Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu

.PDF
124
11
120

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ THỊ HUYỀN MY PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI DƢỚI GIÁC ĐỘ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ TƢƠNG QUAN SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NÔNG QUỐC BÌNH HÀ NỘI - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Võ Thị Huyền My MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI...............................................................6 1.1. Lịch sử hình thành nhƣợng quyền thƣơng mại ..........................................6 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới ...............................................................................................6 1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam ..............................................................................................8 1.2. Hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài ....................10 1.2.1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài ..................11 1.2.2. Đặc điểm cơ bản của hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài ......................................................................................................17 1.2.3. Mục đích, vai trò của hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài trong thương mại quốc tế ............................................................19 1.2.4. Phân biệt hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài với một số hợp đồng thương mại khác .................................................................22 1.3. Pháp luật điều chỉnh hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài .....................................................................................................27 1.3.1. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài ...........................................................................................27 1.3.2. Những vấn đề pháp lý cơ bản về Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài ......................................................................................29 Chƣơng 2: HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI .................................................36 2.1. Chủ thể của Hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài ....37 2.2. Hình thức của hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài....43 2.3. Nội dung hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài............45 2.3.1. Đối tượng của Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài......49 2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài ...............................................................................54 2.3.3. Phí nhượng quyền trong Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài ......................................................................................................61 2.3.4. Thời hạn hiệu lực hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài ...66 2.3.5. Chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài ...................71 2.3.6. Giải quyết tranh chấp trong Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài ..................................................................................................77 2.4. Xung đột pháp luật và giải quyết xung đột pháp luật trong Hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài theo pháp luật Việt Nam .....79 2.4.1. Xung đột pháp luật trong Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài ......................................................................................................79 2.4.2. Giải quyết xung đột pháp luật về Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam ..............................................81 Chƣơng 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM ...............................................................................................87 3.1. Thực trạng hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại ở Việt Nam có yếu tố nƣớc ngoài ................................................................................................87 3.1.1. Hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam ......................................87 3.1.2. Những mặt tích cực của pháp luật Việt Nam về nhượng quyền thương mại.....88 3.1.3. Những mặt hạn chế còn tồn tại của pháp luật Việt Nam về nhượng quyền thương mại...........................................................................................89 3.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam ...............................93 3.2.1. Hoàn thiện các quy định về nhượng quyền thương mại ................................93 3.2.2. Các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài ........................................................95 KẾT LUẬN ............................................................................................................101 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................104 PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Nhượng quyền thương mại đã và đang là vấn đề “nóng” tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù quan hệ nhượng quyền thương mại xuất hiện khá lâu và trở nên thông dụng trên thị trường thương mại quốc tế nhưng tại Việt Nam đây vẫn còn là phương thức kinh doanh khá mới mẻ. Việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), mở ra nhiều cơ hội cho các nhà kinh doanh cả trong và ngoài nước. Những năm gần đây có không ít những thương hiệu lớn đã “xâm nhập” thị trường Việt Nam thông qua hình thức nhượng quyền thương mại và đã tạo ra một mô hình kinh doanh hiệu quả như: KFC (Singapore), Lotteria (Hàn Quốc), Cleverlearn (Mỹ), Gloria Jean’s Coffee (Australia)... Cùng với sự đầu tư vào Việt Nam của các hệ thống toàn cầu, các hệ thống nhượng quyền thương mại Việt Nam cũng đã được hình thành và phát triển như: Phở 24, Bánh kẹo Kinh Đô, Buncamita (Bún cá Miền Tây), T&T... đặc biệt thương hiệu cà phê Trung Nguyên của Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống kinh doanh không chỉ “phủ sóng” rộng khắp Việt Nam mà đang tiếp tục mở rộng ra nước ngoài. Trong bối cảnh như vậy, việc quyết định lựa chọn hình thức kinh doanh nào đảm bảo cho nhà đầu tư sử dụng vốn, phát triển thị trường, mở rộng thị phần và kiểm soát được hệ thống kinh doanh có hiệu quả tốt nhất, nhằm xác lập thương hiệu của mình trên thị trường là điều rất được các thương nhân quan tâm. Rõ ràng hình thức nhượng quyền thương mại là một trong những “chìa khoá vàng” mở ra những cơ hội tốt cho các nhà đầu tư Việt Nam nhanh chóng “hoà mình vào dòng chảy” chung của nền kinh tế toàn cầu. Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng nhất để thực hiện hoạt động kinh doanh 1 nhượng quyền thương mại ra thế giới; là căn cứ hợp tác kinh doanh làm cơ sở làm phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên, đồng thời là căn cứ giải quyết tranh chấp giữa các bên. Có thể nói hợp đồng nhượng quyền thương mại đóng vai trò rất quan trọng trong quan hệ nhượng quyền giữa các chủ thể. Tuy nhiên một thực tế hiện nay đặt ra rằng, quan hệ nhượng quyền thương mại đã được phổ biến rộng rãi từ thế kỷ 19 tại các thị trường Châu Âu, thị trường Mỹ… nhưng vẫn chưa có một văn bản pháp luật thống nhất điều chỉnh các quan hệ này, mà chỉ dừng lại ở việc điều chỉnh trong quy phạm pháp luật quốc gia (Mỹ, Pháp, Australia, Trung Quốc, Malaysia…). Điều này dẫn đến việc tồn tại nhiều quy định khác nhau về pháp luật điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại giữa các quốc gia. Do vậy yêu cầu đặt ra cho các bên trước khi ký kết hợp đồng nhượng quyền cần phải tìm hiểu kỹ pháp luật điều chỉnh quan hệ nhượng quyền của quốc gia đối tác. Khía cạnh pháp lý của pháp luật hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài đang là một vấn đề được các quốc gia quan tâm. Đặc biệt đối với Việt Nam, khi mà hình thức kinh doanh này còn khá mới mẻ và luật điều chỉnh còn cần phải hoàn thiện. Xuất phát từ thực tế trên, việc nghiên cứu và đánh giá một cách thấu đáo các quy định của pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam trong điều kiện hiện nay và tương quan so sánh với pháp luật của một số quốc gia điển hình, sẽ góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật trong nước từng bước tương thích với chuẩn pháp lý của các nước trên thế giới và thông lệ chung của quốc tế; đáp ứng yêu cầu phát triển hoạt động nhượng quyền của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế thế giới hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài là một trong những khía cạnh pháp lý quan trọng, đã và đang được nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau quan tâm nghiên cứu. 2 Hiện nay, các sách, báo, tạp chí viết về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài hầu hết đều là của các tác giả nước ngoài. Rất nhiều trong số này được viết bằng tiếng nước ngoài và chưa được dịch sang tiếng Việt. Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhượng quyền thương mại, nhưng chỉ dừng lại nghiên cứu nhượng quyền thương mại ở khía cạnh kinh tế như: Sách chuyên khảo “Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đông Phong (Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân – 2008), “Franchise Chọn hay Không” của tác giả Nguyễn Khánh Trung (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh - 2008), “Mua Franchise – Cơ hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam” của tác giả Lý Quí Trung (Nhà xuất bản Trẻ - 2008); hoặc ở góc độ pháp lý nhưng chỉ giới hạn ở một trong những nội dung cụ thể của pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại như bài viết “Các điều khoản độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại” của tác giả Bùi Ngọc Cường đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 07/2007; tác giả Vũ Đặng Hải Yến với các bài viết “Một số vấn đề pháp lý về chủ thể của Hợp đồng nhượng quyền thương mại” đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 04/2008; “Nội dung của Hợp đồng nhượng quyền thương mại” đăng trên tạp chí Luật học số 11/2008; tác giả Nguyễn Bá Bình với bài viết “Bước đầu tìm hiểu hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài dưới giác độ pháp luật Việt Nam” đăng trên tạp chí Luật học số 05/2008… Bên cạnh đó, cũng có một số công trình tiếp cận nghiên cứu nhượng quyền nhưng ở góc độ tổng quát hệ thống pháp luật về nhượng quyền thương mại của Việt Nam như: Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Minh Huệ với đề tài “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam” (Đại học Luật Hà Nội – 2005); Luận án Tiến sỹ Luật học của tác giả Vũ Đặng Hải Yến với đề tài “Những vấn đề lý luận và 3 thực tiễn về pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” (Đại học Luật Hà Nội – 2008). Từ việc đánh giá tình hình nghiên cứu pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay cho thấy, ngoài một số bài báo, tạp chí đề cập hoặc nghiên cứu một số khía cạnh của hợp đồng nhượng quyền thương mại, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, có hệ thống và đầy đủ về lĩnh vực này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý, cơ sở lý luận của vấn đề hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật một số quốc gia điển hình và pháp luật Việt Nam. Trong nội dung trình bày, luận văn đưa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn áp dụng và tương quan so sánh các quy định pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài của các nước trên thế giới. Qua đó đề xuất những kiến nghị có thể áp dụng cho pháp luật Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật đối với lĩnh vực này; đồng thời xây dựng cơ chế cho việc áp dụng chúng một cách phù hợp với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế. 4. Đối tƣợng điều chỉnh và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số quốc gia điển hình trên thế giới; thực tiễn xây dựng pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu trên, luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia 4 điển hình; thu thập kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia trong việc áp dụng hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài trong hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại; từ đó rút ra những ưu điểm trong quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật của một số nước điển hình trên thế giới về vấn đề hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài; xem xét tính phù hợp với điều kiện của Việt Nam để hướng tới việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam trong việc áp dụng hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại trong quan hệ quốc tế, nhằm kết hợp hài hoà lợi ích của tự do hoá thương mại và bảo hộ cho các nhà đầu tư Việt Nam khi đặt chân vào “đấu trường” kinh tế thương mại thế giới. 5. Kết cấu luận văn Ngoài Mở đầu và Kết luận, Luận văn được kết cấu làm 03 chương với các nội dung sau: Chƣơng 1. Tổng quan về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài. Chƣơng 2. Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước trên thế giới. Chƣơng 3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. 5 Chƣơng 1 TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI 1.1. Lịch sử hình thành nhƣợng quyền thƣơng mại 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới Trên thế giới hiện đang tồn tại nhiều ý kiến trái chiều về nguồn gốc ra đời của hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại. Một số ý kiến cho rằng, hoạt động nhượng quyền thương mại xuất hiện từ rất sớm ở Trung Quốc mà đặc điểm là có từ hai đến ba địa điểm bán lẻ cùng một hình thức kinh doanh ở nhiều địa điểm khác nhau. Một số ý kiến khác lại cho rằng, tại Châu Âu vào khoảng từ thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ thứ 18 đã manh nha hình thành lối kinh doanh nhượng quyền sơ khai. Tuy nhiên hoạt động nhượng quyền thương mại chỉ thực sự được thừa nhận là một hình thức kinh doanh khi hợp đồng nhượng quyền kinh doanh giữa Nhà máy sản xuất máy khâu Singer và đối tác được ký kết tại Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 19. Hình thức kinh doanh nhượng quyền chỉ thực sự bùng nổ và phát triển mạnh mẽ kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, với sự ra đời của hàng loạt các hệ thống kinh doanh, hệ thống phân phối bán lẻ mà đặc trưng là sự đồng nhất về thương hiệu, phương thức kinh doanh, cơ sở hạ tầng…. Nhượng quyền thương mại trở thành mô hình kinh doanh hiệu quả và thích hợp không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở nhiều quốc gia Châu Âu khác. Mô hình kinh doanh này đã góp phần làm hình thành và gia tăng số lượng các tập đoàn xuyên quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm, đồ ăn nhanh và chuỗi các nhà hàng, khách sạn như: KFC (Kentucky Fried Chicken 6 – Gà rán xứ Kentucky - 1939), Carvel – thương hiệu kem (1934), Inter Continental Hotels Group (1777), McDonald’s (1955)….. Ngày nay, hình thức nhượng quyền thương mại đã có mặt tại hơn 150 nước trên thế giới, riêng tại Châu Âu có khoảng 200 ngàn cửa hàng kinh doanh theo phương thức nhượng quyền. Để đáp ứng xu thế mới của nền kinh tế, Chính phủ các quốc gia phát triển như: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Australia…. đã lần lượt luật hóa và ban hành các chính sách ưu đãi, khuyến khích thúc đẩy phát triển hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại. Tại Châu Á, với lợi thế là một thị trường rộng lớn, “màu mỡ” và đầy tiềm năng đã nhanh chóng trở thành “cánh tay nối dài” cho các thương hiệu lớn thông qua phương thức kinh doanh nhượng quyền. Nhận thấy tác động và hiệu quả to lớn mà hoạt động nhượng quyền thương mại mang lại cho sự phát triển của nền kinh tế, Chính phủ các quốc gia Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Việt Nam…. đã bắt đầu triển khai chính sách phát triển hoạt động kinh doanh nhượng quyền với mục tiêu gia tăng số lượng doanh nghiệp hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền. Với sự hỗ trợ về hành lang pháp lý và chính sách ưu đãi của Chính phủ mà nhiều thương hiệu kinh doanh theo hình thức nhượng quyền ở các quốc gia Châu Á này đã và đang dần vươn ra khỏi tầm khu vực như: Lotteria (Hàn Quốc), MK Restaurant (Thái Lan), Spinelli Pte (Singapore), Bucamita (Việt Nam), Cà phê Trung Nguyên (Việt Nam)…. Bên cạnh sự hỗ trợ của Chính phủ các quốc gia, nhiều tổ chức phi Chính phủ cũng được hình thành nhằm quảng bá và mở rộng lối kinh doanh nhượng quyền thương mại, điển hình như: Hiệp hội nhượng quyền quốc tế (IFA) được thành lập năm 1960 với khoảng 30.000 thành viên; Hội đồng nhượng quyền thế giới (WFC) được thành lập năm 1994. 7 1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam So với các quốc gia trong cùng khu vực, nhượng quyền thương mại vẫn còn là hình thức kinh doanh khá mới mẻ tại Việt Nam. Vào giữa những năm 90 của Thế kỷ 20, hình thức kinh doanh này manh nha xuất hiện lần đầu tiên khi chuỗi hệ thống các cửa hàng cà phê mang thương hiệu Trung Nguyên có mặt ở hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam chưa ghi nhận đó là một loại hình kinh doanh. Năm 1998 lần đầu tiên cụm từ “franchise” được pháp luật Việt Nam ghi nhận trong văn bản luật, tại mục 4.1.1 Thông tư số 1254/1999/TT-BKHCNMT ngày 12/07/1999 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày 01/07/1998 của Chính phủ quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ: “Các hợp đồng với nội dung cấp li xăng sử dụng nhãn hiệu hàng hóa kèm theo các bí quyết sản xuất, kinh doanh được chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam có giá trị thanh toán cho một Hợp đồng trên 30.000 USD (hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh – tiếng anh gọi là franchise)”. Như vậy, nhượng quyền thương mại chỉ được nhìn nhận dưới góc độ là một loại hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh. Tới Nghị định số 11/2005/NĐ-CP ngày 02/02/2005 của Chính phủ quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ; Mục 5, phần I, Thông tư số 30/2005/TT-BKHCN hướng dẫn một số điều của Nghị định số 11/2005/NĐ-CP ghi nhận:“Cấp phép đặc quyền kinh doanh còn gọi là Nhượng quyền thương mại trong Luật Thương mại (franchise). Chuyển giao công nghệ trong Nhượng quyền thương mại thực hiện theo Nghị định số 11/2005/NĐ-CP ngày 02/02/2005 và Thông tư này”. Hay tại Điều 755 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định rằng: “…cấp phép đặc quyền kinh doanh và các đối tượng khác do pháp luật về chuyển giao công nghệ quy định.” Như vậy có thể thấy, pháp luật chỉ ghi nhận nhượng quyền thương 8 mại là một bộ phận trực thuộc, chịu sự điều chỉnh của Luật chuyển giao công nghệ mà không có luật chuyên ngành điều chỉnh riêng. Nhận thấy vai trò quan trọng và xu thế thịnh hành của phương thức kinh doanh nhượng quyền thương mại ngày một gia tăng, đặc biệt khi các quốc gia phát triển trên thế giới cũng như một số quốc gia trong khu vực đã sớm ban hành các định chế điều chỉnh quan hệ kinh doanh trên. Ngày 14/06/2006, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức luật hóa và ghi nhận nhượng quyền thương mại là một loại hình kinh doanh thương mại độc lập tại mục 8, Chương VI, Luật Thương mại 2005. Đây là một mốc quan trọng, đánh dấu cho việc ghi nhận của các nhà làm luật Việt Nam trong việc thừa nhận nhượng quyền thương mại là một loại hình kinh doanh hoàn toàn độc lập và cần phải có các chế định pháp lý riêng biệt để điều chỉnh. Để góp phần thắt chặt hành lang pháp lý cho loại hình kinh doanh này Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, Nghị định 120/2011/NĐ-CP ngày 16/12/2011 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại một số Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại; Bộ Thương mại ban hành Thông tư 09/2006/TT-BTM ngày 25/05/2006 hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại và Quyết định 106/2008/QĐ-BTC ngày 17/11/2008 của Bộ tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Đây chính là những căn cứ pháp lý cơ bản nhất và tương đối đầy đủ điều chỉnh hoạt động kinh doanh nhượng quyền tại Việt Nam, “tạo hành lang pháp lý” cho các chủ thể, đặc biệt là các thương nhân Việt Nam có cơ hội phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Với các “động thái” trên của Chính phủ, hệ thống nhượng quyền thương 9 mại không ngừng gia tăng và mở rộng tại Việt Nam. Không chỉ thu hút các thương hiệu lớn của thế giới “đổ bộ” vào trong nước mà còn góp phần tạo cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước nhanh chóng quảng bá thương hiệu và xúc tiến nhượng quyền ra thế giới theo con đường ngắn nhất. Theo thống kê của Bộ Công Thương, đến thời điểm hiện nay ở Việt Nam hiện có 103 thương hiệu được cấp phép nhượng quyền vào Việt Nam (phụ lục 2), Các doanh nghiệp trong nước nhượng quyền thương mại ra nước ngoài gồm Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Dịch vụ Phở Hai mươi bốn với chuỗi các nhà hàng mang thương hiệu Phở 24, Doanh nghiệp tư nhân Thương mại Dịch vụ Đức Triều với thương hiệu T&T, Công ty TNHH Vũ Giang với hệ thống các cửa hàng cà phê mang thương hiệu Cafe Bobby Brewers, Công ty cà phê Trung Nguyên với hệ thống các cửa hàng cà phê mang thương hiệu Cà phê Trung Nguyên….. Mặc dù số lượng hệ thống nhượng quyền của Việt Nam còn khá khiếm tốn so với các quốc gia láng giềng, nhưng với tình hình hiện nay, khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và nhượng quyền thương mại đã được luật hóa càng góp phần thu hút và gia tăng sự phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại. 1.2. Hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài Hợp đồng nhượng quyền đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác lập quan hệ nhượng quyền; là hành lang pháp lý cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong hợp đồng. Nhận thấy tầm quan trọng của Hợp đồng nhượng quyền thương mại, pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định một cách chặt chẽ những nội dung cơ bản, thiết yếu của loại hợp đồng này. Đặc biệt khi hoạt động giao lưu hợp tác quốc tế giữa các quốc gia ngày càng sôi động, việc giao thoa giữa các nền pháp luật khác nhau cũng tạo cho hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài mang đậm những màu sắc riêng biệt. 10 1.2.1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài Xuất phát từ bản chất kinh tế cũng như bản chất pháp lý của hoạt động nhượng quyền thương mại, hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài cũng mang những nét chung của hợp đồng thông thường khác, đó là sự thoả thuận của các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại về những vấn đề chính trong nội dung của quan hệ này. Đây chính là cơ sở phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên trong hoạt động nhượng quyền và cũng là cơ sở để giải quyết tranh chấp có thể sẽ phát sinh trong quá trình các bên thực hiện hợp đồng. Một thực tế đặt ra, không phải quốc gia nào cũng có khái niệm riêng biệt để nhận biết hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, bằng cách này hay cách khác, loại hợp đồng này vẫn được phân biệt với các loại hợp đồng khác như hợp đồng li - xăng hay hợp đồng đại lý phân phối sản phẩm… Bàn về khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài trước tiên chúng ta phải tìm hiểu khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại nói chung. Pháp luật hầu hết các quốc gia đều ghi nhận và điều chỉnh quan hệ trong hợp đồng nhượng quyền, tuy nhiên việc đưa ra một khái niệm cụ thể về hợp đồng này thì không phải quốc gia nào cũng quy định hoặc nếu có đưa ra thì ở mỗi quốc gia và thậm chí ở mỗi bang của quốc gia lại có quy định riêng. Theo Luật nhượng quyền kinh doanh của Ủy ban thương mại Liên bang Hoa Kỳ, hợp đồng nhượng quyền thương mại được định nghĩa: “Hợp đồng nhượng quyền kinh doanh là hợp đồng theo đó Bên giao: (i) Hỗ trợ đáng kể cho bên nhận trong việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm soát chặt chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của Bên nhận. 11 (ii) Li xăng nhãn hiệu cho Bên nhận để phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hoá của Bên giao. (iii) Yêu cầu Bên nhận thanh toán cho Bên giao một khoản chi phí tối thiểu”. Trong khi đó Luật Đầu tư nhượng quyền thương mại của Bang California lại đưa ra khái niệm: “Nhượng quyền thương mại là thoả thuận hợp đồng, thể hiện ra bên ngoài hay ngụ ý, dưới dạng văn bản hay lời nói, theo đó: (i) Bên nhận quyền được trao quyền tổ chức hoạt động chào hàng, bán hàng hoặc phân phối hàng hoá, dịch vụ dưới một kế hoạch tiếp cận thị trường hoặc một hệ thống đóng vai trò quan trọng trong phương thức kinh doanh của bên nhượng quyền; (ii) Sự vận hành công việc kinh doanh của Bên nhận quyền phải phù hợp với hệ thống cơ bản của Bên nhượng quyền với tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, logo và quảng cáo hoặc các biểu tượng thương mại khác do bên này sáng tạo ra; (iii) Yêu cầu trả phí được đặt ra đối với Bên nhận quyền thương mại”. Tại Điều 3, Luật nhượng quyền thương mại Trung Quốc (2007) ghi nhận: “Nhượng quyền thương mại ở đây (sau đây gọi là nhượng quyền) đề cập đến một quan hệ hợp đồng, theo đó doanh nghiệp (gọi là Bên nhượng quyền) với nhãn hiệu đăng ký, tên thương mại, bằng sáng chế và các nguồn lực kinh doanh khác tài trợ cho một Bên nhận quyền được quyền sử dụng các nguồn lực kinh doanh của mình, và Bên nhận quyền hoạt động theo một mô hình hoạt động thống nhất và trả một khoản phí nhượng quyền thương mại cho các thương hiệu theo quy định của điều khoản hợp đồng”. Còn tại Mục 4, phần 1, Bộ luật ứng xử nhượng quyền thương mại Australia: “Hợp đồng nhượng quyền thương mại là một thỏa thuận: 12 (a) Mà có dạng toàn bộ hoặc một phần, của bất kỳ hình thức sau đây: (i) Một thỏa thuận bằng văn bản; (ii) Một thỏa thuận bằng miệng; (iii) Một thỏa thuận ngầm; và (b)Trong đó một bên (chủ thương hiệu) cho phép một bên khác (bên nhận quyền) quyền thực hiện việc kinh doanh chào bán, cung cấp hoặc phân phối hàng hoá, dịch vụ ở Australia theo một hệ thống hay kế hoạch tiếp thị được xác định, kiểm soát hoặc đề nghị của Bên nhượng quyền hoặc một bên liên kết của bên nhượng quyền; và (c) Theo đó, các hoạt động của doanh nghiệp sẽ được liên kết đáng kể về mặt vật chất với một nhãn hiệu thương mại, quảng cáo thương mại hoặc một biểu tượng thương mại: (i) Sở hữu, sử dụng hoặc cấp giấy phép bởi chủ thương hiệu hay một bên liên kết của bên nhượng quyền; hoặc (ii) Xác định bởi bên nhượng quyền hoặc bên liên kết của bên nhượng quyền; và (d) Theo đó, trước khi bắt đầu kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh, bên nhận quyền phải trả hoặc đồng ý thanh toán cho bên nhượng quyền hoặc bên liên kết của bên nhượng quyền một khoản tiền bao gồm, ví dụ: (i) Chi phí đầu tư vốn ban đầu, hoặc (ii) Một thanh toán hàng hoá, dịch vụ; hoặc (iii) Một khoản phí dựa trên phần trăm của tổng thu nhập ròng có hoặc không được gọi là phí bản quyền hoặc phí dịch vụ nhượng quyền; hoặc (iv) Một khoản phí đào tạo, học phí đào tạo; nhưng không bao gồm: 13 (v) Thanh toán hàng hoá và dịch vụ bằng hoặc thấp hơn giá bán buôn; hoặc (vi) Trả nợ một khoản vay của bên nhận quyền từ bên nhượng quyền; hoặc (vii) Thanh toán của giá bán buôn đối với hàng hoá đưa vào gửi hàng; hoặc (viii) Thanh toán giá trị thị trường để mua hoặc cho thuê bất động sản, đồ đạc, thiết bị, vật tư cần thiết để bắt đầu kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh theo hợp đồng nhượng quyền thương mại…..” Mục 4, Đạo luật Nhượng quyền thương mại của Malaysia (1998), sửa đổi năm 2006 giải thích: "Nhượng quyền thương mại" có nghĩa là một hợp đồng hoặc thỏa thuận, hoặc bày tỏ hay ngụ ý, cho dù bằng miệng hoặc bằng văn bản, giữa hai hoặc nhiều người theo đó, (a) Bên nhượng quyền trao cho bên nhận quyền phải hoạt động kinh doanh theo hệ thống nhượng quyền thương mại và trong một thời hạn được xác định bởi bên nhượng quyền; (b) Khoản tài trợ bên nhượng quyền cho bên nhận quyền quyền sử dụng bí mật thương mại, hoặc bất kỳ thông tin bí mật hoặc sở hữu trí tuệ, thuộc sở hữu của bên nhượng quyền hoặc liên quan thương hiệu, và bao gồm người sử dụng đăng ký, hoặc được cấp phép bởi người khác sử dụng, sở hữu trí tuệ, trợ cấp quyền như vậy mà chủ sở hữu cho phép bên nhận quyền sử dụng tài sản trí tuệ; (c) Bên nhượng quyền được quyền quản lý liên tục và kiểm soát trong thời hạn nhượng quyền thương mại đối với doanh nghiệp được nhượng quyền; 14 (d) Bên nhượng quyền có trách nhiệm cung cấp hỗ trợ bên nhận quyền hoạt động kinh doanh của mình bao gồm như cung cấp hoặc cung cấp nguyên vật liệu và dịch vụ, đào tạo, tiếp thị, kinh doanh, kỹ thuật hỗ trợ; (e) Để được cấp quyền, bên nhận quyền phải trả một khoản phí hoặc hình thức khác xem xét; và (f) Bên nhận quyền hoạt động kinh doanh tách biệt với các nhượng quyền, mối quan hệ của bên nhận quyền và bên nhượng quyền không phải trong mọi trường hợp đều được coi là một quan hệ đối tác, hợp đồng dịch vụ; "Thỏa thuận nhượng quyền thương mại" là hợp đồng hoặc thỏa thuận thực hiện giữa một bên nhượng quyền và nhận quyền đối với kinh doanh nhượng quyền lại cho bất kỳ hình thức xem xét nhưng không bao gồm bất kỳ hợp đồng hoặc thỏa thuận được thực hiện với mục đích bán hàng trực tiếp được cung cấp bởi hành động bán hàng trực tiếp 993 [Đạo luật 500];” Có thể thấy, hợp đồng nhượng quyền thương mại là sự tổng hòa các đặc điểm của nhiều loại hợp đồng thương mại khác nhau. Thấp thoáng trong Hợp đồng nhượng quyền thương mại là hình ảnh của Hợp đồng Li-xăng mà cụ thể là sự hướng đến sử dụng một số đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp như sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp. Hay là sự tương đồng trong việc xác định nghĩa vụ phải chuyển giao bí quyết, công nghệ, tài liệu,hướng dẫn, đào tạo… của bên nhượng quyền như trong Hợp đồng chuyển giao công nghệ. Không những thế, bóng dáng của các hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng hiện hữu trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. Với tính chất tổng hợp này, hợp đồng nhượng quyền thương mại và các vấn đề cụ thể liên quan tới chúng đã đặt việc nghiên cứu trước ngưỡng cửa của sự phức tạp. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan