bệ hạ những việc hệ trọng của bản quốc. Tôi xin Bệ hạ bảo hộ cho ông ta trong khi phụng mệnh và đối đãi với ông ta một cách bao dung và tin cậy, xin hãy hoàn toàn tin tưởng vào những gì mà ông ta nhân danh nhắc lại lời cam đoan về tình hữu hảo và thiện chí đối với Bệ hạ". Tuy nhiên, chuyến đi mở đường này tiếc thay lại chỉ dừng lại ở một bữa tiệc chiêu đãi và không giải quyết được vấn đề cụ thể. Nguyên nhân là do Edmund Roberts bị bệnh và mất đột ngột tại Ma Cao, không hoàn thành được nhiệm vụ và cũng bỏ lỡ cơ hội bang giao giữa hai nước. 1.1.3 "Đại sứ đặc mệnh toàn quyền" Bùi Viện Có thể xem nhà cải cách Bùi Viện như là một "đại sứ đặc mệnh toàn quyền" đầu tiên của Việt Nam đi sang Mỹ. Một vị đại sứ đặc mệnh mà điểm đặc biệt là ra đi chỉ một mình, không quốc thư, không có tùy tùng chính thức. Một vị đại sứ được quyền tùy ý lựa chọn nước mình đến, và toàn quyền quyết định vấn đề trao đổi thảo luận. Nửa cuối thế kỷ XIX, trong lúc Thiên Hoàng Minh Trị đang đưa nước Nhật Bản tiến mạnh mẽ vào con đường duy tân thì tình hình nước Việt Nam ngày càng có nguy cơ mất nốt Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Vua Tự Đức nhu nhược trước âm mưu mở rộng xâm lược của thực dân Pháp, bác bỏ đề nghị cách tân của Nguyễn Trường Tộ và nhiều nhà cách tân tâm huyết khác. Tuy vậy, ông vẫn muốn nắm tình hình phương Tây để liệu điều chỉnh chính sách nên 2 Vua Tự Đức cử Bùi Viện, một nhà nho thức thời và năng động, đi ra nước ngoài. Tháng 7.1873 Bùi Viện vượt biển ra đi, sau hai mươi ngày lênh đênh trên biển ông đến được Hồng Kông. Đầu tiên Bùi Viện đến Lãnh sự Mỹ tại Hồng Kông. Tại đây ông kết giao với một sứ giả Mỹ và được ông này giúp đỡ để tiếp kiến Tổng thống Mỹ. Sau đó ông rời Hồng Kông sang Nhật Bản và đến cảng Yokohamaxuống tàu đi Mỹ. Bùi Viện đến San Francisco rồi đến thủ đô Washington. Ở đây ông được Tổng thống Mỹ Ulysses Grant tiếp và hứa sẽ giúp Việt Nam bảo vệ đất nước. Nhưng Bùi Viện không có quốc thư ủy nhiệm nào để có ký kết hiệp ước liên kết. Thất vọng, Bùi Viện đành xuống tàu quay về nước. Chuyến đi Mỹ lần thứ hai của Bùi Viện là vào năm 1875. Có trong mình quốc thư của Vua Tự Đức, ông hy vọng sẽ đạt những điều mong muốn. Tuy nhiên, bối cảnh trên thế giới lúc này các nước đế quốc đã thỏa thuận xong việc phân chia phạm vi thế lực lần thứ nhất. Pháp cũng đã đứng vững ở Việt Nam. Còn Mỹ thì có bao nhiêu việc cần ổn định trong nước sau nội chiến, tình hình quốc tế cũng chưa có lợi cho họ. Bùi Viện lại ôm mối thất vọng trở về. Nếu trước đây Edmund Roberts hai lần tới Việt Nam mà đại sự không thành thì Bùi Viện cũng hai lần sang Mỹ mà cũng trở về tay không, hai nước vẫn chưa thiết lập được quan hệ ngoại giao. Khi nước Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, Mỹ đặt lãnh sự quán tại Sài Gòn và Hà Nội trong lúc đó họ cai trị Philippin sau khi đánh bại Tây Ban Nha. 1.1.4 Trong chiến tranh Đông Dương (1945-1954) Cả hai cuộc tiếp cận lịch sử đều thất bại và từ đó Hoa Kỳ từ bờ Thái Bình Dương đứng nhìn quá trình chủ nghĩa thực dân Pháp bóc lột nhân dân Việt Nam cho tới khi nó bị gót sắt của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản đè bẹp trong chiến tranh thế giới thứ II. 3 Nằm dưới sự đô hộ, cai trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã không ngừng đấu tranh để giành lại độc lập tự do và khi cách mạng Tháng 8 - 1945 thắnglợi hoàn toàn, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời đã chấm dứt hơn 80 năm chế độ Pháp thuộc. Nhưng ngay sau khi giành được độc lập, theo qui định của Hiệp ước Postdam, Đông Dương chia làm 2 khu vực để giải giáp quân Nhật: khu vực phía Bắc từ vĩ tuyết 16 trở lên, khu vực phía Nam từ vĩ tuyến 16 trở xuống. Quân Tưởng Giới Thạch kéo vào miền Bắc Việt Nam, quân Anh kéo vào miền Nam Việt Nam đại diện cho lực lượng đồng minh giải giáp quân Nhật. Ngay trong thời kỳ này, giữa Việt Nam và Mỹ cũng bắt đầu có quan hệ bang giao thông qua hợp tác tích cực chống quân đội Phát xít. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, khi nước Mỹ tham gia đồng minh, đang trong hàng ngũ lực lượng dân chủ toàn thế giới chống phe trục: Đức - Ý - Nhật, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động đặt quan hệ với Mỹ. Trong suốt thời gian lưu lại Trung Quốc, sau khi được chính quyền Tưởng Giới Thạch trả tự do (1943-1944), Hồ Chí Minh đã làm quen với một số sỹ quan Mỹ đang hoạt động ở Trung Quốc. Trong chuyến đi Côn Minh, Trung uý Mỹ Charles Fenn gặp Hồ Chí Minh ngày 17/3 rồi lại gặp ngày 20/3 Fenn ngỏ ý mong muốn được Việt Minh giúp đỡ. Hồ Chí Minh nhận lời nhưng nói không có phương tiện thông tin. Do sự sắp xếp của Fenn, Hồ Chí Minh gặp tướng Claire I.Chennault, tư lệnh quân đoàn không quân 14 của Mỹ. Ngày 27/4 Hồ Chí Minh trên đường về nước gặp thiếu tá Archimeder L.A.Patti thuộc tổ chức OSS tại một làng nhỏ gần Tĩnh Tây (Trung Quốc). Cùng đi với Người là 2 người Mỹ: Franckie Tan, gốc Hoa và Maxim. Ngày 16/7, thiếu tá Thomas cùng một số người Mỹ nhảy dù xuống làng Kimlung và được bố trí ở Tân Trào (Tuyên Quang). Số người Mỹ này làm việc liên lạc với cơ quan Mỹ ở Côn Minh và huấn luyện kỹ thuật cho một số cán bộ quân sự của quân giải phóng. Người Mỹ cũng đã cung cấp cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men bằng cách thả dù xuống khu căn cứ Việt Bắc 4 hoặc đưa đến Nam Ninh (Trung Quốc) để Việt Minh chuyển về nước. Đến tháng 8 thì nhóm Thomas theo quân du kích của Hồ Chí Minh xuôi về Hà Nội, trở thành nhân chứng của một trong những sự tích thần kỳ nhất trong lịch sử Việt Nam - ngày Việt Nam tuyên bố độc lập. Với cương vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, lại trực tiếp phục trách công tác ngoại giao, Hồ Chí Minh đã thảo bản tuyên bố về chính sách ngoại giao trong đó khẳng định chủ trương quan hệ hoà bình hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước. Với Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì những quan hệ đã có trong chiến tranh. Nhân dân Chính phủ Việt Nam, Người đã gửi hàng chục bức thư, điện, công hàm tới Tổng thống Truman, Chính phủ và Bộ Ngoại giao Mỹ. Nội dung của các văn bản ấy xoay quanh vấn đề yêu cầu Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, khẳng định sự hợp tác của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tháng 10/1945 Tổng thống Truman ra tuyên bố 12 điểm về chính sách đối ngoại của Mỹ, Hồ Chí Minh đã bày tỏ thái độ hoan nghênh và mong muốn Chính phủ Mỹ sẽ thực hiện đúng tinh thần của Bản tuyên bố, ủng hộ chủ quyền của các dân tộc nhược tiểu. Song lúc này Chính phủ Mỹ đã ngả hẳng sang chủ trương ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương. Những cố gắng trong quan hệ ngoại giao chính thức với Mỹ đã không đạt kết quả. Tuy vậy, Việt Nam vẫn luôn chú ý đến việc giữ tôn trọng của Chính phủ mình đối với vai trò của Mỹ trong đồng minh, sự có mặt của đại diện phái bộ Mỹ trong các buổi lễ ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 cũng như trong các văn bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Chính phủ Mỹ đã nói lên điều đó. Trong thời gian này, tuy quan hệ ngoại giao chính thức không thành công nhưng quan hệ của Việt Nam với Chính phủ Mỹ vẫn có dấu hiệu khả quan thông qua hình thức ngoại giao nhân dân mà điển hình là Hội hữu nghị Việt - Mỹ. 5 Ngày 2/9/1947, trong thư gửi Việt - Mỹ ái hữu hội, Hồ Chủ Tịch đã viết: "Chúng ta không bao giờ quên sự hợp tác giúp đỡ thân ái của các bạn người Mỹ hồi chúng ta du kích chống Nhật và chúng ta mong rằng sự hợp tác đó được tiếp tục trong cuộc tranh đấu của chúng ta chống thực dân phản động Pháp giành thống nhất và độc lập. Chúng ta mong rằng Hoa Kỳ, nước đầu tiên đã tranh đấu cho nền độc lập và dân chủ của quốc gia,... sẽ giúp chúng ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng hiện nay và trong công cuọc kiến thiết xây dựng sau này". Trong chiến tranh Đông Dương (1945-1954), Mỹ đã giúp Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và tái chiếm thuộc địa của họ. Đến cuối chiến tranh, 80% chiến phí chủ yếu của Pháp do Mỹ tài trợ, lên đến 1,5 tỷ USD. Trong trận Điện Biên Phủ, Mỹ trực tiếp chở khoảng 16 ngàn quân Pháp vào Điện Biên Phủ và hỗ trợ không quân cho quân đội Pháp. Nhờ điều đó mà thực dân Pháp mới có thể duy trì được cuộc chiến. 1.2. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRONG CHIẾN TRANH CHỐNG MĨ ( 1954 – 1975) Trong Chiến tranh Việt Nam (1954-1975), sau khi Pháp thua, Mỹ đã thế chân Pháp can thiệp trực tiếp vào Việt Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diêm đã chứng tỏ rõ ràng ý đồ của Mỹ. Ngày 23/10/1954, khi Eisenhour gửi bức thư cho Ngô Đình Diệm cam kết Mỹ ủng hộ hoàn toàn và sẽ viện trợ đối với chế độ của ông ta. chính phủ Mỹ hậu thuẫn Việt Nam Cộng hòa chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rồi cả Mặt trận Giải phóng miền Nam. Mỹ có tham gia Hội nghị Geneve năm 1954 với một phái đoàn do Bedell Smith làm trưởng đoàn nhưng cũng như phái đoàn Quốc gia Việt Nam, không ký bản hiệp định. Khi chính phủ Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm từ chối tổng tuyển cử, Hoa Kỳ cũng ủng hộ lập trường đó. Dựa trên thuyết Domino trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh Hoa Kỳ tăng viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa. Đến năm 1963 có hơn 16.000 cố vấn quân 6 sự Hoa Kỳ và đến đầu năm 1965 thì Tổng thống Lyndon B. Johnson cho đổ bộ lực lượng Thủy quân lục chiến, chính thức tham chiến. Đến năm 1973, đã có trên 600.000 binh lính Mỹ và đồng minh chiến đấu trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Năm 1967 ta mở mặt trận ngoại giao phối hợp với mặt trận quân sự và mặt trận chính trị cùng đánh Mỹ. Ta tăng cường đoàn kết với Liên Xô và Trung Quốc cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác, củng cố và phát triển mặt trận nhân dân Đông Dương, đoàn kết với phong trào phản chiến ở Mỹ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tuy nhiên, Nhà nước Việt Nam luôn luôn phân biệt rõ bạn - thù, phân biệt rõ nhân dân Mỹ với những nhà cầm quyền của Mỹ theo đuổi chính sách chiến tranh. Mục đích của nhân dân Việt Nam là đấu tranh để giành độc lập tự do, đem lại hạnh phúc cho dân tộc và chung sống hoà bình với cộng đồng thế giới trên cơ sở bình đẳng, hữu nghị. Vì vậy Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẵn sàng đàm phán với điều kiện là quân Mỹ phải rút khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam. Với mục đích đó, ta chủ trương buộc địch xuống thang từng bước, giành thắng lợi từng phần. Sau thắng lợi tết Mậu Thân (1968), Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, mở cho ta cục diện vừa đánh vừa đàm, kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao, tạo điều kiện cho thắng lợi sau này. Sau bốn năm kiên trì đấu tranh, thương lượng, vào năm 1973, Mỹ phải ký Hiệp định Paris, với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và rút quân chính quy ra khỏi chiến trường miền Nam Việt Nam. Trong cuộc chiến này, quân đội Hoa Kỳ đã gây ra nhiều tội ác đối với dân thường Việt Nam, mà nghiêm trọng nhất là chất độc màu da cam (chất độc DIOSIN) gây ra hậu quả đến ngày nay. 1.3. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ GIAI ĐOẠN (1976-1995) Khoảng tháng 6 năm 1975, Việt Nam có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp không chính thức: "Lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 7 tán thành có quan hệ tốt với Mỹ trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Trên tinh thần đó, phía Việt Nam đã tự kiềm chế trong khi giải phóng, tạo cơ hội cho người Mỹ không bị cản trở trong việc tiến hành di tản nhân viên của họ. Phía Việt Nam đã cố gắng làm mọi sự cần thiết để không làm xấu đi quan hệ với Mỹ trong tương lai. Không có sự thù địch với Mỹ ở Việt Nam và Việt Nam cũng không muốn thấy như vậy ở phía Mỹ". Tiếp theo đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trước Quốc hội: "Việt Nam mời gọi Hoa Kỳ bình thường hóa và yêu cầu chính quyền Mỹ chi tiền tái thiết như đã hứa". Ngày 7 tháng 5 năm 1976, Tổng thống Gerald R. Ford đề nghị Quốc hội Hoa Kỳ tạm ngưng cấm vận Việt Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện cho việc đối thoại giữa hai nước. Ngày 8 tháng 5 năm 1976, Bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger gửi công hàm cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận vấn đề bình thường hóa quan hệ hai nước Ngày 6 tháng 1 năm 1977, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra lộ trình ba bước bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Và phía Hoa Kỳ cũng đưa ra điều kiện để nối lại bang giao là Việt Nam phải làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ mất tích (MIA), trao trả hài cốt lính Mỹ. Phía Việt Nam cũng đòi Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh, trong khi đó Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Hiệp định Paris nên không thể bàn đến khoản tiền bồi thường. Trong 2 năm 1975-1976, Mỹ 3 lần phủ quyết việc Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). Mỹ làm ngơ trước thiện chí mà Chính phủ ta đã nhiều lần bày tỏ để tạo điều kiện cho 2 bên có thể gặp nhau, nhằm giải quyết vấn đề còn lại giữa 2 bên. Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đã nỗ lực đẩy mạnh việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ. Tháng 3 năm 1977, Carter gửi một phái đoàn sang Hà nội do ông L.Woodcook dẫn đầu để bàn 8 về việc nối lại bang giao. Ngày 17 tháng 3 năm 1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã tiếp Leonard Woodcock. Ngày 4 tháng 5 năm 1977, chính quyền Carter đồng ý để Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Ngày 3 tháng 5 năm 1977, phiên đàm phán đầu tiên giữa hai phái đoàn Việt Nam - Hoa Kỳ đã diễn ra tại Paris. Phía Việt Nam khăng khăng đòi Mỹ phải chi 3,25 tỷ đô-la bồi thường chiến tranh. Phía Hoa Kỳ đề nghị bình thường hóa trước, viện trợ sau. Trưởng đoàn đàm phán Phan Hiền báo cáo với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng không được. Trong khi các cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chưa có một chút biến chuyển gì thì tình hình quốc tế có nhiều thay đổi. Khi Biên giới Tây Nam được đặt trong tình trạng chiến tranh và Trung Quốc đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là kẻ thù, Việt Nam bắt đầu nhận thấy vai trò quan trọng của việc bình thường hóa với Hoa Kỳ, một siêu cường trên thế giới. Đầu năm 1978, tại Tokyo, ông Phan Hiền thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam tuyên bố: "Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa vô điều kiện với Hoa Kỳ". Nhưng lúc này Mỹ và Trung Quốc bắt đầu có sự hợp tác để đi đến bình thường hoá quan hệ, Mỹ đã bàn với Trung Quốc để xây dựng mối quan hệ chiến lược lâu dài giữa 2 nước trong đó có cả việc phối hợp để chống Liên Xô. Cuối 1978, Trung Quốc và Mỹ xúc tiến đàm phán để bình thướng hoá quan hệ. Đối với Việt Nam, Tổng thống Mỹ J.Carter đã quyết định xếp lại kế hoạch đàm phán. Vậy là cơ hội thiết lập quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ một lần nữa lại tuột khỏi tầm tay và bị bỏ lỡ. Trong một nỗ lực cuối cùng, tháng 10 năm 1978, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các nhà đàm phán Hoa Kỳ ký thỏa thuận bình thường hóa. Nhưng Hoa Kỳ đã từ chối khéo: "Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ ba vấn đề: sự thù địch của Việt Nam với Campuchia; Hiệp ước Việt-Xô và tình trạng gia tăng thuyền nhân Việt Nam". Tuy nhiên theo ông Trần Quang Cơ viết 9 trong hồi ký "Hồi ức và suy nghĩ" thì: "Tôi nghĩ, thực ra Mỹ đã quyết định dứt bỏ quá trình đàm phán bình thường hoá quan hệ với Việt Nam từ khi Việt Nam tham gia khối Comecon, tháng 6-1978, và sau đó, ký hiệp ước với Liên Xô". Sau đó thì việc bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ bị gián đoạn bởi các cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam và Chiến tranh biên giới Việt - Trung. Trong thập niên tám mươi chính quyền của Tổng thống Reagan (19801988) phản đối việc bình thường hóa cho đến khi có sự xác nhận Việt Nam đã rút hết quân ở Campuchia và có sự hợp tác đầy đủ của Việt Nam trong việc tìm kiếm những người Mỹ mất tích. Ngày 20/1/1988 Tổng thống Regan tuyên bố: Trong khung cảnh một giải pháp cho vấn đề Campuchia bao gồm Việt Nam rút hoàn toàn quân đội ra khỏi Campuchia, Mỹ sẵn sàng đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên cơ sở tiến bộ trong vấn đề MIA trở lại trại cải tạo. Năm 1989, Tổng thống Bush đắc cử và đã quyết định thay đổi chính sách đối với Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới với nhiều hy vọng. Ngày 26/9/1989, Việt Nam hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia. Ngày 6/8/1990 đối thoại Việt - Mỹ vòng 1 giữa đại sứ Trịnh Xuân Lãng và Phó trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao K.Quyn về quan hệ Việt - Mỹ. Từ ngày 29 đến 30/9/1990 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gặp Bộ trưởng Ngoại giao Giêm UBây - Cơ tại Niu Joóc. Ngày 9/4/1991, phía Mỹ đưa ra lộ trình (Roadmaping) bốn bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam lần đầu tiên đưa ra công khai, chính thức chính sách đối với Việt Nam. Ngày 20/4/1991, Tướng Vétxi vào Việt Nam lần 2, bàn về vấn đề lập văn phòng MIA tại Hà Nội. 10 Ngày 25/4/1991 phía Mỹ tuyên bố lần đầu tiên viện trợ 1 triệu USD giúp Việt Nam về lĩnh vực chân tay giả. Ngày 23/10/1991 Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Giêm Bây - Cơ tại Pari nhân dịp ký Hiệp định Pari về Campuchia. Từ 31/1/1992 đến 1/2/1992 đặc phái viên tướng G. Vét - xi vào Việt Nam lần thứ tư bàn về các biện pháp thúc đẩy vấn đề MIA và các vấn đề khác trong quan hệ Việt - Mỹ. Ngày 8/10/1992 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp ngoại trưởng Mỹ Eagleburger và Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chenry lần đầu tiên tại Bộ ngoại giao Mỹ trao đổi về quan hệ giữa hai nước. Ngày 23/10/1992, Tổng thống Bush tuyên bố rằng Mỹ sẽ nhanh chóng tiến tới bình thướng hoá, kể cả bãi bỏ cấm vận, nếu những tấm ảnh và bằng chứng mà Việt Nam trao có thể bổ xung cho việc giải quyết số phận các quân nhân Mỹ bị mất tích, những người mà Mỹ tin rằng Việt Nam có những tin tức cuối cùng. Năm 1993, Bill Clinton đắc cử Tổng thống Mỹ. Chính quyền của Clintơn cũng kế thừa chính sách "lộ trình" của chính quyền G.Bush, trong đó cốt lõi của quá trình bình thường hoá quan hệ vẫn là "tốc độ và qui mô" của quá trình bình thường hoá bị tác động bởi sự hợp tác của Việt Nam về vấn đề POW/MIA. Tuy rằng lộ trình 4 giai đoạn cho quá trình bình thường hoá quan hệ với Việt Nam do chính quyền Mỹ công bố tháng 4/1991 không chính thức được coi là bản chỉ dẫn tuyệt đối cho việc cải thiện quan hệ 2 nước nhưng trên thực tế nhiều bước đi đã diễn ra theo đúng lịch trình này. Ở giai đoạn 3, có 2 điều kiện Việt Nam phải thực hiện là: Một là tiếp tục ủng hộ và khuyến khích sự ủng hộ của Chính phủ Phnôm Pênh với Hiệp định hoà bình Campuchia, rút hết các cố vấn, lực lượng quân sự Việt Nam ra khỏi Camuchia. 11 Hai là Giải quyết các trường hợp POW/MIA không trùng khớp thông tin. Trên thực tế, điều một Việt Nam đã hoàn thành và điều hai cũng được giải quyết tích cực với sự giúp đỡ to lớn của Việt Nam. Phía Mỹ đã thực hiện đầy đủ các điều ghi trong khoản 3: Huỷ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam ngày 3/2/1994, mở văn phòng liên lạc và ngoại giao tại Hà Nội và mời Việt Nam lập văn phòng tại Washingtơn cũng như ủng hộ các cơ quan hành chính quốc tế viện trợ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người ở Việt Nam. Ở giai đoạn 4, không có đòi hỏi bổ xung yêu cầu Việt Nam thực hiện trong giai đoạn này, Mỹ sẽ lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ với Việt Nam, xem xét việc giành chế độ tối huệ quốc cho buôn bán với Việt Nam của Mỹ. Ngày 28/1/1995, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Mỹ chính thức thông báo mở cơ quan liên lạc ở thủ đô 2 nước. Với nỗ lực và thiện trí của cả hai bên, 7/1995 chính thức bình thường hoá quan hệ ngoại giao. Đây là một bước đi quan trọng đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước, phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của tình hình quốc tế, đồng thời góp phần vào sự nghiệp hoà bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam Á. 12 CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT MĨ TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY 2.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC Sau khi trật tự hai cực tan rã, tình hình thế giới đã có nhiều diễn biến thay đổi với những nét nổi bật là : Một là, thế giới phát triển nhanh chóng theo hướng đa cực, tuy vậy cục diện đa cực chưa hẳn đã hình thành mà đang trải qua thời kỳ quá độ từ Trật tự cũ để tiến tới một Trật tự mới. Có người dự đoán thời kỳ quá độ này phải kéo dài trong nhiều năm, có thể từ 30 đến 50 năm, bởi sự chuyển đổi cục diện thế giới lần này mang đặc điểm mới, quan trọng nhất là không trải qua chiến tranh như các cục diện trước kia. Thế giới hiện đang trong tình hình "một siêu cường, nhiều cường quốc", đó là các nước Mỹ, Tây Âu (EU) Nhật Bản, Nga và Trung Quốc. Hai là, sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mỹ một lợi thế tạm thời. Là cực duy nhất còn lại, Mỹ ra sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trò chi phối bá chủ thế giới. Nhưng mặt khác, tuy là cực duy nhất còn lại, nhưng tình hình thế giới lại không phải là thế giới một cực. Mỹ đã bị suy yếu tương đối, mâu thuẫn lớn nhất của Mỹ là giữa tham vọng bá chủ và khả năng thực hiện của nó. Rõ ràng là Mỹ không muốn sự phát triển của thế giới theo chiều hướng đa cực, ra sức điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại, tăng cường năng lực cạnh tranh, xây dựng Trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo, làm cho sự thay đổi của thế giới đi theo quỹ đạo có lợi cho Mỹ. Ba là, hòa bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi rõ rệt, nhưng hòa bình ở nhiều khu vực bị đe dọa, thậm chí ở nhiều nơi xung đột quân sự, nội chiến diễn ra ác liệt. Đó là các mâu thuẫn về sắc 13 tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ... vốn bị che đậy dưới thời chiến tranh lạnh nay bộc lộ thành xung đột gay gắt. Phần lớn những mâu thuẫn, tranh chấp này đều có căn nguyên lịch sử, nên việc giải quyết không thể nhanh chóng và dễ dàng. Từ những thay đổi của tình hình thế giới, tuy Trật tự quốc tế mới chưa hình thành, nhưng trong gần một thập kỷ sau chiến tranh lạnh, có thể thấy những xu thế mới phát triển nổi bật trên thế giới là : 2.1.1. Xu thế phát triển lấy kinh tế trọng điểm Bài học của thời kỳ chiến tranh lạnh đã chứng tỏ phương pháp quan hệ quốc tế lấy đối đầu chính trị - quân sự là chủ yếu không còn phù hợp, phải chịu nhiều tổn thất hoặc thất bại như hai nước Mỹ - Xô và "một bị thương một bị mất". Trong khi đó, phương thức lấy hợp tác và cạnh tranh về kinh tế - chính trị là chính lại thu được nhiều tiến bộ, kết quả như các nước Đức, Nhật và NIC. Sự hưng thịnh hay suy vong của một quốc gia được quyết định bởi sức mạnh tổng hợp của quốc gia đó, mà chủ yếu là thực lực kinh tế và khoa học - kỹ thuật. Vì vậy, sau chiến tranh lạnh, tất cả các quốc gia đều đang ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển và tập trung mọi sức lực vào ưu tiên phát triển kinh tế. Trong thời điểm hiện nay, kinh tế trở thành trọng điểm trong quan hệ quốc tế, cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia thay thế cho chạy đua vũ trang đã trở thành hình thức chủ yếu trong đọ sức giữa các cường quốc. Những cân nhắc về địa - kinh tế trên mức độ nào đó đã vượt quá tính toán về địa - chính trị. Các nước ngày càng nhận thức sâu sắc rằng, sức mạnh của mỗi quốc gia là một nền sản xuất phồn vinh, một nền tài chính lành mạnh và một nền công nghệ có trình độ cao và đó mới là cơ sở để xây dựng sức mạnh thật sự của mỗi quốc gia. 14 Trong tác phẩm "Sự hưng thịnh và suy vong của các cường quốc" xuất bản năm 1988, Paul Kennedy nhà sử học Mỹ đã nghiên cứu nguyên nhân quy luật hưng thịnh và suy vong của các nước lớn trên thế giới trong 500 năm gần đây. Tác giả nhấn mạnh, các nguồn lực kinh tế, sự phát triển khoa học - kỹ thuật, sức mạnh quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước, quyết định vị trí quyền lực của đất nước trong cục diện thế giới. Sự phát triển hay suy thoái của các yếu tố này tạo nên sự hưng thịnh và suy vong không chỉ của các cường quốc mà cả các quốc gia khác trong một thế giới phức tạp đan xen và phụ thuộc nhau. 2.1.2. Các nước lớn điều chỉnh quan hệ với nhau theo chiều hướng xây dựng quan hệ bạn bè chiến lược ổn định và cân bằng hướng về lâu dài. Đây là đặc điểm chủ yếu và nổi bật của quan hệ giữa các nước lớn trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Sự điều chỉnh ấy là to lớn và sâu sắc. Xuất phát từ lợi ích chiến lược căn bản của mình, các cường quốc tiến hành điều chỉnh lại chính sách đối ngoại để tìm chỗ đứng tốt nhất, xây dựng khuôn khổ quan hệ mới ổn định lâu dài, xác lập các điều kiện quốc tế có lợi hơn, mở rộng hệ thống an ninh quốc gia, tạo ra không khí quốc tế để xây dựng kinh tế nước mình như mục tiêu chủ yếu trong quá trình điều chỉnh Tháng 7/1997, Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto đề ra ba nguyên tắc đối với Nga là "Tin cậy lẫn nhau, cùng có lợi, hướng về lâu dài". Với quan hệ Nhật - Trung, ông đưa ra bốn nguyên tắc : "Hiểu biết lẫn nhau, tăng cường đối thoại, mở rộng hợp tác, hình thành trật tự chung" (9/1997). Về phía Trung Quốc, đầu tháng 11/1997, khi sang thăm Nhật Bản, Thủ tướng Lý Bằng lại đưa ra năm nguyên tắc trong quan hệ với nước này là :"Tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; tìm kiếm điểm chung, gác lại bất đồng, giải quyết thỏa đáng những vấn đề bất đồng; tăng cường đối thoại, tăng thêm hiểu biết lẫn nhau; tạo thuận lợi và cùng có lợi, phát triển sự hợp tác kinh tế; hướng tới tương lai, đời đời hữu nghị". Cuối tháng 10/1997, khi sang thăm Mỹ, Chủ tịch nước CHND 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan