Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ẩn dụ tu từ trong vài tác phẩm văn học được giảng dạy ở bậc phổ thông cơ sở dưới...

Tài liệu ẩn dụ tu từ trong vài tác phẩm văn học được giảng dạy ở bậc phổ thông cơ sở dưới ánh sáng của kí hiệu học

.PDF
102
1364
62

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH VÀ NHÂN VĂN * * * * NGUYỄN THỊ DUYÊN ẨN DỤ TU TỪ TRONG MỘT s ố TÁC PHẨM VÃN HỌC Được GIẢNG DẠY Ở BẬC PHỔ THÔNG c ơ SỞ DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KÝ HIỆU HỌC -£003- C h u y ên n g à n h : Lỷ lu ậ n n g ô n n g ữ Mã sô : 5 04 08 LUẬN ÁN THẠC s ĩ KHOA HỌC NGỮVẢN V . UJl03 G iáo v i ê n h ư ớ n g d ẫ n : G S.T S K h o a h ọ c N g u y ễ n L a i Hà Nội - 2000 M Ụ C LỰ C PHẦN MỚ ĐẦU 1. Lý do chọn đề t à i ....................................................................................... 2. Đối lượng nghiên cứu, mục dích và nhiệm vụ của luận án........... 2.1. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu........................................ 2.2. Mục đích - ý nghĩa của luận án.......................................................... 2.3. Nhiệm vụ của luận án............................................................................ 3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu................................ 3.1. Phương pháp luận................................................................................... 3.2. Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 3.2.1. Phương pháp thống kê so sánh....................................................... 3.2.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp trên cơ sở liên ngành....... khoa học: Ngôn ngữ học, Ký hiệu học, Thi pháp học 4. Lịch sử vấn đề.............................................................................................. 5. Cấu trúc của luận án.................................................................................. CHUƠNG 1 NHŨNG LUẬN ĐIỂM KHOA HỌC VỀ Ẩn dụ tu từ 1.1. Khái niệm về ẩn dụ................................................................................. 1.1.1. All dụ từ vựng là gì ? ......................................................................... 1.1.2. Ân dụ tu từ............................................................................................. 1.2. An dụ tu từ dưới ánh sáng của Ký hiệu học................................. 1.2.1. Ký hiệu học........................................................................................... 1.2.2. An đụ tu từ dưới ánh sáng của Ký hiệu học............................... 1.3. An dụ tu từ dưới ánh sáng của Ngôn ngữ học.............................. 1.3.1. Màu sắc tu từ và phương tiện tu từ................................................ 1.3.2. An dụ tu từ là phương tiện tu từ ngữ nghĩa................................. /? 1.4. An dự tu từ dưới ánh sáng của Thi pháp h ọ c ................................. 1.4.1. Thi pháp học.......................................................................................... 1.4.2. Ân dụ tu từ dưới ánh sáng của Thi pháp học.............................. CHUƠNG2 ẨN DỤ TU TỪTRONG CA DAO VÀ "TRUYỆN KIỀU" 2.1 .Phép ẩn dụ tu từ trong ca dao Việt N am ........................................... 2.1.1. Đặc diểm của ẩn dụ tu từ trong ca dao........................................ 2.1.2. Phương thức triển khai hình tượng của ẩn dụ trong ca dao... 2.2. Ân dụ tu từ trong túc phẩm 'Truyện Kiều" của N guyên D u .. 2.2.1. Đặc điểm của ẩn dụ tu từ trong "Truyện Kiều"......................... 2.2.2. Giá trị biểu hiện của ẩn dụ trong một số đoạn trích giảng.... văn "Truyện Kiều" ở lớp 9 phổ thông. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO P H Ầ N M Ở ĐẦU 1. LỶ DO CHON DỂ TẢI: Trong hoạt động dạy và học V f i n học trong' nhà trường từ xưa đến nay, vấn để tiếp nhận hình tượng nghệ th u ậ t của tác phẩm văn học là vấn để cốt tử nhất. Muôn tiếp nhận được hình tượng nghệ th u ật của tác phẩm văn học chỉ có một con đường duy nhất dứng là thông' qua ngôn ngữ của tác phẩm bởi v ì "Văn học là hỉnh thức sáng tạo nghệ thuật bằng ngôn từ" [V.I. Lê Nin]. Ngôn ngữ trong văn chương' có những dặc trưng riêng của ngôn ngữ nghệ thuật. Nó là một mả phức tạp được cấu tạo nôn từ ngôn ngữ tự nhiên. Chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ trong các tác phẩm văn chương được thê hiện ở chỗ tín hiệu ngôn ngữ trỏ' thành yếu tô" tạo nên hình tượng. Và muôn thực hiện dược chức năng' thẩm mỹ, ngôn ngữ nghệ th u ật phải có những đặc trưng như: Tính cấu trúc, tính hình tượng, tính cá thể hoá và tính cụ thô hoá. Đê có được những đặc tính trên, các tác giả văn chương luôn phải tìm tòi, sáng tạo những phương tiện biểu cảm của ngôn ngữ và những biện pháp tu từ đê tạo nghĩa hình tượng cho ngôn từ, bởi vì: "N ghĩa hình tượng chỉ xuât hiện bằng con đường biểu trưng hoá các tín hiệu ngôn ngữ, bằng biện pháp thay th ế lảm thời về nghĩa đê làm cho cách diễn đạt thêm bóng bay và có hàm ý sâu sắc" [4; 130]. Trong hệ thông các phương tiện biểu cảm của ngôn từ, ẩn dụ tu từ lả một phương tiện biểu cảm đặc biệt, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình sáng tạo và tiếp nhận văn học. An dụ là một hiện tượng ngôn ngữ được quan tâm nghiên cứu trong nhiều the kỷ và từ nhiều góc độ khác nhau. Song đối với giáo viên ngữ văn trong các nhà trường phô thông và các giáo sinh khoa ngữ văn của các trường Cao đang sư phạm, việc nghiên cứu- tìm hiểu để có một hộ thống kiến thức sâu rộng về ẩn clụ tu từ không phải là clễ dàng, tíởi hiện tượng ngôn ngữ này có cơ sở lý luận từ trong ký hiệu học, ngôn ngữ học và thi pháp học; và trong thực tiễn, ẩn dụ tu từ còn mang đâu ấn văn hoá gắn liền với truyền thông ngôn ngữ, tâm lý dân tộc và thòi dại của nhà văn. Kê thừa các cách tiêp cận từ ký hiệu học, ngôn ngữ học, thi pháp học, luận văn hệ thông hoá và phát triển thêm vê ẩn dụ tu từ nhằm đạt tới mệt cách nhìn bao quát, đa chiều về hiện tượng ngôn ngữ này. Luận văn cũng khảo sát các đặc trưng biểu hiện, đặc trưng văn hoá của ẩn dụ tu từ trên tư liệu Ca dao Việt Nam và tác phẩm "Truyện K iều" của Nguyễn Du để thấy được dấu ấn tài năng của cá nhân nhà văn trong sáng tạo và sử dụng ẩn dụ tu từ cùng giá trị biểu hiện của nó trong việc tạo hình tượng nghệ th u ậ t văn chương. 2. Đ ổ ĩ TƯƠNG NGHIÊN c ứ u , MUC ĐÍCH VẢ NHĨẺM v u CỬA LUÂN ÁN 2.1: ĐỐI TƯƠNC; NC.HĨẺN CỨU VẢ PHAM Vĩ Tư L1ÉU. Đối tượng nghiên cứu của luận án là cơ sở lý luận của ẩn dụ từ góc độ ký hiệu học, ngôn ngữ học, thi pháp học và những đặc điểm của ẩn dụ tu từ trong thi ca. Luận án cũng giới hạn sự nghiên cứu vấn đề trong phạm vi khảo cứu lý luận và khảo sát ẩn dụ trong ca dao người Việt và tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Đặt vấn để nghiên cứu trong phạm vi khảo cứu lý luận về ẩn dụ bởi vì ẩn dụ là đối tượng đã được các ngành: Ký hiệu học, Ngôn ngữ học, Thi pháp học xem xét ở từng góc độ. Để có được nhận thức đầy đủ về diện mạo của hiện tượng ngôn ngữ này, cần thiết phải khảo cứu toàn diện các kết luận khoa học từ các ngành trên. Đặt vấn đề nghiên cứu ẩn dụ trong phạm vi kho tàng Ca dao của người Việt và "Truyện K iều" của thi hào Nguyễn Du vì thi ca chính là lãnh địa đắc dụng nhất của ẩn dụ. Đây là lĩnh vực thể hiện tập trung nhất, sâu sắc nhất tâm hồn, trí tuệ của dân tộc và cũng là nơi thể hiện rõ n hất đặc điểm ngôn ngữ và tài năng sử dụng, sáng tạo ngôn ngữ của nhà văn. Nghiên cứu trên tài liệu ca dao và thơ cổ điển sẽ cho phép luận án nhìn vấn đề ẩn dụ trong tính hiện thực của nó và minh chứng được luận điểm: Ấn dụ tu từ mang đậm dấu ấn văn hoá của truyền thống và thời đại; trong sáng tạo nghệ thuật, tác giả văn chương đã kế thừa truyền thống và phát huy sáng tạo để ẩn dụ luôn mới mẻ và độc dáo trong sự biểu đạt hình tượng nghệ thuật. 2.2: MUC ĐÍCH - Ỷ NGHĨA CỨA LUÂN ÁN. Mục đích của luận án là khảo cứu để có được cái nhìn hệ thông, bao quát toàn diện các phương diện của một hiện tượng ngôn ngữ. Đó là cơ sở lý luận chung giúp cho người nghiên cứu và sử dụng ngôn ngữ cỏ được khái niệm chính xác và thông n h ất về 2 ẩn dụ tu từ, phân biệt rõ ranh giới của các phương tiện tu từ ngữ nghĩa: ẩn dụ, so sánh nghệ thuật, hoán dụ, nhờ cơ chế tạo nghĩa đặc trưng của ẩn dụ. Khảo sát trên tư liệu thơ ca nhằm mục đích làm sáng tỏ đặc điểm, cơ chế và giá trị của ẩn dụ trong sáng tạo nghệ th u ậ t thơ ca. Hy vọng điều đó sẽ gợi mở và cung cấp một số cơ sỏ có tính chất thao tác để tiếp cận,khai thác và tiếp nhận thơ ca theo phương hướng đúng đắn nhất đó là khai thác văn bản ngôn từ. 2.3: NHIÊM VU CỦA LUÂN ÁN. Luận án xem xét ẩn dụ ở phương diện là ký hiệu ngôn ngữ. Đặc điểm của loại ký hiệu này và cơ sở xác định tính thẩm mỹ của nó nhằm làm sáng tỏ cơ chế chung của ẩn dụ tu từ. Trên phương diện ngôn ngữ học, ẩn dụ được so sánh để phân biệt với các phương tiện biểu cảm khác như so sánh tu từ, hoán dụ tu từ là những phương tiện có cơ chế tạo nghĩa khác nhau. Đồng thời cũng phân biệt các phương tiện cùng nhóm (cùng cơ chế tạo nghĩa) như: ẩn dụ, nhân hoá, phúng dụ và tượng trưng, làm rõ đặc trưng từ vựng học và phong cách học để có khái niệm đúng về ẩn dụ từ vựng và ẩn dụ tu từ. Trên phương diện thi pháp học, luận án xem xét ẩn dụ với tư cách là chất liệu của thơ ca, nó có giá trị hình tượng và giá trị biểu cảm cao và mang dấu ấn văn hoá của thời đại cùng dấu ấn tài năng của nhà văn. Ẩn dụ trong thơ ca cũng chịu sự chi phối của thi pháp học cho nên ẩn dụ trong ca dao khác với ẩn dụ trong "Truyện K iều" của Nguyễn Du v.v... Luận án góp phần xem xét những biểu hiện khác nhau ấy của ẩn dụ. 3. PHƯƠNG PHÁP LUÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u . 3.1: PHƯƠNG PHÁP LUÂN. Cơ sở phương pháp luận của luận án là cách nhìn vấn đé theo quan điểm biện chứng và lịch sử. Tiếp cận với ẩn dụ tu từ, luận án cố gắng khai thác cơ ch€ tạo nghĩa, quy luật chuyển nghĩa của ký hiệu ngôn ngữ đặc thì này, cơ sở của quy ỉuật ấy chính là mối quan hệ thông n h ấ t giữ£ ngôn ngữ và tư duy. Ằn dụ được coi là phương tiện biểu cảm củi ngôn ngữ nhưng nó luôn tồn tại cụ thể trong môi trường giao tiếĩ cụ thể dó là mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và lời nói. 3 Với cái nhìn lịch sử, luận án sẽ xem xét ẩn dụ tu từ trong lịch sử phát triển của ngôn ngữ học và trong lịch sử của thơ ca nhằm rú t ra khái niệm chính xác về ẩn dụ tu từ và nhận ra đặc trưng văn hoá dân tộc qua Ca dao và "Truyện K iều", thấy được sự kế thừa và phát triển trong sáng tạo nghệ thuật, trong sử dụng ngôn từ của các th ế hệ thi gia. Chính trong quá trình sáng tạo ấy, ẩn dụ được khẳng định là phương tiện ngôn ngữ đặc biệt đối với ngôn ngữ nghệ thuật. 3.2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u . Tìm hiểu về ẩn dụ tu từ, lý giải nó qua các sáng tạo văn chương, luận án được thực hiện trên cơ sở tổng kết và kế thừa thành tựu của các công trình nghiên cứu ngôn ngữ và văn học của Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Trường Đại học sư phạm, Viện Ngôn ngữ học, Viện Văn học, của các nhà khoa học Nguyễn Lai, Hoàng T rinh, Đô Hữu Châu, Đ inh Trọng Lạc, Đào Thản, Trần Đình sử , Hà M inh Đức, Hà Công Tài, Hữu Đ ạ t... Đồng thời luận án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau : 3.2.1: Phướng pháp th ố n g kê so sá n h . Ngôn từ là phương tiện để nghệ sĩ thể hiện tư tưởng nghệ th u ậ t của mình. Ngôn từ cũng là khâu đầu tiên đưa người đọc thâm nhập vào th ế giới nghệ th u ật của tác phẩm. Trong các phương tiện ngôn ngữ thì ẩn dụ tu từ là phương tiện ngữ nghĩa có giá trị hình tượng và giá trị biểu cảm cao cho nên được sử dụng rộng rãi trong các phong cách chức năng ngôn ngữ và đặc biệt trong thi ca. Luận án sử cỉụng phương pháp thống kê các ẩn dụ tu từ trong ca dao và thơ, so sánh với các phương tiện ngữ nghĩa khác nhóm (so sánh, hoán dụ) và phần nào với các phương tiện cùng' nhóm (nhân hoá, phúng dụ, tượng trưng) để làm sáng tỏ những đặc trưng cơ bản của ẩn dụ như : Cơ chế tạo nghĩa, giá trị biểu cảm, giá trị hình tượng, đặc trưng văn hoá... của phương tiện ngôn ngũ này trong sáng tạo và tiếp nhận thơ ca. 3,2.2: P hướng pháp phân tích, tổ n g hớp trẽn cơ sỏ? liên n gàn h k hoa hoc: N gôn n gữ hoc, ký h iẽ u hoc, thi pháp hoc. Ký hiệu học và Ngôn ngữ học là hai ngành khoa học cùng nghiên cứu về ngôn ngữ vì vậy cùng xem xét>về vấn đề ẩn dụ, tuy 4 nhiên mỗi ngành có góc độ nghiên cứu riêng và mô tả ẩn dụ ở những phương diện khác nhau. "Nếu Ngôn ngữ học nghiên cứu ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp với những quy luật của nó về m ặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, tu từ... thỉ Ký hiệu học nghiên cứu ngôn ngữ như một hệ thống biểu hiện hay biểu trưng, hệ thống tạo nghĩa trong giao tiếp xã hội thông qua các ký hiệu với các chức năng và các hiện tượng chuyển hoá về hình thức và chất thê của nó. Cụ thê hơn, nếu Ngôn ngữ học chủ yếu bóc tách hai m ặt câu thành và tạo nghĩa của một ký hiệu ngôn ngữ th ì Ký hiệu học chú ý đến sự kích thích, sự thông báo của ký hiệu bằng sự gợi lên một vật kích thích tương ứng nhằm thông báo một cái gì. Đó là hai hướng đi khác nhau về m ặt nghiên cứu phương thức tạo nghĩa" [18; 29]. Từ luận điểm trên, luận án tiếp thu phương pháp của Ký hiệu học và Ngôn ngữ học để làm rõ đặc trưng bản chất của ẩn dụ tu từ. Bổ sung cho cách tiếp cận nêu trên là phương pháp của Thi pháp học. Coi ẩn dụ tu từ là đối tượng của thi pháp học chất liệu, Thi pháp học đã chỉ ra đặc điểm của ẩn dụ tu từ trong hoạt động sáng tạo thơ ca. Ẩn dụ tu từ là chất liệu quan trọng của ca dao, đồng thòi của thơ cổ điển. Ẩn dụ tu từ là một hình thể từ ngữ trong hệ thông hình thể ngôn từ, nó chính là đốì tượng nghiên cứu của thi pháp học chất liệu. Phương pháp của thi pháp học giúp cho luận án cách tiếp cận ẩn dụ trong môi trưòng cụ thể của nó là văn bản thơ ca, bằng phân tích và so sánh ẩn dụ trong tính hiện thực của nó mà luận án làm rỗ được đặc trưng văn hoá và tư duy của ẩn dụ tu từ, điểm cơ bản khiến cho ẩn dụ của ca dao khác ẩn dụ của thơ cổ điển, ẩn dụ của mỗi tác giả cũng không giống nhau - nó là biểu hiện cụ thể của mỗi tài năng nghệ thuật. Nói tóm lại, luận án đã tiếp thu phương pháp của Ký hiệu học, Ngôn ngữ học đê nghiên cứu ẩn dụ ở trạng th ái tĩnh và tiếp thu phương pháp của Thi pháp học để nghiên cứu ẩn dụ ở trạng thái động, trong môi trường sông của nó là thơ ca. 4. LICH SỬ VẤN ĐỂ: Nghiên cứu ẩn dụ có một truyền thống nhiều th ế kỷ. Có thể nói A-ri-xtốt - nhà triết học và mỹ học Hy Lạp (384-322,-CN) lồ người đã đặt nền móng cho truyền thống này. Từ th ế kỷ IV trước công nguyên, A-ri-xtỐt đã phát hiện ra cách sử dụng ngôn ngí 5 theo hình thể (Figura), đó là những cách thức, những hình thức diễn đạt bóng bẩy, gợi cảm, có sức hấp dẫn và lôi cuốn trong khi trình bày. Ông đã tổng kết một số hình thể như: So sánh (Similis), ẩn dụ (metaphoria), hoán dụ (metonymia), tương phản (antothelis), khoa trương (hyperbole) và đặc biệt chú ý đến ẩn clụ. Trong cuổn "Thì học", ồ Chương 21, A-ri-xtỐt đã định nghĩa ẩn dụ: ỉà một từ với một nghĩa nào dó khác nó, có thể chuyển nghĩa này hoặc nghĩa khác, từ một loài sang một giổng hoặc từ một giông sang một loài, hoặc từ một loài sang một loài khác hoặc được dùng theo kiểu đồng dạng. Đến phần Tu từ học (Cuôn III, Chương I -> XII) ông nêu tiếp: Ẩn dụ có nhiều loại rấ t quan trọng trong cả thơ lẫn văn xuôi, nhưng trong thơ nhiều hơn. Ẩn dụ có tính sáng sủa, clễ yêu và tác động mạnh. Ông cho rằng: Mọi từ đều có thể dùng chung hoặc dùng làm ẩn dụ, hoặc clùng làm cái tu sức, hoặc dùng' làm cái kích thích, hoặc dùng làm cái biến đôi. Ẩn dụ là một sự chuyên dạng, ''một cái tên lạ" mà Arixtốt gọi là "aliens" ( một cái tên thuộc về cái khác, một cái tên xa lạ, không dùng' bình thường). Có thể nói: phát hiện ra các Figura (cách tu từ) trong đó có ẩn dụ là một đóng góp đáng kê cho Mỹ từ pháp cổ đại. Thế kỷ sau Arixtốt, Xiceron (106-43, -CN) chú ý đến ẩn dụ bởi sự hấp dẫn, duyên dáng, ông chú ý đến cấu tạo hình thức của ẩn dụ: đó là phép so sánh bớt đi một từ. T hế kỷ XVIIĩ, ẩn dụ tiếp tục được Đuymacxe (Pháp) nghiên cứu sâu về tu từ học, tức là cách dùng để gây hứng thú. Quan điểm này được tiếp nối ở th ế kỷ XIX bởi tác giả Phôngtaniê (Pháp). Thê kỷ XX, các nhà Ký hiệu học và Ngôn ngữ học có nhiều ý kiến về ẩn dụ, đặc biệt là nhà Ngôn ngữ học - Ký hiệu học - Thi pháp học người Mỹ Roman Gia kop sơn (ông vôn là một nhà Hình thức luận Nga, thành lập nhóm Ngôn ngữ học P rah a năm 1926, là cầu nối giữa Hình thức luận Nga với Cấu trúc luận hiện dại). Theo ông, ẩn dụ- dó là kết quả của sự tương đồng giữa các sự vật, hiện tượng; là hình ảnh ngôn từ mang tính chất nước đôi, tức là cùng một lúc có hai nghĩa, vừa là cái này vừa là cái kia. Ẩn dụ chính là ký hiệu này thay th ế ký hiệu khác và có thể viết một hệ ngữ pháp về cách sắp xếp các ẩn dụ. 6 Bên cạnh R.Giakopson còn có các nhà khoa học khác cũng' có bàn về ẩn dụ. Đó là Ghêra Ghê nét (Gerard Genette), Pôn Ri cơ (Paul Ricoeur), Pôn Đơ Men (PauldeMan), Mac Blac (Max Black) Giooc giơ Le Kop (Georges Le Koff), Mac Giôn-Xơn (Mark Johnson). Theo Pôn Ri cơ trong cuốn "Quy tắc ẩn dụ" [dẫn theo 18; 62]: A-ri-xtốt đã có công nêu được quan hệ tu từ của sự hùng biện, thuyết phục và quan hệ lôgíc về th ế khả năng của sự thuyết phục. Tu từ và Thi pháp là hai thê giới biệt lập và ẩn dụ đều có chân ở cả hai bên. Ẩn dụ có một cấu trúc nhưng hai chức năng. Chức năng tu từ là đi tìm chứng cớ để thuyết phục khi tran h luận, chức năng thi pháp là mô phỏng hành động thực. Theo ông, hiện tượng chuyên nghĩa tập trung vào từ là chính mà không phải là từ ngữ. J.Le Kôp và Mác Giôn xơn (Mỹ) quan niệm : Ấn dụ thường thấy trong ngôn ngữ tu từ, ngôn ngữ mỹ văn. Nhưng nó không chỉ thuộc lĩnh vực sử dụng mà tồn tại ngay từ trong khái niệm và cả trong hành động của con người trong cuộc sông. Ẩn dụ là cái cấu trúc của cái ta cảm nhận, cái ta nghĩ và cái ta làm. Còn Mac Blek khi bàn về ẩn dụ đã nhấn mạnh đến tác động qua lại giữa hai mặt (mặt nổi và m ặt chìm) và cũng là hai sự vật cùng tồn tại trong ẩn dụ. Trên quan điểm Thi pháp học, trong công trình "Thi pháp văn học Nga cổ" xuất bản ỏ Mát xcơ va năm 1967, Li-kha-sép đã nghiên cứu ẩn dụ trong mục "Thi pháp của các biện pháp khoa học". Tác giả quan niệm : Ẩn dụ trước hết phải là sự biểu hiện bằng hình ảnh thực, hình ảnh của đòi sông dựa trên những quan sát thực tế, khác với hình ảnh tượng trưng vôn th ấm nhuần tính chất thần học trong văn học Nga cổ, tách ròi đời sống phong phú sinh động. Trên phương hướng này tác giả đồng ý với nhà Thi pháp học lịch sử và Hình thức luận Nga Vê-xe-lôp-xki là cần nghiên cứu chúng trong hệ thông mỹ học cụ thể. Còn theo tác giả Bakhtin, trong thi ca, ẩn dụ là phương tiện miêu tả nhưng khi đi vào tiểu thuyết thì ẩn dụ thi ca lại trở thành đốì tượng miêu tả dưới bàn tay sáng tạo hình tượng của nghệ sĩ. Trong các công trình lý luận văn học của Timôíêép, Khráptrencô, ẩn dụ được nghiên cứu theo qu:\n điểm ngôn ngũ trong tác phẩm văn học và các phương thức tổ chức lòi văn nghệ thuật. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu Ngôn ngữ thường xem xét ẩn dụ từ góc độ Từ vựng - ngũ nghĩa hoặc từ góc độ những phạm 7 trù phong cách học ngôn ngữ. Giáo sư Đỗ Hữu Châu nghiên cứu ẩn dụ với tư cách là một ỊDhương thức chuyển nghĩa của từ, ẩn dụ là một quy luật, một phương thức tạo nghĩa làm giàu vốn từ tiếng Việt và đó là ẩn dụ từ vựng. Các nhà Việt ngữ học : Nguyễn Lai, Cù Đình Tú, Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà, Nguyễn Thiện Giáp v.v... nghiên cứu ẩn dụ từ góc độ những phạm trù phong cách học. Trong các giáo trình phong cách học, ẩn dụ được coi là một phương tiện tu từ ngữ nghĩa hoặc biệp pháp tu từ theo quan hệ liên tưởng ngữ nghĩa. Các tác giả đều cô" gắng miêu tả an dụ ở các phương diện: Cấu tạo, giá trị nhận thức, giá trị hình tượng và biểu cảm của ẩn dụ. Cách đánh giá nhìn chung là thông nhất nhưng trong' các chi tiết, các tiêu chí phân biệt, các tác giả cũng có điếm phản biệt. Chang hạn, một sô tác giả: Đinh Trọng Lạc, Bùi Minh Toán, Nguyễn Thái Hoà chú ý phân biệt các phương tiện tu từ với các biện pháp tu từ và xếp Ẩn dụ tu từ vào nhóm các phương tiện tu từ ngữ nghĩa, thì tác giả Cù Đình Tú lại không phân biệt phương tiện và biện pháp mà gọi chung là các cách tu từ, tuy nhiên trong các cách tu từ, tác giả có phân định dựa trên tiêu chí quan hệ ngôn ngữ cho nên có các cách tu từ theo quan hệ liên tưởng và các cách tu từ theo quan hệ tồ’ hợp. Ẩn dụ thuộc cách tu từ theo quan hệ liên tưởng. Có thể nói các nhà Việt ngữ học đã nghiên cứu ẩn dụ tu từ từ góc độ Ngôn ngữ học, đã đi đên khái niệm hoàn chỉnh vê hiện tượng ngôn ngữ này, đã chỉ ra cơ chế tạo nghĩa, giá trị biêu dạt của nó trong giao tiếp của người Việt. Ẩn dụ là một hiện tượng ngôn ngữ đặc biệt và khá phổ biến trong giao tiếp bằng Tiếng Việt. Từ góc độ lý luận văn học, các nhà nghiên cứu: Hà Minh Đức, Trần Đình sử, Phương' Lựu, Nguyễn Xuân Nam ... trong các công trình lý luận văn học cũng đề cập đến ẩn dụ và nghiên cứu nó với tư cách là một phương tiện chuyển nghĩa, một biện pháp khai thác ngữ nghĩa, nhờ dó ngôn ngữ trong tác phẩm đã phong phú lại càng giàn cỏ thêm. Ân clụ mang ý nghĩa cá thổ cao, gây ấn tượng mạnh mẽ vì thô' trở th ành một trong những phương- tiện cấu tạo nên hình tượng văn học. Trên phương diện Thi pháp học, nhà nghiên cứu Hoàng Trinh, Hà Công Tài nghiên cứu ấn dụ trong tư cách là một hình thể từ ngữ trong hệ thông hình thể ngôn từ và ẩn dụ chính là chất liệu của thi pháp học, là yếu tố thuộc về cấu trúc của chỉnh thể nghệ thuật, trong chức năng xây (lựng hình tượng. Luận án tiếp thu những ý kiến quý báu của các nhà khoa học vê ẩn dụ tu từ đã dược trình bày ở trên, ngoài ra luận án tiếp tục tìm hiểu những vấn đề sau của ẩn dụ: Thứ nhất, những đặc điểm nào của ẩn dụ tu từ khiến cho nó trở thàn h một phương tiện diễn cảm đặc biệt, được sử dụng trong nhiều phong cách chức năng ngôn ngữ và nhất là trong thơ ca. Cách nhận biết và phân tích ẩn dụ tu từ trong văn bản trữ tình. Thứ hai, ẩn dụ trong ca dao có những đặc trưng' phân biệt vói ẩn dụ trong thơ cổ điển bỏi ẩn dụ luôn thể hiện đặc trưng văn hoá, những dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo. 5. CẤU TRÚC CỦA LUÂN ÁN Luận án được chia thành các phần và chương mục như sau: PH ẦN MỞ ĐẨU 1. 2. 3. 4. 5. Lý do chọn đề tài. Đôi tượng nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ của luận án. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. Lịch sử vấn đề. Cấu trúc của luận án. PH Ầ N NỘI DUN G Chương 1: N hững luận điếm k hoa học về ẩn dụ tu từ. 1.1. Khái niệm về ẩn dụ. 1.2. Ân dụ tu từ dưới ánh sáng của K ý hiệu học. - Khái niệm Ký hiệu học. - Ẩn dụ tu từ là một ký hiệu đặc biệt. - Ẩn dụ tu từ là một hình thê từ ngữ thuộc mã thẩm mỹ. 1.3. Ân dụ tu từ dưới ánh sáng của Ngôn ngữ học. - Màu sắc tu từ, phương tiện tu từ. - ií n dụ là phương tiện tu từ ngữ nghĩa có các đặc điểm sau: + Khái niệm. + Cơ chế chuyển nghĩa và việc phân loại ẩn dụ. + Những nhân tô" để nhận biết ẩn dụ. + Giá trị, tác dụng của ẩn đụ tu từ. 1.4. Ấn dụ tu từ dưới ánh sáng của Thi pháp học. 9 C h ư ơ n g 2: T ìm h iể u ẩ n d ụ t u từ t r o n g k h o t à n g ca d ao người V iêt và t r o n g "T ruyện K iêu" c ủ a N g u v e n Du 2.1. Án dụ tu từ trong ca dao ngưìỉi Việt. - Đặc diêm của ấn dụ tu từ trong ca dao. - Phương thức triển khai hình tượng của ẩn dụ trong ca dao. 2.2. ân dụ tu từ trong "Truyện Kiêu " của Nguyễn Du. - Đặc điểm của ấn dụ trong "Truyện Kiều" - Giá trị biếu hiện của án dụ trong một sò đoạn trích gián văn ''Truyện Kiểu" ó lớp 9 phố thông. PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO. CHƯƠNG 1 NHỮNG LUẬN ĐIỂM KHOA HỌC VỂ Ẩn d ụ t u t ừ 1.1. KHÁI NĨẺM ẨN DU. Phạm trù ấn dụ dã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu trong một truyền thông lâu đời. Đã có rấ t nhiều định nghĩa về nó. Mỗi định nghĩa là biêu hiện một cách nhìn - một góc độ nghiên cứu đôi với ấn dụ. Nếu coi ẩn clụ là một hiện tượng ngôn ngữ thì ẩn dụ được định nghĩa: "Phép ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa của một đối tượng nảy thay cho dôi tượng khác khi hai đôi tượng có một nét nghĩa tương đồng nào dó" [911; 194]. Ẩn dụ là phương thức chuyền nghĩa cố định hoặc chuyển nghĩa lâm thời, vì vậy có ẩn dụ từ vựng và ẩn dụ tu từ. 1.1.1. Ẩn du từ vựng là gì ? Là phương thúc chuyên nghĩa phổ biến trong tấ t cả các ngôn ngữ trên th ế giới. Đó là cách lấy tên gọi của đối tượng này để biểu thị đôi tượng kia, dựa trên cơ sở môi quan hệ liên tưởng v ã nét tương' dồng giữa hai dôi tượng. Ví dụ: Người Việt thường nói: một ý nghĩa sôi nổi, một trái tim rực cháy, một thái độ lạnh lẽo, anh ở đầu sông, đêm qua tát nước đầu đ in h , chân trời lui mãi v.v... Phân tích cách nói trên, chúng ta thấy các từ ngữ dược chuyến nghĩa là: Sôi nổi, rực cháy, lạnh lẽo, đầu sông, đầu dinh, chân tròi. + "Sôi nôi" là từ vốn chỉ trạng thái nhiệt độ của sự vật đang bốc cao (VD: nước í>ôi) nhưng trạng thái suy nghĩ của con người cũng diễn ra ở nhiổu cấp độ khác nhau, có khi m ạnh mẽ khác thường, vì vậy có thê dùng "sôi nôi" đê chỉ sự suy nghĩ ở trạng' thái dó. + "Rực cháy": Chi sự vật cháy ở giai doạn cực thịnh, tình cảm của con người phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao trào cũng như vậy nên có thê dùng "rực cháy" để biểu thị. Đặc điểm của ẩn dụ từ vựng: là sự chuyên nghĩa mang tính xã hội, ôn định và cố định. Những nghĩa chuyển này được cộng 11 đồng sử dụng ngôn ngữ thừa nhận và sử dụng như nhau. Chúng được ghi trong' từ điển. Đó là trường hợp từ đa nghĩa. Ví dụ: " đ ầ u " : 1. Phần trên cùng của cơ thê (trái ưới chân, đuôi). 2. Phần trên, phần ngọn của vật g ì dài (trái với cuối). 3. Trước nhất. Cần lưu ý thêm rằng: ẩn dụ từ vựng là một phương thức chuyển nghĩa của từ, nó tạo ra từ nhiều nghĩa và làm phong phú thêm vốn từ của mỗi ngôn ngữ. Chẳng hạn, theo phép ẩn dụ, Tiếng Việt có thể tạo ra những cặp danh từ (gồm một từ chỉ bộ phận cơ thê động vật và một từ chỉ động vật) dùng để gọi tên, chỉ loại hay miêu tả hình dáng, màu sắc của đồ vật như sau: Cánh én, cánh gà (sân khấu), cánh phượng (trầu têm), cánh trả (màu xanh), mũ lưỡi trai, m ắt cá chân, lưới m ắt cáo, chum da lươn (màu), mũ tai mèo, đầu ruồi súng, màu lòng tôm, màu lông chuột, đất gan gà, ngô răng ngựa v.v... - Ẩn dụ từ vựng là phương thức chuyển nghĩa có tính chất quốc tế, nó là quy luật chung của nhiều ngôn ngữ. Ví dụ: ẩn dụ "cánh" chỉ "dơn vị chiến dấu bố trí ở hai bên" xuất hiện trong tiếng Việt, trong tiếng Pháp, trong tiếng Anh và cả tiếng Nga. Các từ cùng ý nghĩa biểu vật với "cánh" như "aile" của tiếng Pháp, "Wing" của tiếng Anh và "YutÁUo" của tiếng Nga đều có cái nghĩa phụ trên [3; 156]. Tuy nhiên, cũng bắt đầu từ nghĩa chuyển này, tính dân tộc được thể hiện rõ nét vì vậy, có thể nói ẩn dụ mang tính dân tộc đậm đà, nó mang đặc trưng văn hoá dân tộc và phân biệt sự khác nhau giữa các ngôn ngữ. Sở dĩ có ẩn dụ từ vựng là vì nguồn gốc của ẩn dụ ở ngay trong tư duy và đòi sống của con người chứ không phải chỉ biểu hiện ở trong ngôn ngữ. Đê chứng' minh cho quan điểm triết học trên, hai nhà ngôn ngữ học G.le-cốp (Georges lekoff) và Mac Giôn - xơn (Mark Johnson) [dẫn theo 18; 67] đã đưa ra một số ví dụ sau. * Từ trong quan niệm, lý luận cũng được xem là những "công trình xây dựng" cho nên chúng ta đã nói theo kiểu ẩn dụ: - Đây có phải là nền tảng lý luận của anh không ? - Chúng ta cần xây dựng một lập luận m ạnh về điểm này. - Lập luận đã đổ’rồi. - Chúng ta phải đặt một cái sườn của lý luận. 12 * Ý tưởng được quan niệm như thức ăn: - Đây là thức ăn cho tư duy - Anh ta là người ngốn nhiều sách - Nó đọc nghiến ngấu cuốn sách. * Ý tưởng được quan niệm như con người: - Thuyết tương đối sinh ra một khối lượng lớn những tư tưởng vật lý học. - Ông là người cha của sinh vật học hiện đại. - Tâm lý học về nhận thức còn trong thời kỳ thơ ấu. * Ý tưởng được xem như cây cối. - Tư tưởng của anh ta cuối cùng đã khai hoa kết quả (thực hiện được) - Anh ta có một trí tưởng tượng’ m àu mỡ. - Anh ta có một trí tuệ khô cằn. * Ý tưởng được xem như sản phẩm: - Anh ta sản sinh ra những tư tưởng mói. - Đây là một tư tưởng thể hiện, nó cần được làm cho tỉnh tế hơn. - Chúng ta đã tạo ra dược nhiều tư tưởng mới. * Tình yêu được xem như sự điên loạn; - Tôi p h á t điên lên vì cô ta. - Anh ta thường xuyên p h á t khùng vì chị ấy. - Cô ta lái tôi ra ngoài trí óc của tôi. * Tình yêu như chiến tranh: - Anh ta được biết đến nhờ sự chinh phục nh an h chóng của mình - Anh ta bỏ tron từ sau những cuộc tấn công của cô ta. - Cô ta đuổi sát anh ta một cách kinh khủng. * Cuộc sồng như một cái hộp, cái thùng: - Tôi có một cuộc sống đầy ắp hạnh phúc. - Cuộc sống đói với hắn ta là trông rỗng. - Cuộc sông của hắn ta chứa chất toàn là những buồn phiền. 13 Đó toàn là những thành ngữ, những công thức từ ngữ có giá trị như một từ. Hai tác giả cho đó là "những từ ngữ gồm những từ thông thưòng được cấu trúc hoá bởi khái niệm ẩn dụ". Giáo sư Hoàng Trinh nhận xét: Quan niệm trên rấ t đúng và rấ t bổ ích. Nó giúp cho ta thấy rõ thêm cội nguồn bản thể luận của ẩn dụ và sự sáng' tạo tự thân, nguyên thuỷ của tư duy và trí tuệ con người. Ẩn dụ thuộc ngôn từ nhưng tự gôc cũng nằm sẵn trong tư duy và sự vận động của tư duy. Bởi vậy trong trường hợp này nói ra là đã ẩn dụ không phải thông qua một sự tìm tòi. Con người ta thường nói bằng ẩn dụ một cách không ý thức. Ngôn ngữ tự nhiên, tự nó đã có sự giàu có này là vì như vậy, vế^ẩ^dsriìÌPiv-ảĩĩh [18; 69]. Nói tóm lại, trong quan niệm về ẩn dụ cần phân biệt giữa ẩn dụ từ vựng với ẩn dụ tu từ. Ấn dụ từ vựng là một phương thức chuyến nghĩa, một quy luật tạo từ theo cơ chế ẩn dụ, quy luật này phổ biến ở mọi ngôn ngữ nhưng những biểu hiện cụ thề của nó, tức những ẩn dụ từ vựng cụ thể lại mang đậm bản sắc dân tộc. Ẩn dụ từ vựng là cách tạo ra nghĩa ổn định, mang tính xã hội. Nó làm giàu vốn từ vựng của một ngôn ngữ. Ẩn dụ từ vựng không phải là dôi tượng khảo sát trong luận văn này. Nó được xem xét đến đế phân biệt với ẩn dụ tu từ. 1.1.2. Ẩn dụ tu từ : "Từ điển văn học" do nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1983, trang 43 có định nghĩa : Ẩn dụ là một biện pháp tu từ, nằm trong phạm trù so sánh, nhưng ở mức độ nghệ th u ậ t cao hơn, không còn vê bị so sánh, chỉ còn vế đem ra so sánh, gây một tác dụng liên tưởng kín đáo hơn. Ẩn dụ không mang chức năng (lịnh danh, mà là biểu cảm. " Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền" (C a d a o ) An dụ là nơi thử thách tài năng sử dụng' ngôn ngữ của nhà văn. Ân dụ hay là một sự khám phá, nó thu h ú t người đọc chú ý và liên tưởng đến những khía cạnh mới mẻ của đối tượng dược biểu hiện: " Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng dã có ai vào hay chưa" (Ca dao) "Thuyền, mận" là chỉ người con trai, "bến, đào" chỉ người con gái. Cd sở tâm lý của ẩn dụ là sự liên tưởng và cho dù tinh tế, kỳ diệu đên đâu cũng phải có căn cứ và có thể hiểu được, c ầ n trán h lôi liên tưởng kỳ quặc, khó hiểu trong khuynh hướng văn học tắc tị, bí hiểm. Có một loại ẩn dụ đặc biệt gọi là ẩn clụ bô sung, thực hiện bằng sự chuyên dổi cảm giác, bởi vì " mùi hương, màu sắc, âm thanh tương giao cùng nhau" (Bô-đơ-le): "Này lắng nghe em khúc nhạc hường Này lắng nghe em khúc nhạc thơm" (Xuân Diệu) "Từ điển th u ật ngữ văn học" do Lê Bá Hán, T rần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, được Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1992, ở mục ẩn dụ, trang 9, coi ẩn dụ là một phương thức tu từ. Công trình này nói đến ẩn dụ văn học (ẩn dụ tu từ), nhấn mạnh các đặc điểm của nó, và như vậy là có sự phân biệt vối ẩn dụ ngôn ngữ học (tức ẩn dụ từ vựng). Các tác giả định nghĩa :"ẩn dụ là phương thức tu từ dựa trên cơ sở đồng n h ất hai hiện tượng tương' tự, thê hiện cái này qua cái kia, mà bản thân cái được nói tới thì giấu đi một cách kín đáo: " Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền" ( Ca dao) "Gìn vàng giữ ngọc cho hay Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời" (Nguyễn Du - Truyện Kiều) Thuyền và bến chỉ người con trai, C01Ì gái, người đi, người đợi. Vàng, ngọc chỉ tình yêu. Nhưng ẩn dụ làm cho cái được nói tới có thêm ý nghĩa bổ sung, nhấn mạnh, biêu hiện cảm xúc. Thuyên là yếu tô" vô định, có thê ghé bến khác, còn bến thì không di dịch. Vàng ngọc là thứ quí giá. Trong ẩn dụ văn học, sự chuyển nghĩa không chỉ xảy ra trong từ mà cả trong câu, trong hình tượng, quan hệ như trong câu ca dao trên đây. Ẩn dụ được thể hiện nhiều trong th(i ca, thể hiện phong cách cá nhân và thời đại. Có thể nói hai định nghĩa trên là sự xem xét, đánh giá ẩn dụ từ góc độ văn học, thể hiện được những nét bản chất của ẩn dụ tu từ. 1.2. ẨN DU TU TỬ D ư ớ ĩ ẢNH SÁNG CỬA KỶ HIỂU HOC: 1.2.1. Ký h iẻu h oc: Ký hiệu học (Semiotics)*15 là "công cụ của các khoa học". Ngày nay Ký hiệu học thâm nhập vào nhiều ngành khoa học như Triết học, Ngôn ngữ học, Nghiên cứu văn học, Thi pháp học, Xã hội học, Tâm lý học... đồng thòi nó cũng bổ sung cho mình những kiến thức cần thiôt của nhiều ngành, đặc biệt là của Ngôn ngữ học. Ký hiệu học và Ngôn ngữ học đều có một đôi tượng chung là ngôn ngữ con người. Nhưng nếu Ngôn ngữ học nghiên cứu ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp với những quy luật của nó về các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp... thì Ký hiệu học nghiên cứu ngôn ngữ như một hộ thống biểu trung hay biểu hiện, hệ thông tạo nghĩa trong’ giao tiếp xã hội thông qua các ký hiệu với các chức năng và các hiện tượng’ chuyên hoá về hình thức và về chất thê của nó. Những thành tựu của Ngôn ngữ học đã được tiếp thu dể vận dụng vào việc nghiên cứu hai mặt của ký hiệu (CBĐ và CĐBĐ) và những liên hệ giữa chúng với nhau đê tạo ra nghĩa, (lưới các hình thức khác nhau, tuỳ theo từng' loại ký hiệu. Theo F.d.Xot xuya (f.d.Saussure), xốt về m ặt ngôn ngữ học thì tín hiệu ngôn ngữ là một loại ký hiệu nhân tạo "kết liên thành không phải một sự vật với một tên gọi mà là một khái niệm với một hình ảnh - âm thanh" còn theo P.Ghi-rô (P.Guiraud): "Ký hiệu là một vật kích thích (Stimuli) có khả năng liên kết với một vật kích thích khác mà nó gợi lên trong dầu óc ta để thông báo một cái gì" [dẫn theo 18; 29]. Nếu định nghĩa trên của Ngôn ngủ học chủ yếu tách hai mặt cấu thành và tạo nghĩa của một Ký hiệu ngôn ngữ thì định nghĩa của Ký hiệu học chú ý đến sự kích thích, sự thông báo của Ký hiệu bằng sự gợi lỏn một vật kích thích tưdng ứng nhằm thông báo một cái gi. Đó là hai hướng đi có nét phân biệt ngay từ diêm xuất phát ban dầu của hai ngành khoa học trong việc nghiên cứu các phương thức tạo nghĩa. (1). Semiotics hay Semiotique. John Loch, nhà triết học Anh là người dầu tiên đặt ra chữ Sem iotik trong triết học. Charles Sanđor Preirce ở Mỹ đặt ra chữ semiotics trong lô gíc. học. F.d.Saussure đặt ra chữ Semiologie (từ Hyỉạp Sctncion ỉà hý hiệu). Năm 1938, Charles Morris ồ Mỹ đặt ra chữ Semiotics đ ế chỉ ký hiệu học. 16 Ký hiệu học đã nghicn cứu các mặt sau đây: + Đặc thù của một ký hiệu + Tính một nghĩa và tính da nghĩa của tín hiệu ngôn ngữ : nghĩa biểu thị và nghĩa mở rộng hay nội hàm. + Hình thức và chất thê của ký hiệu, + Các mã thẩm mỹ - hình thể từ ngữ. 1.2.2. Ẩn du tu từ dưởi ánh sán g của Ký h iêu hoe . a. Ần dụ tu từ là một ký hiệu của hệ thống ngôn ngữ, nó cỏ những đặc thù của một ký hiệu. Một ký hiệu có hai mặt: Cái biếu đạt (Signifiant) và cái được biếu dạt (Signifie') liên hệ với nhau qua một quan hệ vỏ đoán. Ngôn ngữ bao gồm những tín hiệu mang ý nghĩa và chỉ ra những sự vật ở bên ngoài. Trong' ký hiệu ngôn ngữ , CBĐ chính là âm thanh ngôn ngữ và phía sau nó là một khái niệm; hai mặt này dính liền nhau "có thể so sánh với một tờ giấy" (Xốt Xuya), hễ có cái này là phải có cái kia, không thê tách rời. Một tiếng động nào đó, không mang một khái niệm gì bên trong thì chỉ là tiếng động. Một khái niệm nào đó mà không được hiện diện ra ngoài bằng một âm, một CBĐ, thì đó chỉ là một sự im lặng. Như vậy, nguyên tắc cơ bản rú t ra từ thực tiễn của một ký hiệu ngôn ngữ là: một ký hiệu bao giờ cũng bao gồm hai vế, sinh ra cùng một lúc, như hai mặt của một tò giấy. CBĐ (âm thanh ngôn ngữ) và CĐBĐ (khái niệm) kết hợp với nhau đã tạo thành một thực thê ngôn ngữ: ký hiệu, một từ. Sự kết hợp này sẽ tạo ra cho từ một nghĩa. Ký hiệu học gọi sự kết hợp đó là một "quá trình", tức là một liên hệ lại với nhau giữa hai vế. Đó là "quá trình tạo nghĩa". CBĐ là m ặt vật chất của ký hiệu, nghe được, nhìn được và CĐBĐ là m ặt tinh thần, im lặng ở bên trong. CBĐ đóng vai trò biểu hiện, qua đó CĐBĐ bộc lộ ra ngoài. Cả hai cái đểu không thô thiếu dế có thể tạo ra một nghĩa - tức giá trị cơ bản của ký hiệu. Có thể nói: Cơ chế hình thành ký hiệu là cơ chè hai mặt, thông n hất cùng tồn tại. Điều quan trọng trong cơ chế trên là mối quan hệ giữa CBĐ và CĐBĐ. Theo F.d.Xot Xuya (F.d.Saussu) và nhiều nhà ngôn ngữ hoc, đó là một quan hộ võ đoán, tự phát, không có nguyên do và chưa thể giải thích được. Đó là quaa hệ vồ đoán, tự tiện nhưng ,7 V-L2 'ỊM không ai có thể tùy tiện sửa đổi. Như vậy là võ đoán nhũng ký hiệu khi ra đời đã được cả một tập thê (cộng đồng sử dụng ngôn ngữ) chấp nhận và sử dụng - như một "khê ước xã hội” bất khả xâm phạm. Tính võ đoán của ký hiệu là một quy luật. Tính võ đoán vất lợi hại bởi nó đã mở ra một th ế giới ngôn ngữ đa dạng và phong phú. Lúc dầu ký hiệu là võ đoán, sự kết hợp giữa CBĐ và CĐBĐ là không nguyên do. Nếu mọi ký hiệu đều có nguyên do một CBĐ phải có một CĐBĐ tương ứng, có ]ý do rõ ràng, minh bạch thì một từ chỉ có một nghĩa duy nhất và chỉ dùng một lần do tính tấ t yếu kia quy định. Và như vậy., trong' th ế giới khách quan có bao nhiêu sự vật, hiện tượng, bao nhiêu mối quan hệ thì trong ngôn ngữ cũng phải có bấy nhiêu từ và vốn từ của một ngôn ngữ sẽ là vô cùng, vô tận. Điều này là một trơ ngại vô cùng lớn cho người sử dụng ngôn ngữ (vì con người ta sẽ không thê nào học được clủ vốn từ dó). Nhưng do ký hiệu ngôn ngũ mang tính võ đoán, không có tất yếu nào ràng buộc mổi liên hệ giữa CBĐ và CĐBĐ cho nên những' ký hiệu đầu tiên không' nguyên do đó sau này đã được vận dụng như những "nguyên do" để tạo thêm ra các từ và các nghĩa tức là con người đã biết lợi dụng những từ đã có, lồng vào đó nhiều khái niệm theo những liên hệ nhất định. Ví dụ: Các tên nhân vật trong tác phẩm văn học: Chị Sứ - (Sứ : loài hoa ở miền Nam), Chị Tư Hậu (nhân hậu). Nhò vậy dã đáp ứng được nhu cầu tiết kiệm của tư duy và của ngôn ngữ . Vì những lý do trên, ký hiệu ngôn ngữ đã có đặc trưng phân biệt với cắc ký hiệu thuộc hệ thông ký hiệu khác. Nếu ở các hệ thông ký hiệu khác như hộ thông tín hiệu giao thông, hệ thống' báo thời gian trong trường học v.v... mỗi ký hiệu chỉ gồm có một hình thức (CBĐ) úng với một nội dung’ (CĐBĐ), chẳng hạn : đèn đỏ = dừng lại, đèn xanh = đi tiêp, ba tiếng trống = vào giò học, năm tiếng trông = hết giờ học v.v... thì ở ngôn ngữ, các ký hiệu không chỉ có sự tương ứng 1 : 1 giữa CĐBĐ và CBĐ mà có thê có các ký hiệu :một hình thức ngữ âm nhưng diễn đạt nhiêu nội dung ngữ nghĩa. Vô sô" từ đã mang ít nhất là hai nghĩa chung sông với nhau. Tuỳ vào ý định của người sử clụng và tùy vào văn canh mà nghĩa nào của từ sẽ trỏ thành nghĩa chính. Đó là một sự kỳ điệu của ký hiệu ngôn ngũ. Ví dụ trong Tiếng Việt: từ "thuyền" được dùng với các nghĩa như sau: ' 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan