Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết gia đình bé mọn (dạ ngân) và tiền đinh (đoàn ...

Tài liệu Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết gia đình bé mọn (dạ ngân) và tiền đinh (đoàn lê)

.PDF
114
125
60

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ------------------------------ PHẠM THỊ NHUNG YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH BÉ MỌN (DẠ NGÂN) VÀ TIỀN ĐỊNH (ĐOÀN LÊ) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2018 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ------------------------------ PHẠM THỊ NHUNG YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH BÉ MỌN (DẠ NGÂN) VÀ TIỀN ĐỊNH (ĐOÀN LÊ) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã ngành: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Lưu Khánh Thơ THÁI NGUYÊN - 2018 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................3 2.1 Dạ Ngân và tiểu thuyết Gia đình bé mọn ..............................................................3 2.2 Đoàn Lê và tiểu thuyết Tiền định ..........................................................................4 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ..........................................................................6 3.1 Đối tượng nghiên cứu............................................................................................6 3.2 Mục tiêu nghiên cứu ..............................................................................................6 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ...................................................................7 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu: ..........................................................................................7 4.2. Phương pháp nghiên cứu:.....................................................................................7 5. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................7 6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................7 7. Kết cấu của luận văn ...............................................................................................8 Chương 1: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN, ĐOÀN LÊ ........................................9 1.1. Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI .................................................................9 1.1.1. Diện mạo chung ..............................................................................................10 1.1.2. Tiểu thuyết tự truyện .......................................................................................14 1.2. Hành trình sáng tác của Dạ Ngân, Đoàn Lê .......................................................19 1.2.1. Hành trình sáng tác của Dạ Ngân ....................................................................19 1.2.2. Hành trình sáng tác của Đoàn Lê ....................................................................22 Tiểu kết chương 1: ....................................................................................................26 Chương 2: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH BÉ MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ..............28 2.1. Cuộc đời thực của nhà văn .................................................................................28 2.1.1. Cuộc đời thực của Dạ Ngân ............................................................................28 2.1.2. Cuộc đời thực của Đoàn Lê.............................................................................29 2.2. Tiểu thuyết hóa chất liệu đời tư .........................................................................31 2.2.1. Nguyên mẫu - Nhân vật ..................................................................................31 2.2.2. Hiện thực đời sống - Hiện thực tác phẩm ......................................................38 2.3. Cảm quan về lịch sử, đời sống xã hội và con người ..........................................54 2.3.1. Cảm quan về lịch sử ........................................................................................54 2.3.2. Cảm quan về đời sống xã hội ..........................................................................58 2.3.3. Cảm quan về con người ..................................................................................61 2.4. Ý thức về cái tôi cá nhân ....................................................................................63 2.4.1. Cái tôi cô đơn ..................................................................................................64 2.4.2. Cái tôi khao khát hạnh phúc ............................................................................67 2.4.3. Cái tôi phản kháng, đấu tranh .........................................................................70 2.4.4. Cái tôi day dứt, dằn vặt ...................................................................................72 Tiểu kết chương 2......................................................................................................76 Chương 3: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH BÉ MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT .......77 3.1. Ngôi kể (Điểm nhìn trần thuật) ..........................................................................77 3.1.1. Ngôi thứ ba – sự khách quan hóa ....................................................................78 3.1.2. Ngôi thứ ba – màu sắc lãng mạn .....................................................................83 3.2. Ngôn ngữ ............................................................................................................86 3.2.1. Ngôn ngữ giàu màu sắc biểu cảm ...................................................................86 3.2.2. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi đời thường ............................................................89 3.2.3. Ngôn ngữ tính dục ...........................................................................................93 3.3. Giọng điệu ..........................................................................................................97 3.3.1. Giọng hoài niệm, trữ tình ................................................................................98 3.3.2 Giọng chiêm nghiệm, triết lý .........................................................................101 Tiểu kết chương 3....................................................................................................103 KẾT LUẬN ............................................................................................................104 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................106 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT GS: Giáo sư PGS: Phó giáo sư TS: Tiến sỹ NXB: Nhà xuất bản LHP: Liên hoan phim 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn học thời kỳ đổi mới với sự chuyển mình đã tạo ra những chuyển biến đáng ghi nhận ở hầu hết các thể loại, trong đó có tiểu thuyết. Trong điều kiện thuận lợi, thể loại tiểu thuyết từng bước đổi mới, phát triển, đặc biệt ở thể loại này có sự góp mặt của các nhà văn nữ với những tác phẩm tạo sự chú ý trên văn đàn. Sự đổi mới về tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con người, cuộc đời, quan niệm về nhà văn trong mối quan hệ với tác phẩm, với công chúng và với chính mình giúp cho các nhà văn có môi trường thuận lợi để viết văn, để phản ánh, để sáng tạo. Các tác phẩm văn học quan tâm đến con người cá nhân, con người và cuộc sống được nhìn từ nhiều chiều. Nhiều nhà văn nữ có điều kiện để sáng tạo nghệ thuật, để bộc lộ khả năng, cái tôi cá nhân trong các tác phẩm của mình. Nhiều nhà văn nữ đã sáng tác ở thể loại tiểu thuyết, thể loại đòi hỏi người cầm bút phải có sự tập trung cao độ trong sáng tác, thời gian, có sự trải nghiệm, suy tư về con người và cuộc đời, am hiểu sâu rộng về xã hội, thời cuộc. Đặc biệt với nhu cầu giải phóng tư tưởng, bộc lộ cái tôi của người phụ nữ, với đặc trưng của thể loại tiểu thuyết, nhiều tiểu thuyết của nữ nhà văn đã đi theo khuynh hướng tự truyện. Với cách nhìn cách cảm riêng của người phụ nữ, tiểu thuyết của các tác giả nữ góp phần làm cho diện mạo tiểu thuyết thêm phong phú, đa dạng, tiếng nói về con người, cuộc đời cũng giàu sắc điệu hơn. Sang đầu thế kỷ XXI, sự xuất hiện những tiểu thuyết của nữ nhà văn với giọng rất lạ, lạ cả về nội dung, lạ cả về hình thức. Ở những tiểu thuyết này, người đọc dễ dàng nhận ra một cách nhìn, một cách cảm về cuộc đời, con người rất riêng, mang tính nữ. Đặc biệt là tiểu thuyết có tính tự thuật. Tự thuật vừa như một phương thức tư duy vừa là phương thức nhà văn sử dụng để đưa yếu tố có thật trong cuộc đời cũng như hiện thực cuộc sống vào tác phẩm. Chính vì thế, dễ dàng nhận thấy những tiểu 2 thuyết này mang đậm yếu tố tự truyện. Nghiên cứu về yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết của nữ nhà văn, giúp người đọc có thể nhận thấy sự chuyển biến rõ rệt ở thể loại tiểu thuyết thời kỳ đổi mới, thấy được những đóng góp ở thể loại tiểu thuyết của nữ nhà văn. 1.2. Là những nhà văn sinh ra, lớn lên, trưởng thành qua những biến động lớn của lịch sử, cuộc đời đa đoan, nhiều thăng trầm, Đoàn Lê và Dạ Ngân có những trải nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời. Chính điều đó, đã khiến hai nhà văn có một vốn tư liệu quý giá để viết nên những tiểu thuyết để lại ấn tượng mạnh cho người đọc. Với niềm đam mê viết, với nhu cầu bộc lộ con người cá nhân, tiểu thuyết của hai nữ nhà văn giàu nghị lực, khao khát hạnh phúc cháy bỏng lôi cuốn người đọc khám phá thế giới nội tâm nhiều bí ẩn của người phụ nữ, hiểu hơn về cuộc sống con người trong chiến tranh, thời bao cấp, thời xóa bỏ bao cấp… Ở độ chín của một đời người, Dạ Ngân viết tiểu thuyết Gia đình bé mọn, Đoàn Lê viết tiểu thuyết Tiền định. Nếu như Gia đình bé mọn kể về cuộc đời số phận của người phụ nữa Nam bộ, thì Tiền định lại khám phá số phận của người phụ nữ Bắc bộ. Điểm chung của hai tiểu thuyết đó là, cuộc đời số phận của nhân vật gắn liền với thời chiến tranh, thời bao cấp và thời kỳ đổi mới, số phận cá nhân được nhìn nhận trong mối quan hệ chặt chẽ với thời đại, xã hội; mọi vấn đề của đời sống được nhìn nhận qua cái nhìn của người phụ nữ cá tính có phần gai góc, khao khát hạnh phúc, giàu nghị lực, ý thức sâu sắc về quyền hạnh phúc trong tình yêu hôn nhân, bao dung và nhân ái. Hai tiểu thuyết mang đậm yếu tố tự truyện. Những vấn đề, những điều phản ánh trong tác phẩm đều thấp thoáng dấu ấn trong cuộc đời của hai nữ nhà văn. Gia đình bé mọn được xem là tác phẩm thành công nhất của Dạ Ngân. Tác phẩm được tái bản nhiều lần, nhận hai giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2005 với số phiếu tuyệt đối 9/9 và dịch sang tiếng Anh, xuất bản ở Mỹ. Tiền định của Đoàn Lê từng lọt vào chung khảo giải thưởng văn Bách Việt 2009. Có thể nói, đây là hai tiểu thuyết của tác giả nữ được đặc 3 biệt chú ý trong văn học thế kỷ XXI. Nghiên cứu hai tiểu thuyết này sẽ góp phần tìm ra những đặc trưng trong sáng tác của nữ nhà văn đầu thế kỷ XXI, sự tìm tòi đổi mới trong sáng tác, những cống hiến, đóng góp của Đoàn Lê và Dạ Ngân ở thể loại tiểu thuyết. 1.3. Nhà văn Dạ Ngân và Đoàn Lê là nữ nhà văn có sức viết dồi dào, bền bỉ. Sáng tác của hai nhà văn, đặc biệt là tiểu thuyết Gia đình bé mọn và Tiền định tạo sự chú ý quan tâm và có sức lan tỏa khá rộng. Có nhiều khá bài viết về Đoàn Lê và tiểu thuyết Tiền định, những bài viết về Dạ Ngân và tiểu thuyết Gia đình bé mọn. Có thể nói, từ khi ra đời đến nay, hai tác phẩm luôn nhận được sự chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, sự yêu mến của công chúng. Có một những công trình nghiên cứu về từng tiểu thuyết ở các phương diện khác nhau và phát hiện ra những đặc điểm cũng như giá trị của mỗi tiểu thuyết. Qua quá trình tìm hiểu chúng tôi nhận thấy, cả hai tiểu thuyết đều có yếu tố tự truyện và tiêu biểu cho tiểu thuyết của tác giả nữ đầu thế kỷ XXI. Yếu tố tự truyện đã làm nên thành công của hai tiểu thuyết, đồng thời góp phần tạo nên một hiện tượng văn học đầu thế kỷ XXI cần được tìm hiểu, nghiên cứu để nhìn nhận, đánh giá sâu hơn. Xuất phát từ những lí do khách quan và thực tế trên, từ sự yêu thích hai tác phẩm, từ mong muốn tìm hiểu khám phá đời sống nội tâm, số phận con người, sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI, chúng tôi chọn đề tài: Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân và Tiền định của Đoàn Lê. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Dạ Ngân và tiểu thuyết Gia đình bé mọn Sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong thời chiến tranh, yêu thích văn chương, bền bỉ trên mảnh đất chữ nghĩa, Dạ Ngân viết văn từ những năm 80 của thế kỷ trước, sáng tác thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Là 4 một trong những cây bút nữ trưởng thành sau năm 1975, Dạ Ngân tạo sự chú với tác phẩm Con chó và vụ ly hôn. Tiểu thuyết Gia đình bé mọn ra đời đánh dấu thành công trong sự nghiệp văn chương của Dạ Ngân, đưa tên tuổi Dạ Ngân đến với độc giả yêu văn chương trong và ngoài nước. Cuốn tiểu thuyết Gia đình bé mọn có sức hấp dẫn đặc biệt với người đọc. Tiểu thuyết mang tính tự thuật, viết về cuộc đời một người phụ nữ đi qua chiến tranh, qua thời bao cấp. Hoài Nam trong bài “Gia đình bé mọn” – “bản dập” cuộc đời Dạ Ngân, nhận xét: “chiến tranh đã khắc dấu ấn của nó lên đời sống xã hội, lên nhân tính, lên tình yêu của một thời kỳ đằng đẵng ngay cả khi tiếng súng chiến tranh đã chấm dứt. Là người từng ở “cứ” nhiều năm, sau đó lại kinh qua thời bao cấp như hàng triệu người dân Việt Nam khác, nhà văn Dạ Ngân thấu hiểu điều này và có lẽ, “Gia đình bé mọn” chính là kết quả của cả một quá trình mà bà đã suy ngẫm về chiến tranh, tất nhiên, theo cách riêng của bà...”.[22] Trong bài viết Gia đình bé mọn – lời tự thú chân thật, tác giả Trần Thiện Đạo đánh giá: tác phẩm Gia đình bé mọn “có một bề dày lịch sử và một chiều sâu tâm lý khiến cho nó nghiễm nhiên trở thành chứng từ khắc hoạ một thời kỳ gian khó, qua những lời tự thú chân thật và chân thành về nhiều mặt”.[5] Gia đình bé mọn mặc dù có những thành công nhất định được quan tâm, song trên thực tế việc phê bình, nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm chỉ mới dừng lại ở các bài điểm sách, những tin vắn về việc in nối bản tiểu thuyết cùng một số cuộc phỏng vấn và viết chân dung nhà văn. Gần đây đã có một số luận văn của các trường Đại học chọn tác phẩm làm đối tượng nghiên cứu. Luận văn cũng chỉ mới tiếp cận này theo hướng nghiên cứu về giá trị của tiểu thuyết. 2.2. Đoàn Lê và tiểu thuyết Tiền định Đoàn Lê là người phụ nữ đa tài, đa đoan. Ở độ tuổi đã chín của một đời 5 người, Đoàn Lê viết tiểu thuyết Tiền định. Cuốn tiểu thuyết ra đời nhận được sự quan tâm đặc biệt của độc giả. Về Đoàn Lê, Hồ Anh Thái - người bạn thân thiết - đã dùng 14 trang để “dựng” chân dung văn học của nhà văn trong Chị tôi. Về Tiền định, Hồ Anh Thái nhận xét: “ Không e dè, không lảng tránh, chị tự mổ xẻ theo kiểu không gây mê. Có nhiều chuyện, chắc nhiều cây bút phải run tay ghê tay. Nhưng chị đã viết ra được”[39, tr.45] Trong bài viết cho cuốn Tiền định, Lê Minh Khuê đã đánh giá “Vừa là tự truyện, vừa là hư cấu, cuốn sách không có khám phá mới mẻ gì về phong cách. Tác giả kể chuyện nhẩn nha và hấp dẫn. Nhưng cái đáng để ta quan tâm: nhà văn viết cho độc giả đọc. Với những sự kiện đầy ăm ắp, Đoàn Lê cung cấp cho người yêu sách văn học cái cảm xúc trong sáng của người viết văn tinh tế, chú ý đến những rung động nhỏ của sự sống… Đoàn Lê đã đến với người đọc thật giản dị. Trên những chất liệu thực, tác giả đã thổi vào đó trí tưởng tượng, để câu chuyện như thực, lại như một giấc mơ về cuộc đời đa truân của người đàn bà” [18, tr.315] Việt Hà ở bài viết Tiền định nghiệt ngã trong tiểu thuyết Đoàn Lê có khẳng định: “Những ai quen biết nhà văn Đoàn Lê, khi đọc tiểu thuyết này có thể dễ dàng nhận ra nhân vật nữ trong truyện là hiện thân của tuổi trẻ, tình yêu, khát vọng và cả những truân chuyên trong cuộc đời tác giả. Không né tránh những sai lầm, những mù quáng, những đớn đau của tuổi trẻ và cả những nghiệt ngã trong cuộc đời, Đoàn Lê đi sâu vào phân tích diễn biến nội tâm của nhân vật vốn là lợi thế xưa nay của bà.” [7] Tiền định cũng đã trở thành đối tượng nghiên cứu của một số luận văn. Công trình nghiên cứu Yếu tố tự truyện trong văn xuôi Đoàn Lê của Bùi Thị Thu có khảo sát mối quan hệ giữa chất liệu đời tư và vấn đề được đề cập đến trong tiểu thuyết như: Bi kịch gia đình, câu chuyện nghề, chuyện đời …từ đó 6 làm rõ yếu tố tự truyện trong Tiền định – một trong những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu của Đoàn Lê. Qua những thống kê trên, chúng tôi nhận thấy yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết của các nhà văn nữ đầu thế kỷ XXI là đối tượng tiềm tàng của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Tuy nhiên, những bài viết mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá về tác giả, tác phẩm. Các công trình nghiên cứu về yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết do các nhà văn nữ đầu thế kỷ XXI sáng tác cũng chỉ dừng lại ở những tiểu thuyết đơn lẻ, chưa có những công trình nghiên cứu sâu về yếu tố tự truyện trong hai tiểu thuyết. Với hướng tiếp cận của luận văn này, chúng tôi sẽ làm rõ yếu tố tự truyện – đặc sắc, sự đổi mới, đóng góp trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân và Tiền định của Đoàn Lê. 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết của Dạ Ngân và Đoàn Lê, khảo sát qua hai tiểu thuyết: Gia đình bé mọn của Dạ Ngân và Tiền định của Đoàn Lê. 3.2. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn hướng tới mục tiêu làm rõ yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết của tác giả nữ đầu thế kỷ XXI. Sự tìm hiểu về yếu tố tự truyện trong hai tiểu thuyết có thể giúp ta khai thác những biểu hiện của tự truyện trong hai tác phẩm trên, qua đó tìm ra điểm chung và phong cách riêng của từng nhà văn; thấy những đặc sắc trong phong cách của Dạ Ngân và Đoàn Lê trong tương quan so sánh giữa hai tiểu thuyết trên, nét đặc sắc trong tiểu thuyết của các nhà văn nữ trong tương quan so sánh với các tiểu thuyết của các nhà văn nam giới cùng thời. Từ đó khẳng định những đóng góp của các nữ nhà văn cho thể loại tiểu thuyết. Từ kết quả nghiên cứu đã đạt được, luận văn góp phần khẳng 7 định đặc sắc ở tiểu thuyết tự truyện của nhà văn Dạ Ngân và Đoàn Lê trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Xác định rõ các khái niệm: tự truyện, tiểu thuyết có yếu tố tự truyện, - Xác định yếu tố tự truyện của tiểu thuyết Tiền định, Gia đình bé mọn ở các phương diện: nhân vật, hiện thực trong tác phẩm, ngôi trần thuật, giọng điệu kể chuyện, ngôn ngữ - Xác định đặc điểm, những đóng góp của các nhà văn nữ ở thể loại tiểu thuyết đầu thế kỷ XXI. 4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: Phương pháp tiểu sử; phương pháp so sánh đối chiếu; phương pháp hệ thống; phương pháp hình thức (thi pháp học); phương pháp nghiên cứu liên ngành. 5. Phạm vi nghiên cứu Tìm hiểu về yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết của nhà văn Dạ Ngân và Đoàn Lê, chúng tôi khảo sát qua hai tác phẩm: Gia đình bé mọn (2010, NXB Thanh Niên), Tiền định (2010, NXB ). Ngoài ra chúng tôi cũng chú ý so sánh với một số các tiểu thuyết tự truyện của các nhà văn nam giới đầu thế kỷ XXI để có sự đánh giá đầy đủ trọn vẹn về đối tượng nghiên cứu. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn đi sâu vào tìm hiểu về yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết của nữ nhà văn Dạ Ngân và Đoàn Lê, qua đó khám phá những bí ẩn trong đời sống tâm hồn, cuộc đời số phận của người phụ nữ thời hiện đại; những vấn đề của xã hội thời chiến tranh, thời bao cấp, thời xóa bỏ bao cấp; cảm quan của người phụ nữ về lịch sử, xã hội, con người; ý thức cái tôi nữ quyền; những 8 đóng góp của hai nữ nhà văn trong quá trình đổi mới ở thể loại tiểu thuyết đầu thế kỷ XXI nói riêng, đổi mới văn học nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm các chương sau: Chương 1: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN, ĐOÀN LÊ Chương 2: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH BÉ MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG Chương 3: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH BÉ MỌN VÀ TIỀN ĐỊNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 9 NỘI DUNG Chương 1: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN, ĐOÀN LÊ 1.1. Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI Từ sau năm 1986, đặc biệt là từ đầu thế kỷ XXI, tiểu thuyết Việt Nam đã có sự chuyển mình mạnh mẽ. Tiểu thuyết Việt Nam đã nhanh chóng khoác lên mình một diện mạo mới, mới mẻ về tư duy sáng tác, cách nhìn, lối viết. Và có lẽ, chưa bao giờ thể loại tiểu thuyết có lực lượng sáng tác đông đảo như thế, chưa bao giờ có số lượng tác phẩm ra đời nhiều đến vậy. Đội ngũ sáng tác tiểu thuyết cũng rất đa dạng. Có những nhà văn nam luôn xông xáo, có những nhà văn nữ có sức viết dồi dào, có những nhà văn đã lớn tuổi và có cả những nhà văn mới bước vào nghề. Có những tác phẩm vừa mới in còn chưa ráo mực đã đạt giải thưởng cao, được công chúng đón nhận và yêu mến; có những tác phẩm gây nên chú ý của dư luận, tạo nên những xôn xao, bàn luận sôi nổi. Là thể loại xuất hiện khá muộn ở Việt Nam, đến đầu thế kỷ XX văn học nước ta mới có những tiểu thuyết với đầy đủ tính chất của thể loại hiện đại. Trong những năm kháng chiến (1945 - 1975) tiểu thuyết bội thu về số lượng. Tuy nhiên ở giai đoạn này, tiểu thuyết chỉ chủ yếu xoay quanh câu chuyện về lịch sử, mang đậm tính sử thi và dựa trên mô thức trần thuật đại sự. Từ 1975 đến 1985, nhiều nhà văn đã tìm tòi lối đi cho tiểu thuyết, có nỗ lực đổi mới tiểu thuyết. Một loạt những tác phẩm đã khởi động, tạo nền tảng cho sự vận hành với tốc độ nhanh chóng cho giai đoạn sau này. Sau năm 1986, tiểu thuyết có những bứt phá. Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) kêu gọi đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật đã tạo cơ sở tư tưởng cho xu hướng dân chủ hóa trong văn học được khơi dòng và phát triển mạnh mẽ. Dân chủ hóa đã thấm sâu và được thể hiện ở nhiều cấp độ và bình diện của đời sống văn 10 học. Trên bình diện ý thức nghệ thuật đã có những biến đổi quan trọng theo hướng dân chủ hóa của các quan niệm về vai trò, vị trí và chức năng của văn học, của nhà văn và về hiện thực. Chính điều đó đã tạo một bầu không khí dân chủ, tạo môi trường thuận lợi cho tiểu thuyết đổi mới và phát triển. Sang thế kỷ XXI, trước yêu cầu khách quan cũng như sự vận động nội tại, đòi hỏi tiểu thuyết Việt Nam cần có sự đổi mới. Những điều kiện thuận lợi có được từ sau năm 1986 khiến đời sống xã hội, văn học tiếp tục thay đổi. Đặc biệt, xu hướng toàn cầu hóa đã tách dần con người cá nhân khỏi cộng đồng, buộc cá nhân phải trở thành những chủ thể độc lập. Sự bùng nổ công nghệ thông tin làm cho con đường của tác phẩm đến với bạn đọc được rút ngắn. Sự phát triển của thời đại công nghệ thông tin cũng làm thay đổi nhu cầu thị hiếu bạn đọc. Và khi mạng xã hội phát triển nhanh chóng mọi khoảng cách giữa con người với con người thực sự chỉ như những vách tường phiên liếp mỏng, con người có nhu cầu được bộc lộ mình, muốn tìm hiểu khám phá cuộc sống, con người. Điều đó khiến cả nhà văn lẫn bạn đọc đều có khao khát tìm tòi, khám phá, thể hiện con người của mình, hiểu biết về cuộc sống xung quanh nhiều hơn; muốn hiểu sâu hơn, biết rộng hơn về con người, cuộc đời. Khám phá, hiểu biết về con người, về cuộc sống để hiểu chính mình. Chính điều đó đã trở thành động lực thúc đẩy văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng đổi mới. Có thể thấy rằng, sự thay đổi với tốc độ chóng mặt của thế kỷ XXI là thách thức và cũng là động lực thúc đẩy tiểu thuyết cần có những đổi mới trên mọi phương diện để đáp ứng nhu cầu của thời đại mới, để có thể có chỗ đứng trên văn đàn và trong lòng độc giả. 1.1.1. Diện mạo chung Bakhtin nhận định: “Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và chưa định hình (…) Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa thể dự đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó”. Bakhtin cũng cho rằng: “Đó là thể loại duy nhất nảy sinh 11 và được nuôi dưỡng bởi thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế mà thân thuộc sâu sắc với thời đại ấy, trong khi đó thì các thể loại lớn khác chỉ được thời đại mới kế thừa ở dạng đã hoàn tất (…) do đó nó phản ánh sâu sắc hơn, cơ bản hơn, nhạy bén hơn bản thân hiện thực. Chỉ kẻ biến đổi mới hiểu được sự biến đổi”. Là thể loại năng động, cùng với những điều kiện thuận lợi, tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI thực sự đang bước vào cao trào đổi mới. Chỉ trong khoảng hai mươi, tiểu thuyết Việt Nam đã có những vận động và biến đổi từ tư duy nghệ thuật đến hình thức, nội dung và đạt được những thành tựu đáng kể. Trước hết, đó là sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật. Theo quan niệm truyền thống, tiểu thuyết là những tác phẩm tự sự được viết bằng văn xuôi, phản ánh một cách đầy đủ và trung thực những trải nghiệm của con người trong đời sống. Tiểu thuyết nhất thiết phải dựa vào cốt truyện, hấp dẫn người đọc bằng nội dung câu chuyện kể, bằng những diễn biến đời sống của một nhân vật mang tính cách giống họ hay khác họ. Câu chuyện và cách giải quyết vấn đề mà tiểu thuyết đặt ra, dù thế nào cũng phải đi đến một kết thúc mà mọi mâu thuẫn đều được giải quyết và trả người đọc trở về với trật tự cũ của đời sống. Tính thẩm mỹ ở tiểu thuyết sẽ biểu hiện ở ngôn ngữ, ở sự hài hòa thống nhất của tổng thể và các phân đoạn, sự liên kết chặt chẽ giữa các phần … làm cho câu chuyện trôi chảy, mạch lạc, đưa người đọc vào cõi “hiện thực hư cấu” của câu chuyện. Từ sau đổi mới (1986) và đặc biệt là đến thế kỷ XXI, quan niệm ấy trong tiểu thuyết dần bị phá vỡ. Quan niệm về tự sự, quan niệm về hiện thực của thể loại tiểu thuyết có sự thay đổi. Nhận thức rằng, hiện thực là phong phú, phức tạp và không thể hoặc khó có thể “kể lại” được, tiểu thuyết không chỉ thực hiện sứ mệnh phản ánh hiện thực xã hội, bởi vậy tiểu thuyết thế kỷ XXI thay đổi cả về nội dung và cấu trúc thể loại. Đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết thế kỷ XXI là tiểu thuyết có sự mở rộng biên độ và đa dạng hóa cái nhìn về thế giới và con người. Tiểu thuyết không 12 còn là tấm gương soi của thời đại, không nhất thiết phải là một hiện thực khả tín. Hiện thực trong tiểu thuyết chỉ là một khả thể, thậm chí bất khả tín. Ở góc độ chủ thể sáng tạo, tiểu thuyết không chỉ là tiếng nói của dân tộc, thời đại mà quan trọng hơn còn là phát ngôn thể hiện tư tưởng quan niệm riêng của người nghệ sĩ. Nhà văn có quyền đề xuất những chuẩn mực giá trị mới, có quyền trình bày những kinh nghiệm cá nhân. Tiểu thuyết đương đại tái hiện lịch sử theo nhãn quan người viết và miêu tả số phận con người. Nhà văn đặc biệt quan tâm đến con người cô đơn, con người thân phận. Nhiều tiểu thuyết đã khắc họa lịch sử của một dòng họ, một gia đình, một đời người gắn với những biến động của lịch sử, thăng trầm của xã hội. Những vấn đề cũ như chiến tranh, thời bao cấp vẫn tiếp tục được các nhà văn quan tâm, phản ánh nhưng cái nhìn ít nhiều đã thay đổi. Tiểu thuyết đầu thế kỷ XXI hình thành các khuynh hướng: Tiểu thuyết tân lịch sử (sự phản tư lịch sử), tiểu thuyết hiện sinh (sự phân rã những mảng hiện tồn), tiểu thuyết tính dục (sự phì đại của dòng văn chương thân xác), tiểu thuyết nữ quyền (phụ nữ không phải là “cái khác vắng mặt”)… Một đặc điểm đáng chú ý ở tiểu thuyết thế kỷ XXI đó là sự đa dạng hóa các loại hình tiểu thuyết. Có thể nhận thấy rõ, phần lớn tiểu thuyết viết theo thi pháp truyền thống. Bên cạnh đó, bước đầu đã xuất hiện những tiểu thuyết viết theo thi pháp hiện đại, có yếu tố hậu hiện đại. Ở những tiểu thuyết viết theo thi pháp truyền thống, nhà văn vẫn viết bằng lối cũ nhưng đã có những đổi mới trong nội dung tư tưởng. Có thể nhận thấy rõ ở những tiểu thuyết này, sự mới mẻ trong cái nhìn nhiều chiều về cuộc sống. Các nhà văn đã phản ánh chân thực cuộc sống, mạnh dạn đề cập đến những góc khuất, góc kín trong đời sống tâm hồn con người. Ở lối viết này, nhiều nhà văn đã làm mới bằng sử dụng yếu tố tự truyện vào tác phẩm. Yếu tố tự truyện được đưa vào tác phẩm giúp nhà văn bộc lộ cách nhìn, cách cảm, cách phản ánh mới mẻ, sâu sắc về hiện thực đời sống và con người. Từ đó dễ dàng đề cập đến những vấn 13 đề nhạy cảm, những góc khuất, góc kín trong cuộc sống và trong đời sống tâm hồn con người. Tiêu biểu như: Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải, Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng, Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, Tiền định của Đoàn Lê. Bên cạnh đó, một số nhà văn nỗ lực cho sự đổi mới thể loại đã cho ra đời những tiểu thuyết viết theo thi pháp hiện đại, có yếu tố hậu hiện đại. Với nghệ thuật trần thuật mới mẻ, với những yếu tố ảo hóa, những vấn đề của cuộc sống và con người được đề cập trong một hình thức mới, lạ hơn. Tiêu biểu cho lối viết này là tiểu thuyết: Chinantow, T.mất tích (Thuận), Người sông mê (Châu Diên), Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh)… Sự nhòe mờ ranh giới thể loại, sự xâm nhập của các thể loại khác vào cấu trúc nội tại của tiểu thuyết cũng là một đặc điểm đáng ghi nhận của tiểu thuyết thế kỷ XXI. Bản chất của thể loại tiểu thuyết là luôn linh hoạt, uyển chuyển. Bakhtin đã nhận định: “Nòng cốt của thể loại tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa thể đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó”. Những năm gần đây, tiểu thuyết Việt Nam có hiện tượng pha trộn với truyện ngắn, kịch, tiểu luận triết học, thơ ca, nhật ký, báo chí, huyền thoại. Là một thể loại có khả năng ôm chứa cả bề rộng lẫn bề sâu, tiểu thuyết vừa có khả năng mở rộng không gian, thời gian, nhân vật, sự kiện, vừa có khả năng dồn ép, thu hẹp những bức tranh đời sống thông qua mô hình gia đình riêng với những cảnh ngộ riêng của vài nhân vật. Những năm đầu thế kỷ XXI, tiểu thuyết Việt Nam có xu hướng thu gọn cái “thân xác bề thế” của nó, xuất hiện nhiều tác phẩm có “kích thước nhỏ” phản ánh hiện thực rời rạc, phân mảnh. Tiểu thuyết như một sự lắp ghép nhiều truyện ngắn. Dung lượng của tiểu thuyết tương ứng giữa hình thức nghệ thuật với tinh thần của cái hiện thực mà nó phản ánh. Bên cạnh đó, hiện tượng liên văn bản xuất hiện một cách thường xuyên, ở nhiều cấp độ và dạng thức khác nhau tạo kiểu kết cấu truyện lồng 14 truyện. Tiêu biểu như: Đi tìm nhân vật, Thoạt kỳ thủy, Paris 11 tháng 8, Đức Phật, nàng Savitri và tôi… Hình thức văn bản trong văn bản góp phần tạo nên những tiếng nói khác nhau, mở rộng trường nhìn, đa dạng hóa cấu trúc tiểu thuyết. Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã có những đổi mới tích cực. Có được điều đó là nhờ những nỗ lực sáng tạo đầy tâm huyết của các nhà văn với mong muốn đưa tiểu thuyết nói riêng, văn học Việt Nam phát triển trên đà hội nhập với nền văn học thế giới. Trong khoảng hai mươi năm diện mạo tiểu thuyết đã có những chuyển biến - đó là tín hiệu khởi sắc cho những hi vọng về sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam. 1.1.2. Tiểu thuyết tự truyện 1.1.2.1. Khái niệm tự truyện Thuật ngữ tự truyện có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp (auto: tự, bio: cuộc sống, graphy: viết). Cho đến nay, có khá nhiều nhà nghiên cứu đi vào tìm hiểu thuật ngữ tự truyện. Trong công trình nghiên cứu Quy ước tự truyện (1975), Phillipe Lejeune định nghĩa : “ Tự truyện là một dạng văn xuôi tự sự do một người có thật ngược dòng thời gian kể lại đời mình, nhấn mạnh tới cuộc sống cá nhân, đặc biệt là lịch sử hình thành nhân cách”. Tuy nhiên, đến nay, thực tiễn phát triển của thể loại tự truyện đã đi xa hơn rất nhiều so với định nghĩa của Phillipe Lejeune. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân chủ biên) các tác giả cho rằng: “Tự truyện là tác phẩm tự sự thường được viết bằng văn xuôi trong đó tác giả tự kể và miêu tả cuộc đời của bản thân mình” [2]. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử thì cho rằng: “Trong tác phẩm tự sự, đời tư của nhà văn chỉ là chất liệu hiện thực được tác giả sử dụng với những mục đích khác nhau… tự truyện có thể bao quát hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự, sử thi… ”[34] 15 Tự truyện đã trở thành là một dạng của thể loại văn học. Tuy xuất hiện muộn nhưng đến nay tự truyện là sự lựa chọn của nhiều nhà văn và trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình. Trong tác phẩm tự truyện, cốt truyện có mối liên quan chặt chẽ với chi tiết tiểu sử, cuộc đời của nhà văn. Nhà văn sử dụng chất liệu đời tư để xây dựng cốt truyện một cách có mục đích. Thực tế trong quá trình sáng tác ở bất cứ thể loại nào, tác giả dù vô thức hay có ý thức bao giờ cũng sử dụng những trải nghiệm từ cuộc sống của chính mình đưa vào tác phẩm. Nhưng, ở tự truyện, yếu tố thực từ cuộc đời tác giả xuất hiện đậm đặc hơn, ít bị che khuất hơn. Tự truyện kể về những điều xảy ra trong quá khứ, nhà văn ngược dòng thời gian tìm về với thời thơ ấu, thời tuổi trẻ, thời đã đi qua của chính mình, vì thế cái nhìn trong tự truyện là cái nhìn hồi cố, giọng văn mang tính chiêm nghiệm. So với các thể loại văn học tự viết về chính bản thân tác giả như: hồi ký, nhật ký, tự truyện có nhiều điểm tương đồng với nhưng vẫn có những nét khác biệt. Nhật ký ghi chép sự việc xảy ra theo thời gian tuyến tính và nhằm mục đích giữ lại cho mình, mang tính chất riêng tư. Còn tự truyện và hồi ký kể về những việc đã xảy ra (ngược chiều thời gian), hướng tới mục đích để giãi bày, Khác với nhật ký, tự truyện giống với hồi ký ở chỗ cùng kể về những việc đã xảy ra trong quá khứ. Về đối tượng trung tâm của tác phẩm, hồi ký không nhất thiết phải kể về cái tôi mặc dù nhân vật “tôi” là người kể chuyện. Qua lời kể của nhân vật “tôi”, hồi ký sẽ phác họa lại bức tranh thời đại, xã hội, những mảnh đời, những con người có liên quan đến người kể xảy ra trong quá khứ. Ở hồi ký, cái “tôi” chỉ đóng vai trò “chất dẫn” của mạch cảm hứng, của mối quan hệ. Mục đích của hồi ký là cung cấp những tư liệu của quá khứ mà đương thời chưa có điều kiện để nói ra. Còn tự truyện, cốt truyện xoay quanh câu chuyện về cuộc đời, đoạn đời của tác giả - người kể chuyện - nhân vật “tôi”. Tác giả - người kể chuyện – nhân vật “tôi” tự kể về
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan