Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết việt nam từ 1986 đến 2000...

Tài liệu Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết việt nam từ 1986 đến 2000

.PDF
160
514
126

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC PHAN THÚY HẰNG YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2000 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM HUẾ - NĂM 2019 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC PHAN THÚY HẰNG YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2000 Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 9220121 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. PHAN TRỌNG THƯỞNG 2. PGS.TS. HOÀNG THỊ HUẾ HUẾ - NĂM 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên cứu và các dẫn liệu trong luận án là hoàn toàn trung thực, chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án Phan Thúy Hằng i DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN VHDG : Văn hóa dân gian Nxb : Nhà xuất bản ĐHSP : Đại học Sư phạm ĐHQG : Đại học Quốc gia KHXH&NV : Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp HCM : Thành phố Hồ Chí Minh LATS : Luận án Tiến sĩ ii Lời Cảm Ơn Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phan Trọng Thưởng, PGS.TS Hoàng Thị Huế đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học trường Đại học Khoa học Huế đã tạo điều kiện thuận lợi, Ban chủ nhiệm cùng các thầy cô Khoa Ngữ văn trường Đại học Khoa học Huế đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn trường Đại học Khánh Hòa và các đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu. Cuối cùng, tôi vô cùng biết ơn gia đình, những người đã luôn sát cánh và động viên tôi trong thời gian qua. Huế, ngày 15 tháng 5 năm 2019 Tác giả luận án Phan Thúy Hằng MỤC LỤC iii LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ...................................... ii LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................... iii MỤC LỤC ................................................................................................................ iii MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................................ 1 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 2 3. Đối tượng nghiên và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3 4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu ................................................................... 3 5. Đóng góp mới của luận án ................................................................................................ 4 6. Cấu trúc của luận án .......................................................................................................... 5 NỘI DUNG ................................................................................................................6 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......................................6 1.1. Tình hình nghiên cứu yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam trước năm 1986 .......................................................................................................6 1.1.1. Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến 1945 .......................................................6 1.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1985 ....................................................................10 1.2. Tình hình nghiên cứu yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 .......................................................................................................................15 1.2.1. Những nghiên cứu chung về vai trò của văn hóa dân gian đối với tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 .................................................................................15 1.2.2. Những nghiên cứu cụ thể về sự hiện diện của yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ................................................................17 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài .............................22 1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu ................................................................22 1.3.2. Hướng triển khai đề tài............................................................................24 Chương 2: VĂN HÓA DÂN GIAN VÀ SỰ TÁC ĐỘNG ĐẾN TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2000 ............................................................................26 2.1. Khái lược về văn hóa dân gian và mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với tiểu thuyết Việt Nam hiện đại ......................................................................................26 2.1.1. Khái niệm văn hóa dân gian ....................................................................26 2.1.2. Nhận diện các thành tố của văn hóa dân gian .........................................29 iv 2.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với tiểu thuyết Việt Nam hiện đại .32 2.2. Tác động của văn hóa dân gian đến tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000 ....39 2.2.1. Văn hóa dân gian với sự thay đổi về tư duy nghệ thuật ..........................39 2.2.2. Văn hóa dân gian với sự cách tân về nghệ thuật thể hiện .......................43 2.3. Các tín ngưỡng dân gian - nguồn nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo của nhà văn.... 46 2.3.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và những người đã khuất ...........................47 2.3.2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên .................................................................52 2.3.3. Tín ngưỡng thờ Mẫu ...............................................................................55 Chương 3: YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2000 - NHÌN TỪ THẾ GIỚI NHÂN VẬT, KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT...............................................................59 3.1. Yếu tố văn hóa dân gian nhìn từ thế giới nhân vật ........................................59 3.1.1. Nhân vật trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, dòng tộc ......59 3.1.2. Nhân vật tâm linh ....................................................................................66 3.2. Yếu tố văn hóa dân gian nhìn từ không gian nghệ thuật................................71 3.2.1. Không gian hiện thực gắn với sinh hoạt văn hóa cộng đồng ..................71 3.2.2. Không gian huyền ảo, siêu thực ..............................................................74 3.3. Yếu tố văn hóa dân gian nhìn từ thời gian nghệ thuật ...................................84 3.3.1. Thời gian phiếm định và sự huyền thoại hóa thời gian hiện thực ...........84 3.3.2. Thời gian kì ảo ........................................................................................90 Chương 4: YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2000 - NHÌN TỪ NGÔN NGỮ, MOTIF VÀ BIỂU TƯỢNG ............ 97 4.1. Yếu tố văn hóa dân gian nhìn từ ngôn ngữ ....................................................97 4.1.1. Sử dụng nhuần nhị thành ngữ, tục ngữ ...................................................97 4.1.2. Ngôn ngữ bình dị, mộc mạc, đan xen văn xuôi lẫn văn vần .................102 4.2. Yếu tố văn hóa dân gian nhìn từ hệ thống motif ..........................................108 4.2.1. Motif cái chết - ma hiện hồn .................................................................108 4.2.2. Motif báo ứng ........................................................................................115 4.3. Yếu tố văn hóa dân gian nhìn từ hệ thống biểu tượng .................................120 4.3.1. Biểu tượng Đất ......................................................................................122 4.3.2. Biểu tượng Nước ...................................................................................127 4.3.3. Biểu tượng Vật ......................................................................................134 v KẾT LUẬN ............................................................................................................140 DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .....................................................................................................144 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................145 PHẦN PHỤ LỤC vi MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian (VHDG) và văn học viết không phải là một vấn đề mới. Nó xuất hiện ngay từ những ngày đầu hình thành văn học viết. Là hai loại hình nghệ thuật khu biệt tương đối trong tất cả các tiêu chí và cách thức phân loại, văn hóa dân gian và văn học viết có sự tương tác đa chiều. Đây là một tất yếu và sự thâm nhập văn hóa dân gian vào văn học viết cũng là một quy luật dĩ nhiên của tiến trình lịch sử. Từ việc đơn thuần chỉ ra các yếu tố dân gian thuộc phạm vi hình thức (như motif, hình ảnh, cốt truyện, ngôn ngữ, thể loại…), người ta đã nhìn sâu hơn đến chiều kích tư tưởng, tinh thần (như tín ngưỡng, các nghi lễ, tập quán dân gian) thể hiện trong các sáng tác văn học. Trước kho tàng văn hóa dân gian vô cùng phong phú, mỗi nhà văn tiếp nhận đến đâu, tiếp nhận như thế nào và thể hiện “tri thức dân gian” ra sao lại tùy thuộc vào tài năng và cá tính của tác giả. Quá trình tiếp biến văn hóa này diễn ra xuyên suốt và liên tục trong lịch sử văn học. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu sự ảnh hưởng chủ yếu nhằm bảo tồn cốt lõi folklore truyền thống, yếu tố văn hóa dân gian xuất hiện trong các tác phẩm thường chuyên chở những bài học đạo đức khuyên răn như mục tiêu, do vậy nó mang hơi hướng văn học “chức năng” nhiều hơn. Thực sự phải đến sau 1986, tiếp nhận văn hóa dân gian trong văn học viết mới được đẩy lên cao thành một trào lưu, một xu hướng thực sự đem lại giá trị nhiều mặt trong văn chương. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 chứng kiến những thay đổi và cách tân mạnh mẽ chưa từng thấy trong tư duy nghệ thuật của nhà văn và cấu trúc tự sự của tác phẩm. Một trong những biểu hiện thú vị nhất của công cuộc đổi mới sôi động này, không hẳn là ở sự sản sinh ra những chất liệu và nhân tố nghệ thuật mới, mà ở sự tiếp thu và “tái sử dụng” tích cực những yếu tố tự sự truyền thống - đặc biệt là các yếu tố tự sự dân gian. Quá trình tái sinh, sự quay trở về với các yếu tố dân gian không đơn thuần là lặp lại cái cũ, cái lạc hậu, khuôn mòn, cũng không phải là bước đi thụt lùi, mà qua cái cũ để tạo ra những giá trị mới, một phương thức mới trong sáng tạo văn học. Rất nhiều nhà văn hiện đại đã thành công và khẳng định tên tuổi với thử nghiệm đó như Đào Thắng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Võ Thị Hảo, Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Bình Phương… 1 Việc vận dụng lý thuyết văn hóa dân gian vào nghiên cứu tiểu thuyết giai đoạn này giúp lí giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó. Đồng thời cung cấp cho người đọc một cái nhìn hệ thống những dấu ấn đặc trưng cũng như phương thức tồn tại của các yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết giai đoạn 1986 đến 2000. Qua đó rút ra quy luật vận động của văn hóa, văn học, khẳng định những đóng góp của thể loại tiểu thuyết trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học. Đó chính là lí do chúng tôi chọn đề tài này Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000 hướng đến các mục tiêu cơ bản: Thứ nhất, luận án hệ thống lại tình hình nghiên cứu yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam trước và sau năm 1986. Chúng tôi cố gắng chỉ ra những vấn đề đã được giải quyết thấu đáo cũng như những vấn đề còn bỏ ngỏ nhằm nghiên cứu một cách hệ thống nhất đề tài của luận án. Thứ hai, mục tiêu chính yếu của luận án là khám phá sự hiện diện cũng như những tác động của yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000 trên bình diện ý thức nghệ thuật và cách thức tổ chức trần thuật. Từ đó, luận án nhận định, đối thoại trên tinh thần nhận thức lại những yếu tố của văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, góp phần khẳng định những đóng góp mới nhằm đánh giá đúng bước tiến thể loại trong diễn trình hội nhập. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa tình hình nghiên cứu sự hiện diện của yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam trước và sau 1986, lý giải nhằm làm rõ hơn những vấn đề còn bỏ ngỏ và xác định hướng nghiên cứu cụ thể của luận án. - Xác định rõ tiền đề cơ sở cũng như sự tác động của văn hóa dân gian đến tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000 - Đi sâu làm rõ những tác động của văn hóa dân gian đến những phương diện cụ thể trong tiểu thuyết giai đoạn này như: tín ngưỡng, nhân vật, không gian và thời 2 gian nghệ thuật, ngôn ngữ, motif và biểu tượng. Từ đó chỉ ra những kế thừa, cách tân, những thay đổi trong ý thức nghệ thuật của các nhà văn nhằm kiến tạo một hiện thực nghệ thuật mới, biểu đạt những suy tư của họ về xã hội đương đại. Đặc biệt, do đặc trưng thể loại và xu hướng tiếp nhận tự sự hậu hiện đại sau 1986 nên văn hóa dân gian trở thành một trong những đối tượng tiếp nhận của tiểu thuyết để giải quyết nhu cầu gia tăng sự dung hợp và làm mới thể loại. Vì vậy, văn hóa dân gian sẽ góp phần tạo dấu ấn liên văn bản và tính đối thoại của tiểu thuyết giai đoạn này. 3. Đối tượng nghiên và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài sẽ tập trung vào các tiểu thuyết từ 1986 đến 2000 có chứa yếu tố văn hóa dân gian qua những hiện tượng văn học nổi bật như: Nguyễn Khắc Trường (Mảnh đất lắm người nhiều ma), Trịnh Thanh phong (Ma làng), Tạ Duy Anh (Lão Khổ), Dương Hướng (Bến không chồng), Lê Lựu (Chuyện làng Cuội)…Danh mục cụ thể các tác phẩm khảo sát trong luận án chúng tôi sẽ đưa vào phần Phụ lục. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu những yếu tố văn hóa dân gian thể hiện trong thuyết Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến 2000 trên các phương diện cơ bản sau: tín ngưỡng, thế giới nhân vật, không gian, thời gian nghệ thuật, hệ thống motif, biểu tượng và ngôn ngữ. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, để có có cái nhìn nhiều chiều, liên tục và toàn diện, luận án sẽ khảo sát thêm một số tiểu thuyết trước 1986 và sau 2000 có sự ảnh hưởng nét của văn hóa dân gian. 4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý thuyết Để nghiên cứu đề tài Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000, chúng tôi dựa trên hệ thống lí thuyết về mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học đã được các nhà nghiên cứu công bố trên các chuyên luận, các tạp chí có uy tín. Từ đó, soi chiếu vào những biểu hiện của văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam mười lăm năm cuối thế kỉ XX cả về nội dung và hình thức nghệ thuật để thấy được những đóng góp và sáng tạo của các nhà tiểu thuyết giai đoạn này. 3 Ngoài lí thuyết cơ bản nêu trên, trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi còn vận dụng các lí thuyết về folklore, dân tộc học, xã hội học của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước để có cái nhìn vấn đề nhiều chiều và toàn diện hơn. Đặc biệt, chúng tôi chú ý dấu ấn và ảnh hưởng của yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến 2000 được thể hiện đậm nhạt khác nhau ở từng tác giả và tác phẩm cụ thể. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp văn hóa học: Đây được coi là phương pháp nghiên cứu trọng tâm của luận án. Người viết sử dụng phương pháp này nhằm vận dụng các quan điểm và thành tựu văn hóa nói chung, đặc biệt là văn hóa dân gian để tìm hiểu, lí giải các yếu tố văn hóa dân gian xuất hiện trong các tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000. - Phương pháp liên ngành: Sử dụng kiến thức của các ngành khoa học xã hội khác như: văn hóa, lịch sử, triết học, tôn giáo...để nhìn nhận vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện nhất có thể. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: để thấy sự kế thừa và cách tân về mặt nội dung cũng như hình thức nghệ thuật của tiểu thuyết Việt Nam khi tiếp nhận các yếu tố của văn hóa dân gian. - Phương pháp thi pháp học: Phương pháp này chủ yếu tập trung làm rõ những phương diện về không gian và thời gian nghệ thuật. - Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Phương pháp này được vận dụng trên quan điểm tiếp cận văn bản học, nhằm thống kê, hệ thống hóa, phân loại và chọn lọc các tác phẩm có sự xuất hiện của yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000. Từ đó phân tích để đưa ra những luận điểm tổng hợp, khái quát lên những yếu tố văn hóa dân gian biểu hiện trong các tiểu thuyết giai đoạn này về mặt nội dung cũng như phương thức thể hiện. Qua đó chỉ ra những tác động của các yếu tố văn hóa, văn học dân gian trong việc thể hiện đời sống của tác phẩm. 5. Đóng góp mới của luận án - Qua việc đánh giá tổng quan về tình hình nghiên cứu, luận án đã hệ thống hóa tư liệu và đưa ra cái nhìn đầy đủ hơn về những biểu hiện của văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn trước và sau năm 1986. 4 - Nêu và lí giải được những biểu hiện của yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000 qua nhiều vấn đề cụ thể như: đời sống văn hóa tâm linh, phong tục tập quán, tín ngưỡng, việc sử dụng các motif dân gian, biểu tượng, ngôn ngữ, thế giới nhân vật, không gian, thời gian nghệ thuật. - Đề tài góp phần khảo sát và lí giải một cách có hệ thống, khách quan về vai trò của văn hóa dân gian đối với tiểu thuyết giai đoạn 15 năm cuối thế kỉ XX, cho thấy sự tương tác giữa văn học và văn hóa dân gian. Đồng thời góp phần khẳng định cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa dân gian là một hướng nghiên cứu cần thiết trong nghiên cứu văn học hiện nay. - Với nghiên cứu có hệ thống những biểu hiện của các yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết sau 1986, luận án sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm nghiên cứu sâu hơn về tiểu thuyết giai đoạn này. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài sẽ được triển khai thành bốn chương như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu. Chương 2: Văn hóa dân gian và sự tác động đến tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000. Chương 3: Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000 - nhìn từ thế giới nhân vật, không gian và thời gian nghệ thuật. Chương 4: Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết từ 1986 đến 2000 - nhìn từ ngôn ngữ, motif và biểu tượng. 5 NỘI DUNG Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam trước năm 1986 1.1.1. Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến 1945 Đầu thế kỷ XX đến 1945 văn học Việt Nam đã vận động sang phạm trù mới: Văn học hiện đại. Tiểu thuyết giai đoạn này thực sự khởi sắc với những đóng góp đáng ghi nhận. Những tên tuổi ở giai đoạn đầu phải kể đến Hồ Biểu Chánh, Trần Quang Nghiệp, Nguyễn Chánh Sắt, tiếp đến là những tác giả tiêu biểu của hai dòng văn học hiện thực phê phán (1930-1945) như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng và văn học lãng mạn (1932 - 1945) gắn với tên tuổi của nhóm Tự lực văn đoàn với ba cây bút chính Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng. Bên cạnh việc tiếp thu những ảnh hưởng từ lớn từ văn hóa phương Tây, đặc biệt là Pháp thì tiểu thuyết giai đoạn này vẫn chịu sự chi phối của văn hóa phương Đông và truyền thống văn hóa dân tộc để xây dựng nên một nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại song vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Nghiên cứu tiểu thuyết Tự lực văn đoàn dưới góc độ văn hóa, xã hội và phong tục là một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, không chỉ trước đây mà cả sau này. Năm 1941, trong công trình nghiên cứu Ba mươi năm văn học, Mộc Khuê khi bàn về tiểu thuyết quốc ngữ Việt Nam đã chia tiểu thuyết thành chín loại. Sau đó, ông lần lượt đi vào từng loại và giới thiệu những nhà văn cùng với một vài tác phẩm tiêu biểu. Đến loại tiểu thuyết phong tục, ông cho rằng: “Phong tục tiểu thuyết về miền thượng du Bắc Kỳ gồm Lan Khai (Tiếng gọi của rừng thẳm, Suối đàn, Truyện lạ đường rừng), về miền sơn cước Trung kỳ của Lưu Trọng Lư (Khói lam chiều, Chiếc cáng xanh) của Trần Tiêu (Con trâu, Chồng con) và nhất là quyển Lều chõng của Ngô Tất Tố” [70, tr. 51]. Như vậy, ngay từ năm 1941, nhà nghiên cứu Mộc Khuê đã công nhận có sự tồn tại của thể tài tiểu thuyết phong tục. Và trong số 6 những tiểu thuyết thuộc nhóm Tự lực văn đoàn, ông xếp Con trâu và Chồng con của Trần Tiêu vào loại tiểu thuyết phong tục viết về một vùng miền của đất nước. Công trình nghiên cứu Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm ra đời cũng đã công nhận: “Công việc của Tự lực văn đoàn đã có ảnh hưởng về đường xã hội và đường văn học” [23, tr.21]. Theo Dương Quảng Hàm, phong tục tập quán thời xưa vừa có mặt hay, mặt không hay. Tác phẩm của các nhà văn Tự lực văn đoàn có quan tâm phản ánh phong tục tập quán nhưng chưa thật xác đáng. Như tục đàn bà góa phải thủ tiết thờ chồng trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh chẳng hạn. Nhà văn chỉ chủ yếu tập trung làm rõ những ràng buộc khắt khe đối với người phụ nữ mà chưa đề cập đến ý nghĩa cao đẹp của tục lệ. Dù vậy nhưng nhà nghiên cứu văn học Dương Quảng Hàm vẫn dành nhiều lời khen tặng cho nhóm văn Tự lực văn đoàn và đánh giá rất cao chủ trương cải cách xã hội của họ. Năm 1942, Vũ Ngọc Phan cho ra mắt công trình Nhà văn hiện đại. Riêng trong nhóm Tự lực văn đoàn, khi đi vào giới thiệu từng nhà văn, Vũ Ngọc Phan đã chọn lọc những tác phẩm tiêu biểu và đưa ra nhiều đánh giá rất cụ thể. Đến sáng tác của Trần Tiêu, Vũ Ngọc Phan khẳng định: “Tuy là tả dân tình, phong tục làng Cầm, nhưng Con trâu thật là một cuốn tả sự sống và tính tình phong tục của người dân quê miền Bắc” [59, tr.784]. Nhìn chung, vị trí, vai trò của những tiểu thuyết có nội dung phong tục của nhóm văn này đều được các nhà nghiên cứu công nhận. Chỉ có điều do tình hình văn hóa xã hội lúc này nên trong giới nghiên cứu chưa có người đi sâu khai thác những đóng góp ấy một cách cụ thể. Đến năm 2009, Luận văn thạc sĩ Phong tục Việt Nam trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn của Phạm Thị Minh Tuyền (Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) một lần nữa đã tiến hành tìm hiểu một cách toàn diện những vấn đề phong tục trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Qua đó, bức tranh về con người, xã hội những năm 1930 đến 1945 với những truyền thống tốt đẹp của cha ông cần được giữ gìn và cả những hủ tục cần loại bỏ hiện lên đậm nét. Ngoài ra vấn đề này còn được đề cập trong một số công trình khác như: Bình giảng về Tự lực văn đoàn (Nguyễn Văn Xung), Tiểu thuyết Việt Nam thế hệ 1932 - 1945 (Thanh Lãng), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam 7 1930 - 1945 (Nguyễn Đăng Mạnh)... Ngoài những cây bút lý luận phê bình cũ, từ thập niên 90 đến nay, nghiên cứu về Tự lực văn đoàn ta còn phải kể đến khá nhiều gương mặt mới như Nguyễn Hữu Hiếu, Lê Thị Dục Tú, Phạm Thanh Hùng, Trịnh Hồ Khoa...Tất cả đã tạo được một không khí sôi nổi, khách quan, và khoa học nhằm đưa đến những nhận định công bằng, thấu đáo khi đánh giá về vai trò, vị trí của nhóm văn này trong nền văn học dân tộc. Tóm lại, qua quá trình tìm hiểu lịch sử nghiên cứu văn chương Tự lực văn đoàn dưới góc độ văn hóa xã hội và phong tục, chúng tôi nhận thấy rằng: từ trước cho đến nay, Tự lực văn đoàn là nhóm văn duy nhất có sáng tác gây được nhiều sự chú ý trong công chúng. Và Tự lực văn đoàn với những đóng góp cho nền văn hóa, phong tục nước nhà cũng là một vấn đề đã được các nhà nghiên cứu ghi nhận. Tuy nhiên, sự phân tích và lí giải vấn đề vẫn chưa thật thỏa đáng. Bàn về vấn đề tâm linh trong văn học giai đoạn này, Trần Đình Sử trong bài viết “Văn học và văn hóa tâm linh” khẳng định tâm linh vốn tồn tại từ rất lâu trong đời sống con người và cả trong văn học từ sơ khai đến hiện đại. Đối với khoa học, tâm linh là lĩnh vực của những điều chưa thể chứng minh bằng khoa học. Nhưng đối với văn hóa, đó là lĩnh vực của “phong tục” (Phan Kế Bính), là “nếp cũ” (Toan Ánh) thấm sâu trong tiềm thức con người. Ông cho rằng “Các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa và hiện thực chủ nghĩa thuộc giai đoạn 1932 -1945 vừa có thế giới quan khoa học, vừa có yếu tố văn hóa tâm linh, vẫn miêu tả con người mang tâm linh ấy” [71, tr.45]. Văn xuôi quốc ngữ ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX đã đặt dấu ấn khá đậm nét về văn hoá vùng Nam Bộ gắn với tên tuổi của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng trong công trình nghiên cứu Văn học Việt Nam nơi miền đất mới (2007) cho rằng: “Hồ Biểu Chánh là một nhà văn sung sức nhất ở Nam Bộ hồi đầu thế kỷ XX với một văn phong đậm màu sắc “Miệt vườn Lục tỉnh Nam Kỳ” [76, tr.1010]. Tuy nhiên, tác giả này cũng chỉ mới dừng lại ở việc giới thiệu một số tác phẩm mà chưa đi sâu làm rõ sắc thái “miệt vườn Lục tỉnh” trong sáng tác của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Nguyễn Phong Nam khi nghiên cứu tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nhận xét: “Hồ Biểu Chánh cũng là nhà văn thể hiện rất thành công cái diện mạo văn hóa Nam bộ xưa trong tác phẩm của mình. Hồ Biểu Chánh đã rất thành công ở thể loại tiểu thuyết phong tục - điều không nhiều nhà văn đương thời làm được. Đây cũng là nét độc đáo của văn chương Hồ Biểu Chánh” [52, tr.92]. 8 Năm 2014, Luận văn Thạc sĩ Dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh của Phạm Thị Minh Hà đã tiến hành khảo sát những bản sắc địa phương của Nam Bộ được phản ánh trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Điểm đáng lưu ý đó là tác giả đã chỉ ra nét đặc sắc nhất mà những nhà văn khác không có được chính là chất Nam Bộ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Đọc tiểu thuyết của ông, độc giả nhận ra dấu ấn địa phương, chất vùng miền đậm đặc trong từng trang viết. Nghiên cứu về VHDG trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn có rất nhiều bài nghiên cứu khác như: Đặc điểm khẩu ngữ Nam Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh của Châu Minh Hiền; Cuộc sống ở nông thôn Nam bộ trong một số tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh và Đời sống văn hoá ở nông thôn Nam bộ trong một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh của Huỳnh Thị Lan Phương, Hồ Biểu Chánh - nhà văn đến hiện đại từ truyền thống của Võ Văn Nhơn... Khi nghiên cứu tiểu thuyết của các nhà văn hiện thực phê phán như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, bên cạnh việc khai thác những nội dung mang tính thời cuộc, các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến yếu VHDG thể hiện trong mỗi tác phẩm. Trong sách Văn học Việt Nam 1930 - 1945 (tập 2), khi đề cập đến tiểu thuyết phóng sự của Nguyễn Công Hoan, Phan Cự Đệ nhận xét: “Trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, ta thấy ông băn khoăn nhất về những sự đụng chạm giữa cái giàu và cái nghèo trong xã hội. Sự xung đột giữa kẻ giàu, người nghèo là cái cốt của hầu hết các truyện ngắn, truyện dài của Nguyễn Công Hoan” [19, tr.8]. Có thể thấy, dù vô tình hay hữu ý thì chúng ta không khó nhận ra sự tiếp nhận những yếu tố từ văn học truyền thống bởi xung đột giàu - nghèo, thiện - ác vốn là motif xuất hiện từ trong văn học dân gian. Nguyễn Công Hoan và các nhà văn cùng thời đã lồng ghép khéo léo giữa việc phản ánh hiện thực bằng những xung đột hình thành từ nền văn học sơ khai của dân tộc. Phần lớn những đánh giá của các nhà nghiên cứu khi bàn về tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan đều xoay quanh vấn đề này. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại, quyển tư (tập 3) cũng cho rằng: “Tất cả tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan, dù là truyện ngắn hay truyện dài, đều là tiểu thuyết tả thực, tiểu thuyết tả về phong tục Việt Nam, về hạng trung lưu và hạng nghèo” [60, tr.49]. Huỳnh Như Phương khi nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học 9 và văn hóa cho rằng “Ở Việt Nam đã hình thành cả một dòng văn xuôi phong tục” [62] với những tác giả am hiểu sâu sắc đời sống nông thôn: Ngô Tất Tố với Việc làng và Lều chõng, Trần Tiêu với Con trâu và Chồng con, Mạnh Phú Tư với Làm lẽ và Sống nhờ, … Tất nhiên, tác phẩm có sức ám ảnh là nhờ trên cái nền của sự miêu tả phong tục đó, nhà văn tái hiện những tình huống bi kịch của kiếp người. Viết về phong tục, các nhà văn không chỉ làm công việc miêu tả đơn thuần, mà còn bày tỏ một thái độ trước những phong tục tập quán đã lỗi thời, không còn phù hợp với thời đại mới vì ngăn trở con người đi tìm tự do và hạnh phúc. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu bên cạnh tìm hiểu nội dung cũng như nghệ thuật, đã ít nhiều đề cập đến khía cạnh VHDG tiểu thuyết của các nhà văn hiện thực nửa đầu thế kỉ XX. 1.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1985 Khi đánh giá về văn học giai đoạn này, Nguyễn Đăng Điệp trong bài nghiên cứu “Văn học và văn hóa tâm linh trong tiến trình lịch sử” cho rằng đây là giai đoạn văn học gắn liền với mô hình văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ưu tiên cho sự vận động của quy luật đấu tranh và sự tất thắng của cách mạng. Cho nên, trong bối cảnh ấy những những biểu hiện của VHDG trong tiểu thuyết giai đoạn này có nhiều hạn chế, đặc biệt là văn hóa tâm linh. Tuy nhiên, tiểu thuyết cũng mang một nhiệm vụ trung tâm như tất cả các thể loại khác, đó là phản ánh hiện thực cách mạng, phục vụ chính trị, gắn bó với phong trào quần chúng nhân dân, cho nên văn học có xu hướng “quay về tìm kiếm trong văn học truyền thống những biểu tượng đủ sức lay động và kết nối cộng đồng” [21, tr.22]. Và “văn học giai đoạn 1945 – 1985 rất hiệu quả trong việc khơi thức tâm thức văn hóa cộng đồng…Nó cũng là một phương diện tạo nên nét đặc điểm độc đáo của văn hóa và văn học thời chiến” [21, tr.22]. Tìm hiểu ảnh hưởng VHDG trong tiểu thuyết giai đoạn này dù không có những công trình tiêu biểu, song tự bản thân người sáng tác đã mang văn hóa dân tộc thấm đẫm trong từng trang viết khi họ đi thực tế đến những vùng đất mới của tổ quốc để viết. Nếu hút nhụy dân gian từ vùng đất Nam bộ ta sẽ có Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, dân gian từ Tây Nguyên hùng vĩ đã sinh ra Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc. Nguồn mạch dân gian cũng là cơ sở để nhiều tiểu thuyết giai đoạn này thành công và đầy sức ám gợi. 10 Khi nhắc đến Đoàn Giỏi người ta nghĩ ngay đến tác phẩm Đất rừng phương Nam. Ông chọn con đường quay về cội nguồn văn hoá dân tộc, mà chính xác là văn hoá Nam Bộ bằng lối văn mộc mạc, bằng chữ nghĩa giản dị gần gũi với đời sống thực tế, làm sống lại nhiều vấn đề về đất và con người nơi đây. Huỳnh Mẫn Chi trong bài viết về “Đoàn Giỏi và áng văn của đất, của rừng phương Nam” đã nhận xét: “Với rừng tràm bạt ngàn, dòng sông mênh mông, con đò bập bềnh, tôm cá đầy đàn, Đoàn Giỏi như gửi trọn vào tác phẩm của mình. Tác phẩm này đã mang đến người đọc nhiều thú vị về bối cảnh, con người, tập tục văn hóa của vùng nông thôn Nam Bộ” [11]. Tiểu thuyết chính là tác phẩm nổi bật nhất trong quá trình sáng tác của ông bởi bối cảnh câu chuyện rất đặc trưng của vùng Tây Nam Bộ. Ma Văn Kháng trong bài viết Lời tưởng niệm - trên báo Văn nghệ số ra ngày 3/4/1999 đã cho rằng: “Đọc Đất rừng phương Nam, tình yêu đất nước của chúng ta, một lần nữa giàu có thêm, vì trong văn ông, tình yêu đất nước bắt nguồn và liên hệ bền chặt với sự độc đáo của nền văn hóa lâu đời của dân tộc”. Còn trong tập tiểu luận - phê bình Tiếng vọng những mùa qua của Nguyễn Thị Thanh Xuân lại nhận định một cách đầy trân trọng về Đoàn Giỏi: “Ông đã đem đến cho bạn đọc cả nước những hiểu biết và tình cảm về một vùng đất mà trước đó xa ngái, hoang sơ trong hình dung của mọi người. Ông đã xây dựng những nhân vật lòng đầy nghĩa khí mà tinh tế và giàu chất văn hóa…” [97, tr.113]. Các bài nghiên cứu về cuộc đời và tác phẩm Đất rừng phương Nam tuy còn rải rác khác chưa hệ thống, song đã cung cấp một cách tìm hiểu về văn hóa vùng miền khi nghiên cứu văn hóa dân gian trong các tác phẩm văn học. Cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa vùng miền khi sáng tác, Nguyên Ngọc là một nhà văn gắn liền với mảnh đất Tây Nguyên đầy nắng gió. Tiểu thuyết Đất nước đứng lên của ông đã đi vào lòng thế hệ bao bạn đọc khi tái hiện hình ảnh anh hùng Núp và cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm của nhân dân Tây Nguyên. Góp phần vào thành công của của tác phẩm còn là dấu ấn đậm nét của miền đất Tây Nguyên hùng vĩ. Hoàng Sĩ Nguyên và Lê Thanh Toàn đề cập và phân tích khá nhiều khía cạnh mang đậm nét văn hóa dân gian Tây Nguyên trong sáng tác của Nguyên Ngọc, trong đó có tiểu thuyết Đất nước đứng lên như: Văn hóa làng, văn hóa lễ hội, văn hóa nhà Rông, văn hóa cồng chiêng cùng với thiên nhiên hoang sơ 11 hùng vĩ...Đồng thời nhấn mạnh: “Tây Nguyên với bề dày lịch sử hàng nghìn năm đã hình thành và lưu giữ nhiều giá trị văn hoá độc đáo. Sáng tác của Nguyên Ngọc là những phác họa chân thật, sinh động về văn hoá Tây Nguyên, đem đến cho người đọc những hiểu biết về Tây Nguyên khác hẳn với những nhà văn trước đây đã viết về miền núi và dân tộc thiểu số [54, tr.52]. Như vậy đa số những bài nghiên cứu đều thừa nhận Nguyên Ngọc đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể trong những sáng tác về Tây Nguyên. Sở dĩ có được thành công này là nhờ những hiểu biết phong phú và sâu sắc về văn hóa và con người nơi đây. Ngoài ra, quan tâm đến sáng tác của Nguyên Ngọc còn phải kể đến các nhà nghiên Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Đỗ Kim Hồi... Tuy nhiên, các bài nghiên cứu chủ yếu đánh giá một cách tổng quát sáng tác của Nguyên Ngọc, nếu đi vào phân tích cụ thể từng tác phẩm thì cũng chỉ đi tìm hiểu nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật chứ chưa đi vào nghiên cứu tác phẩm của ông như một giá trị văn hóa, dưới góc nhìn văn hóa. Đề cập đến yếu tố văn hóa dân gian trong văn học giai đoạn này sẽ là khuyết thiếu nếu không đề cập đến bộ phận văn học tồn tại dưới chính thể Việt Nam cộng hòa, đó là bộ phận văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975. Tuy yếu tố văn hóa dân gian không phải là đối tượng được các nhà văn bộ phận văn học này xem là trọng yếu nhưng đứng trước sự xâm lăng của văn hóa ngoại lai, một số nhà văn mang tư tưởng yêu nước tiến bộ như Sơn Nam, Vũ Bằng, Võ Hồng…đã có ý thức giữ gìn văn hóa dân tộc qua những trang văn của mình. Trong các bài nghiên cứu, phê bình văn học đô thị miền Nam của các tác giả như Nguyễn Đức Đàn, Trần Hữu Tá, Thạch Phương, Trường Lưu…mặc dù ghi nhận những đóng góp của các nhà văn thuộc bộ phận văn học này trong việc giữ gìn và bảo lưu những giá trị văn hóa truyền thống, nhưng bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu thường phần nhiều dựa vào truyền thống, lấy văn hóa dân tộc để phê phán và đối lập với những biểu hiện của chủ nghĩa hiện sinh hay tư tưởng vọng ngoại, nô dịch trong văn chương của bộ phận văn học này. Tuy nhiền, dù khen hay chê thì khi đi vào tìm hiểu những tác phẩm của các nhà văn này chúng ta không thể phủ nhận tình cảm, tình yêu đối với các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc khi đất nước cắt chia. Và thực sự phải nói rằng, sống dưới chế độ cũ, chịu rất nhiều kìm kẹp, để thể hiện rõ tinh thần yêu nước quả 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan