Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Xung đột văn hóa trong tiểu thuyết viết về nông thôn giai đoạn từ 1986 đến nay...

Tài liệu Xung đột văn hóa trong tiểu thuyết viết về nông thôn giai đoạn từ 1986 đến nay

.PDF
172
334
102

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HỒ THỊ GIANG XUNG ĐỘT VĂN HÓA TRONG TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HỒ THỊ GIANG XUNG ĐỘT VĂN HÓA TRONG TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN NAY Ngành : Văn học Mã số : 9.22.01.21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp 2. TS Cao Kim Lan HÀ NỘI, 2019 LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp và TS Cao Kim Lan, những người thầy đã tận tình chỉ dạy, hướng dẫn, đóng góp ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc Học viện khoa học xã hội, Phòng Đào tạo, Khoa văn học đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo thuộc phòng Lí luận văn học, phòng Văn học Việt Nam đương đại của Viện văn học đã có những góp ý bổ ích với tôi trong quá trình thực hiện luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn TS Trần Ngọc Hiếu – giảng viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã gợi ý tài liệu và có những góp ý bổ ích để tôi hoàn thành luận án. Xin chân thành cảm ơn cơ quan nơi tôi đang công tác, lãnh đạo trường Đại học Ngoại ngữ, trường THPT chuyên Ngoại ngữ, tổ Xã hội đã quan tâm, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án. Xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người đã luôn động viên, khích lệ giúp tôi hoàn thành luận án. Hà Nội, tháng 1 năm 2019 Tác giả Hồ Thị Giang LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và chưa từng công bố ở bất kì một công trình nào khác. Luận án có kế thừa và sử dụng một số tài liệu đã công bố có liên quan đến đề tài để tham khảo. Các nguồn tài liệu ấy đều được chú thích rõ ràng, chính xác. . Hà Nội, tháng 1 năm 2019 Tác giả Hồ Thị Giang MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU XUNG ĐỘT VĂN HÓA ..... 7 1.1 Khái niệm văn hóa và xung đột văn hóa.................................................................. 7 1.1.1 Khái niệm văn hóa ............................................................................................ 7 1.1.2 Khái niệm xung đột văn hóa ............................................................................. 8 1.2 Tiếp cận xung đột văn hóa trên thế giới ................................................................ 12 1.3 Nghiên cứu xung đột văn hóa ở Việt Nam ............................................................ 18 1.4 Nghiên cứu xung đột văn hóa trong tiểu thuyết viết về nông thôn sau Đổi mới ... 31 CHƢƠNG 2. XUNG ĐỘT VĂN HÓA VÀ SỰ THỂ HIỆN XUNG ĐỘT VĂN HÓA TRONG VĂN HỌC............................................................................................. 37 2.1 Xung đột văn hóa trong văn học ............................................................................ 37 2.2 Xung đột văn hóa nhìn từ các hình thức diễn ngôn ............................................... 40 2.2.1 Xung đột văn hóa nhìn từ diễn ngôn chủ nghĩa dân tộc ................................. 40 2.2.2 Xung đột văn hóa nhìn từ diễn ngôn phương thức sản xuất ........................... 46 2.2.3 Xung đột văn hóa nhìn từ diễn ngôn chấn thương .......................................... 49 2.2.4 Xung đột văn hóa nhìn từ diễn ngôn nữ quyền ............................................... 55 2.3 Xung đột văn hóa – nhìn trong tiểu thuyết viết về nông thôn sau Đổi mới........... 57 2.3.1 Trường tri thức thời đại và ý thức hệ .............................................................. 57 2.3.2 Sự đổi mới tư duy tiểu thuyết .......................................................................... 58 2.3.3 Những động hình mới của diễn ngôn xung đột văn hóa ................................. 60 CHƢƠNG 3. CHỦ THỂ DIỄN NGÔN VÀ SỰ ĐỐI THOẠI VĂN HÓA QUA CÁC MÔ THỨC XUNG ĐỘT XÃ HỘI ...................................................................... 63 3.1 Chủ thể diễn ngôn trong tiểu thuyết viết về nông thôn sau Đổi mới ..................... 63 3.2 Chủ thể chiêm nghiệm về văn hóa họ tộc qua xung đột dòng họ .......................... 66 3.2.1 Quan hệ họ hàng trong văn hóa Việt .............................................................. 66 3.2.2 Kiến tạo xung đột họ tộc ................................................................................. 68 3.3 Chủ thể trăn trở về chấn thương cải cách ruộng đất qua xung đột giai cấp .......... 74 3.3.1 Nhận thức lại về cải cách ruộng đất ............................................................... 74 3.3.2 Đảo lộn quan hệ con người trong cải cách ruộng đất .................................... 75 3.3.3 Sự dịch chuyển số phận của chủ thể ............................................................... 79 3.4 Chủ thể phản biện quan điểm phương thức sản xuất qua xung đột cá nhân - tập thể ................................................................................................................................. 83 3.4.1 Nhận thức lại mô hình hợp tác hóa nông nghiệp ............................................ 83 3.4.2 Mô típ rời bỏ, xa lánh, lạc lõng ...................................................................... 86 3.5 Chủ thể chất vấn về lối sống qua xung đột thế hệ ................................................. 88 3.5.1 Thế hệ nông thôn nhìn qua quan hệ gia đình, xóm giềng, làng xã ................. 88 3.5.2 Kiến tạo xung đột hành động và lối nghĩ ........................................................ 90 CHƢƠNG 4. XUNG ĐỘT VĂN HÓA NHÌN TỪ BÌNH DIỆN GIÁ TRỊ ............... 95 4.1 Xung đột Nhu cầu – Chuẩn mực .......................................................................... 95 4.1.1 Ám ảnh định kiến họ tộc và sự lệch chuẩn của cá nhân nổi loạn ................... 96 4.1.2 Ám ảnh khuôn khổ đoàn thể chính trị và nỗi đau của số phận bi kịch ......... 100 4.2 Xung đột Thật – Giả ............................................................................................ 102 4.2.1 Thật – Giả trong vòng xoáy cơ chế thị trường .............................................. 102 4.2.2 Thật – Giả và mô hình người cán bộ nông thôn ........................................... 106 4.3 Xung đột Thiêng – Tục ....................................................................................... 112 4.3.1 Thực hành tính phân li của biểu tượng ......................................................... 112 4.3.2 Sáng tạo ngôn ngữ thế tục hóa và lời giễu nhại ........................................... 119 4.4 Xung đột Nông thôn – Thành thị ......................................................................... 126 4.4.1 Sự xâm lấn của thành thị đối với nông thôn ................................................. 126 4.4.2 Chất vấn sinh thái: xung đột nông thôn – thành thị ..................................... 129 4.4.3 Mơ hồ hóa không gian nông thôn – thành thị ............................................... 133 4.5 Xung đột văn hóa Đông – Tây ............................................................................. 137 4.5.1 Diễn ngôn giao thoa chính trị và văn hóa .................................................... 137 4.5.2 Hòa giải xung đột văn hóa Đông - Tây ........................................................... 141 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC TÁC PHẨM KHẢO SÁT MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghiên cứu văn học hiện nay có những chuyển mình theo hệ hình nghiên cứu văn hóa. Hướng nghiên cứu này không hề mâu thuẫn với nghiên cứu văn bản và vẫn gắn với bản chất văn học. Các nhà nghiên cứu tập trung nhiều hơn đến việc lí giải quan niệm về cái đẹp, điển phạm, ý thức hệ và cơ chế tạo nên các mã nghệ thuật đặc thù, về sự loại bỏ hay tiếp nhận, dung nạp hay kháng cự các giá trị. Trong đó, chủ thể yếu thế được quan tâm đặc biệt. Diễn ngôn khuyết tật, lưu vong, chấn thương xuất hiện sâu sắc trong các tác phẩm văn học. Văn học thường xâm nhập vào chiều kích tâm linh, vào trạng thái bất an, tiếc nuối, vào những mâu thuẫn giữa thật - giả, sinh kế - xa lạ, phá bỏ - trở về. Khi đó, nông thôn Việt Nam có thể xem là một thực thể văn hóa yếu thế/bị tổn thương trong thời kì đô thị hóa, toàn cầu hóa. Đứng trước “cơn địa chấn” đất đai, tiền bạc, quyền lực, nông thôn “oằn mình” chống đỡ để thích nghi và giữ gìn các giá trị. Quá trình thâm nhập giữa truyền thống và hiện đại, quá khứ và hiện tại, cái tự nhiên và cái văn minh, giá trị nguồn cội và mất kí ức diễn ra mạnh mẽ trong lòng xã hội nông thôn Việt Nam, làm nảy sinh xung đột văn hóa. Ở Việt Nam, vấn đề xung đột văn hóa trước đây phần lớn được nhìn theo quan điểm Marxist, luôn gắn với thực tiễn xã hội, đấu tranh giai cấp. Với C.Marx, muốn tìm hiểu bản chất cái Đẹp phải khảo sát các bản chất xã hội của nó. Mĩ học Marxist cho rằng, nghệ thuật xét đến cùng là sự phản ánh hiện thực khách quan, không phải là sự tự biểu hiện, sự hóa thân của thế giới tâm linh người nghệ sĩ. Xung đột văn hóa như là đối tượng được mô phỏng/phản ánh để giúp nhận thức thực trạng xã hội, nó nằm trong sự định hướng, trong chiến lược của mô hình xã hội chủ nghĩa. Và, mọi xung đột văn hóa đều hướng đến cải tạo hiện thực. Như đánh giá của Macxim Gorki trong Bàn về văn học, xung đột lớn nhất được quan tâm là xung đột giai cấp, gắn với hai mảng hiện thực lớn là “hiện thực của giai cấp chỉ huy, những giai cấp có quyền lực đang dùng mọi cách để khẳng định cho kì được uy quyền của mình đối với con người” và “hiện thực của những người bị trị, những người bị khuất phục và đã cam tâm chịu khuất phục, là cuộc sống buồn tẻ trong lao động nặng nhọc không ngừng”. Bên cạnh đó còn là xung đột về quan niệm cá nhân – tập thể, gắn với những diễn giải đầy ngợi ca về tính chất điển hình, và sự nhạo báng đối với tiếng nói cá nhân. Quy về thời đại, tập thể, mĩ học Marxist khước từ cách lí giải mọi vấn đề của con người từ thế giới hỗn độn bên trong, mà gắn với xã hội học, với vấn đề phương thức sản xuất. Tiếng nói một giọng, hiện thực một chiều được đề cao trong cái nhìn bổ đôi, nhị phân. Tình hình này đã diễn ra rất rõ trong văn học Việt Nam. Nền văn học hướng tới tính đại chúng, tính tập thể đã gạt trừ mọi tiếng nói riêng tư. Văn hóa thời đại đối lập với văn hóa cá nhân. Cái nhìn sử thi chỉ lựa chọn kinh nghiệm của cộng đồng và những vấn đề lớn, mọi góc khuất và 1 tầng vỉa kín đáo được đẩy ra bên lề, ngoại vi. Xung đột văn hóa trong nghiên cứu hiện đại đã vượt lên những giới hạn đó. Các tác giả hiện đại hướng đến tinh thần đối thoại sâu sắc. Văn hóa được xác định trong nội tại bản thân nó và trong sự va chạm, đụng độ với những cái khác. Bởi vậy, xung đột văn hóa có những mô thức biểu hiện phong phú, dưới những diễn giải đa chiều, vừa là sự tương tác của đặc điểm văn hóa truyền thống vừa là những đụng độ văn hóa hiện đại, vừa là sự cọ xát trong văn hóa bản địa, vừa là sự gây hấn/tiếp thu với các yếu tố ngoại lai, vừa là những trăn trở của số phận cá nhân khi va chạm với quan niệm của đám đông, của thời đại. Nhìn nông thôn Việt Nam như một thực thể văn hóa tự nó và thực thể tự nó – cái khác (nơi xuất hiện rõ nhất các mô thức xung đột văn hóa – mà bản chất là nhu cầu đối thoại), sẽ nhận ra sự nỗ lực kiến giải các vấn đề về phận nữ, về chấn thương, về lịch sử, về thành thị. Thành tựu thực tế trong tiến trình văn học đã chứng minh đề tài nông thôn là một đề tài lớn, luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc. Nhiều tác giả và tác phẩm ghi được dấu ấn lớn trong văn học Việt Nam, có thể kể đến một số tên tuổi ở mảng văn xuôi theo từng giai đoạn như: Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bửu Mọc, Hồ Biểu Chánh (buổi giao thời 1900 – 1930), Kim Lân, Bùi Hiển, Trần Tiêu, Thạch Lam Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao (thời kì 1930 – 1945), Tô Hoài, Nguyễn Văn Bổng, Chu Văn, Nguyễn Khải (thời kì 1945 – 1975), Đào Vũ, Nguyễn Kiên, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Lựu, Dương Hướng, Võ Văn Trực, Đoàn Lê, Ngô Ngọc Bội, Tạ Duy Anh, Đỗ Minh Tuấn, Hoàng Minh Tường, Nguyễn Ngọc Tư, … (giai đoạn từ sau 1975). Không chỉ ghi nhận về thành quả, nhìn vào sự vận động chủ đề và lối viết của văn xuôi, chúng ta nhận thấy sự dịch chuyển rất rõ từ khuynh hướng mô phỏng đến đối thoại, minh họa đến chất vấn. Tìm đến văn hóa nông thôn, các nhà văn bày tỏ khát vọng được nhận thức lại đời sống văn hóa, khám phá tâm thức nguồn cội, đối thoại về bản sắc, truyền thống. Ý nghĩa của văn hóa không ngừng được cộng hưởng, tái sinh qua diễn biến, chuyển động, trượt nghĩa, lưu chuyển. Văn hóa không tĩnh tại mà nó được xem là một mạng lưới giao cắt, chồng lấn, được nhìn ở tính thời điểm, và phụ thuộc vào các mối quan hệ khác nhau. Điều này sẽ lí giải thỏa đáng các hiện tượng văn hóa ở từng thời kì lịch sử mang đặc trưng và diện mạo riêng. Chẳng hạn, Truyện Kiều của Nguyễn Du có cả sinh mệnh bình dân và điển phạm. Vấn đề cái tôi cá nhân, quyền tự do dân chủ đi từ cấm đoán đến tôn trọng; hoặc vấn đề nông thôn và thành thị, thiêng liêng và trần tục, phương Đông và phương Tây, thế hệ trước – thế hệ sau… cũng được nhìn nhận ở trạng thái xung đột hoặc giao thoa. Tùy thuộc vào thời điểm, trong đó có sự quy chiếu của ý thức hệ, mà giá trị văn hóa, kiểu văn hóa được khẳng định hoặc bị phủ định. Lựa chọn xung đột văn hóa giai đoạn từ 1986 đến nay cho phép nhìn nhận văn hóa ở tính năng động, xác định sâu hơn sự cọ xát cũ – mới, cái tự nhiên – cái văn minh, bản sắc – ngoại lai. Đây cũng là giai đoạn có nhiều đổi mới trong tư duy tiểu thuyết, có sự tương tác đa chiều và mở rộng về không gian, nhịp độ phát triển, có sự thông thoáng về tư tưởng, đường lối. Từ sau 1986, đất nước chuyển 2 biến về chính trị - xã hội, văn hóa – tư tưởng, làm phát sinh cuộc đụng độ mới của người nông dân, cả về vật chất và tinh thần, đời sống và tâm hồn. Thực thể lịch sử - văn hóa Việt xuất hiện những biến đổi qua tác động của các dấu mốc phản ánh sự căng nở phạm vi, dịch chuyển tinh thần, trí tuệ: 1995 (Việt Nam gia nhập Asean), 1997 (phủ sóng mạng lưới internet), 2007 (Việt Nam gia nhập WTO). Bối cảnh toàn cầu hóa đã tác động đến văn hóa nông thôn làm thay đổi nhận thức không gian văn hóa, xuất hiện các hình thái văn hóa mới và tạo nên một tâm thế khác của chủ thể văn hóa. Các tác giả viết về nông thôn thực hiện chiến lược giao tiếp giữa chủ thể - đối tượng tham chiếu và người tiếp nhận trong một sinh quyển văn học đặc biệt. Tập trung vào tiểu thuyết thuộc giai đoạn từ sau 1986, chúng ta sẽ thấy sự xâm lấn, thay thế dần giá trị cũ bằng các giá trị mới trong xu hướng đô thị hóa, toàn cầu hóa mạnh mẽ. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1 Mục đích nghiên cứu Luận án tìm hiểu xung đột văn hóa dưới các hình thức diễn ngôn, từ đó khẳng định tầm quan trọng của lí thuyết liên ngành trong nghiên cứu văn chương nghệ thuật. Luận án nhằm diễn giải điều kiện, cơ chế tạo ra xung đột văn hóa trong văn học, từ đó thấy được vai trò và giới hạn của các yếu tố tâm lí, quyền lực, ngoại lai trong việc hình thành khung ứng xử, giá trị sống của con người, trong sự chất vấn về giá trị văn hóa Việt trên hành trình hội nhập. Luận án hướng tới khẳng định sức sáng tạo trong lối viết của nhà văn, tính tham dự vào đời sống xã hội, văn hóa của tác phẩm văn học. Thực hành kiến tạo văn hóa bằng kí hiệu hình tượng, kí hiệu không gian, cách tạo mã nghệ thuật,… đã chứng minh tính đối thoại đa chiều của tiểu thuyết và khả năng lí giải ở chiều sâu các vấn đề văn hóa. 2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, luận án xác định khái niệm xung đột văn hóa. Luận án xem xung đột văn hóa là một loại hình của xung đột. Thứ hai, luận án chú trọng phân tích sự thể hiện xung đột văn hóa trong văn học. Luận án nhìn nhận xung đột văn hóa từ các hình thức diễn ngôn khác nhau, như là diễn ngôn chủ nghĩa dân tộc, diễn ngôn chấn thương, diễn ngôn phương thức sản xuất, diễn ngôn nữ quyền. Tương ứng với mỗi hình thức diễn ngôn là các mô thức xung đột văn hóa. Từ đây, luận án nhận thấy những xung đột cơ bản trong từng giai đoạn văn học nhất định (với sự chi phối của thiết chế văn hóa – chính trị - xã hội). Việc nghiên cứu xung đột văn hóa không xơ cứng, đông đặc, tĩnh tại trong giao tiếp một chiều như trước đây mà có sự lí giải ở chiều sâu các vấn đề ý thức hệ, điển phạm. Thứ ba, luận án tìm hiểu chủ thể diễn ngôn trong loại hình xung đột văn hóa: thấy được vị trí quan sát, điểm nhìn của nhà văn và sự chi phối của quyền lực, tri thức, tư tưởng hệ đến sự lựa chọn điểm nhìn của nhà văn. Từ đây, luận án phân tích sự chất 3 vấn văn hóa qua các mô thức xung đột xã hội mà nhà văn kiến tạo trong tiểu thuyết viết về nông thôn. Thứ tư, luận án phân tích xung đột quan niệm giá trị như là nội dung cơ bản, cốt lõi của xung đột văn hóa. Luận án dựa trên các mô thức giá trị văn hóa để phân tích khả năng kiến tạo của tiểu thuyết trên nhiều phương diện khác nhau như chủ đề, hình tượng nghệ thuật, ngôn ngữ, không gian – thời gian..., trọng tâm là nhìn sự kiến tạo ấy trong tương quan cái cũ – cái mới; cái đã qua – cái đang/sẽ là. Mặt khác, luận án phân tích những tác động từ quan hệ đồng đại (nhìn từ trục ngang, trong bối cảnh hiện tại) và quan hệ lịch đại (sự vận động của lịch sử - xã hội) với quan hệ bảo lưu/biến đổi, điểm mạnh/thế yếu để nhận ra cơ sở tạo nên đặc điểm riêng trong cách kiến tạo văn hóa của tiểu thuyết viết về nông thôn từ 1986 đến nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu xung đột văn hóa nông thôn thông qua tình huống lịch sử xã hội, dựa trên ý thức hệ, trường tri thức thời đại và sự thực hành tạo nghĩa trong văn bản văn học. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án là các tiểu thuyết viết về nông thôn giai đoạn từ 1986 đến nay. Dựa trên số văn bản lưu hành và sự thừa nhận về thành tựu của số đông các nhà nghiên cứu, luận án tập trung nhiều hơn vào các tiểu thuyết viết về nông thôn ở miền Bắc (xem Phụ lục). Một vài tiểu thuyết viết về nông thôn miền Nam hoặc đề cập đến đời sống miền núi được nói đến khi phân tích sự dịch chuyển không gian thành thị - nông thôn hoặc tìm hiểu xung đột Đông – Tây. Các tiểu thuyết trước 1986 được sử dụng như những tư liệu đối sánh để nhấn mạnh thêm diện mạo riêng của tiểu thuyết sau 1986, đồng thời nhận ra sự thay đổi tính chất của xung đột văn hóa trong các tiểu thuyết ấy. Bên cạnh đó, mảng truyện ngắn viết về nông thôn cũng được đề cập phần nào với vai trò so sánh chủ đề, cách viết so với tiểu thuyết viết về nông thôn. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1 Phương pháp liên ngành văn hóa học Đây là phương pháp quan trọng xuyên suốt luận án. Phương pháp này vận dụng kết hợp kiến thức của ngành nhân học làng xã, phân tâm học, triết học, ngôn ngữ học, tôn giáo để giải thích những mã văn hóa trong văn học. Chẳng hạn như, lí giải tâm lí cộng đồng làng, ám ảnh giấc mơ, vô thức tập thể... xuất hiện trong các tiểu thuyết viết về nông thôn sau Đổi mới. 4.2 Phương pháp kí hiệu học Sử dụng phương pháp này, luận án xem xét kĩ các đơn vị ngôn ngữ trong chức năng tạo nghĩa đối lập. Văn bản tiểu thuyết viết về nông thôn được tạo lập bằng mạng lưới kí hiệu đa tầng bậc. Kí hiệu ngôn ngữ, kí hiệu hình tượng, kí hiệu không gian đều cho thấy tính quan niệm của nhà văn về con người và cuộc sống. Phương pháp này 4 giúp luận án nhận diện và phân loại kí hiệu (mô – típ), từ đó thấy được đặc điểm, tính chất và xu hướng vận động của hình tượng. 4.3 Phương pháp xã hội học Phân tích xung đột văn hóa dựa trên nền cảnh lịch sử - xã hội không thể không có phương pháp xã hội học. Lí thuyết chức năng xã hội và cấu trúc xã hội cho phép tìm hiểu sự phân chia thế hệ, nhóm người, nguyên tắc hoạt động của các quan hệ xã hội. Điều này soi chiếu sự khác nhau giữa mô hình nông thôn cũ – mới, truyền thống – hiện đại dưới sự tương tác của hoàn cảnh kinh tế - chính trị - xã hội. 4.4 Phương pháp hệ thống Luận án sử dụng phương pháp hệ thống để hệ thống hóa các tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn giai đoạn từ 1986 đến nay, xâu chuỗi và tìm ra hệ thống xung đột chính, mô- típ tiêu biểu, xu hướng dịch chuyển không gian và hình tượng nổi bật. Đồng thời, luận án đặt tiểu thuyết viết về nông thôn từ sau 1986 vào hệ thống các tiểu thuyết viết về nông thôn để nhận ra điểm tiếp nối – phát triển, đặt vào hệ thống thi pháp tiểu thuyết để nhận thức điểm mạnh của thể loại này trong việc kiến tạo văn hóa nông thôn thời kì mới. 4.5 Phương pháp so sánh Đề tài nông thôn là đề tài lớn, có sự phát triển khác nhau trong từng giai đoạn văn học. Để làm rõ diện mạo tiểu thuyết viết về nông thôn từ 1986 đến nay, luận án phải so sánh với giai đoạn trước 1986 để nhận ra sự kế thừa và phát huy; đồng thời, trong quá trình thực hiện, luận án có so sánh đề tài nông thôn trong các thể loại văn học khác nhau, trong các tác phẩm khác nhau để thấy những ưu trội của mỗi tác giả hoặc mỗi tác phẩm. 4.6 Phương pháp loại hình Bản chất của phương pháp loại hình là tìm hiểu cấu trúc bên trong của đối tượng và tìm ra quy luật phát triển của nó. Phương pháp loại hình cho phép nhận diện tính cộng đồng về mặt loại hình, đồng thời nhận ra sự khu biệt, riêng khác của các mô hình lịch sử, văn hóa, văn học. Luận án sử dụng phương pháp này để tìm hiểu về đặc điểm tâm lí/cấu trúc/mô hình cái tự nhiên và cái văn minh, đặc thù mô thức xung đột ở từng giai đoạn lịch sử - xã hội; tìm hiểu, sắp xếp và phân tích các kiểu/loại xung đột văn hóa. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Đây là luận án đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu xung đột văn hóa trong tiểu thuyết dưới góc nhìn liên ngành văn hóa học. Luận án xem nông thôn là thực thể văn hóa yếu thế và diễn giải nó dưới các hình thức diễn ngôn. Luận án đã dựa trên các cách hiểu khác nhau về văn hóa để giới thuyết hợp lí, chú ý hệ tọa độ, tính thời điểm và sự dịch chuyển của chủ thể văn hóa trong những không gian khác nhau. Từ đây, có thể nhận ra những tương tác ngoại vi tại các ranh giới, các đường biên. Cách nhìn như thế thuận tiện để thâm nhập vào không gian văn hóa, phân 5 tích tính đối thoại văn hóa qua các vùng tiếp xúc, và cũng hợp lí để khai thác được những ranh giới nhận thức và cảm xúc của chủ thể văn hóa khi va chạm, đụng độ với các chủ thể khác. Gắn với cách hiểu đó, khái niệm xung đột văn hóa được tạo lập để khái quát hóa các mô thức xung đột và sự vận động của mô thức xung đột. Luận án góp phần bổ khuyết một vấn đề nghiên cứu quan trọng mà nhiều khi, do hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam, vấn đề ấy chưa được quan tâm đúng mức. Luận án cung cấp nhận thức về đời sống nông thôn ở những giai đoạn có sự chuyển đổi về mô hình xã hội và văn hóa. Thực thể văn hóa nông thôn hiện ra với đầy những xáo trộn, biến động, cọ xát giữa cái cũ và cái mới, cái văn minh và cái tự nhiên, bản sắc và ngoại lai. Tính đối thoại văn hóa của chủ thể biểu hiện rất rõ rệt ở góc nhìn này. Luận án phân tích tiểu thuyết viết về nông thôn đương đại như là đối tượng văn hóa - thẩm mĩ, khai thác và chứng minh khả năng kiến tạo văn hóa của văn học. Bằng kĩ thuật viết đa dạng với cách tổ chức hình tượng, ngôn ngữ, không gian, điểm nhìn.., các nhà văn đã lí giải sâu sắc quan niệm về cái đẹp, về điển phạm, về ý thức hệ. Tập trung vào giai đoạn văn học từ sau 1986, luận án thấy được thế mạnh của tư duy tiểu thuyết sau Đổi mới và nỗ lực sáng tạo lối viết của nhà văn. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án Kết quả của luận án cho thấy tính ưu việt của việc tiếp cận liên ngành trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Việc đề xuất khái niệm xung đột văn hóa, tìm hiểu cách tiếp cận xung đột văn hóa trên thế giới và ở Việt Nam cung cấp tri thức văn hóa, văn học hữu ích, góp phần bổ khuyết các vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh hiện đại. Đồng thời, tiểu thuyết viết về nông thôn sau Đổi mới được đánh giá sâu sắc hơn, làm hoàn chỉnh hơn cách nhìn về mảng đề tài hoặc giai đoạn văn học sử. Về mặt thực tiễn, luận án góp phần nhận thức sâu sắc hơn về đời sống xã hội, văn hóa nông thôn thời kì hội nhập. Luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai có nhu cầu tìm hiểu mảng văn học Việt Nam sau Đổi mới. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án được cấu trúc thành 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu xung đột văn hóa Chương 2: Xung đột văn hóa và sự thể hiện xung đột văn hóa trong văn học Chương 3: Chủ thể diễn ngôn và sự đối thoại văn hóa qua các mô thức xung đột xã hội Chương 4: Xung đột văn hóa nhìn từ bình diện giá trị 6 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU XUNG ĐỘT VĂN HÓA 1.1 Khái niệm văn hóa và xung đột văn hóa 1.1.1 Khái niệm văn hóa Từ trước đến nay, hầu như khái niệm văn hóa được nhìn nhận ở dạng tương đối ổn định, có cấu trúc vững bền, biểu hiện thành những hoạt động quen thuộc, những nếp nghĩ sâu bền của cộng đồng người trong cuộc sống, ví dụ: quan niệm của E.B. Tylor (năm 1871) trong công trình Primitive Culture (Văn hóa nguyên thủy, của L. Whitte (năm 1949) trong The Science of Culture (Khoa học về văn hóa). Theo Raymond Williams, khái niệm văn hóa mang tính “nhân học”, tập trung vào ý nghĩa thường ngày (như giá trị - những mô hình lí tưởng trừu tượng, chuẩn mực – những quy định rõ ràng): “một nền văn hóa luôn có hai khía cạnh: một là những ý nghĩa và chiều hướng được biết đến, những cái mà các thành viên của nó được dạy dỗ; hai là, những quan sát và ý nghĩa mới, những cái được đưa ra và được kiểm tra. Đây là những quá trình thông thường của các xã hội con người và trí tuệ con người, và thông qua chúng, chúng ta nhìn thấy bản chất của văn hóa: rằng văn hóa vừa có ý nghĩa phổ biến bình thường nhất và lại có những ý nghĩa cá nhân tốt đẹp nhất.” [11]. Hội nghị quốc tế UNESSCO năm 1982 ở Mexico cũng thống nhất: “Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt, tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội.” [248]. Tuy nhiên, văn hóa không bao giờ đứng yên, xu hướng bảo tồn của nó không đồng nghĩa với tính cố thủ. Muốn phát triển văn hóa, cách tốt nhất là phải căng nở, lan rộng để hấp thu những yếu tố mới. Đó là vấn đề quy luật đối với sự sống của một nền văn hóa, mà vẫn được các nhà nghiên cứu gọi là “quá trình tiếp biến văn hóa”. Các điểm tiếp biến bao giờ cũng tồn tại hiện tượng giao thoa. Điều này không chỉ thể hiện trong thực tiễn văn hóa sinh động mà còn thể hiện trong nỗ lực kiến tạo văn hóa của chủ thể diễn ngôn văn học. M.Bakhtin hình dung sự tiếp biến văn hóa hay vận động văn hóa là quá trình “ngoại vi hóa trung tâm”. Bản sắc văn hóa được xác định không chỉ trên đặc điểm “nó đã là”, mà còn ở đặc điểm “nó đang/sẽ là” trong thế vận động đa chiều. Khi đó, nghiên cứu văn hóa không chỉ là nhìn sâu vào đặc trưng vốn có, mà còn phải nhìn kĩ ở những đường biên, những ranh giới mà tại đó, luôn có nguy cơ xâm lấn của các hoạt động văn hóa, các giá trị văn hóa. “Lĩnh vực văn hóa không có nội địa, bởi vì toàn bộ nó nằm trên đường biên, các đường biên ngang dọc chồng chéo giao cắt nhau, nằm ở khắp nơi, xuyên thấm vào từng yếu tố của văn hóa... Mỗi hành động văn hóa đều chỉ tỏ ra có sức sống đầy đủ ở trên đường biên, bởi vì ở đây hành động văn hóa mới tỏ ra tính nghiêm túc và tính quan trọng, xa rời vùng biên thì nó đánh mất vùng đất 7 sinh tồn của mình, sẽ biến thành sự kiêu kì, trống rỗng, bị thoái hóa và đi đến tiêu vong...” [199, tr.328]. IU.Loman cũng cho rằng, ngay cả khi ranh giới trong không gian văn hóa được hiểu theo nghĩa cơ bản của nó, thì “nó cũng chỉ giữ ý nghĩa của một cơ chế đệm chuyển đổi thông tin, một bộ phận phiên dịch độc đáo”. “Khi kí hiệu quyển được đồng nhất với một không gian “văn hóa” đã thuần phác, còn thế giới bên ngoài trong tương quan với nó lại được đồng nhất với vương quốc của những hiện tượng tự phát hỗn độn, rối loạn, thì sự phân bố không gian của các tổ chức kí hiệu học trong hàng loạt trường hợp sẽ có dạng như sau: các nhân vật nhờ có tài năng đặc biệt (như phù thủy) hoặc một loại nghề nghiệp (thợ rèn, phó cối, đao phủ) sẽ thuộc về hai thế giới và tựa như là những thông dịch viên, sống ở vùng lãnh thổ ngoại vi, vùng giáp ranh của không gian văn hóa và không gian huyền thoại, trong khi đó, tọa lạc ở trung tâm bao giờ cũng là chốn linh thiêng của các đấng thánh thần “văn hóa” tổ chức ra thế giới.” [147, tr.94]. Ở Việt Nam, trong nghiên cứu hiện đại, văn hóa cũng được nhìn nhận ở tính năng động như thế. Trần Nho Thìn đã chọn ba thành tố căn bản khi nghiên cứu về văn hóa, đó là biểu tượng, nghĩa và giá trị. Theo ông, biểu tượng là một tự sự về văn hóa. Nó rất linh hoạt và sinh động: “trong cách quan niệm hiện đại không đơn thuần dừng lại ở việc giải mã ý nghĩa của các biểu tượng mà là nghiên cứu đời sống của các biểu tượng này trong các quan hệ xã hội. Và khi đó, “văn hóa bắt đầu được giải thích không phải như là tổng số các mô hình hành vi (các phong tục, tập tục, truyền thống) mà như một tập hợp các cơ chế kiểm soát hành vi (các kế hoạch, hướng dẫn, quy tắc, chỉ đạo).” [218, tr.28]. Biểu tượng tham gia điều tiết các quan hệ xã hội, cho nên, nghiên cứu biểu tượng không phải là giải mã ý nghĩa ban đầu của nó, mà là “nỗ lực theo dõi đời sống của kí hiệu này trong môi trường của các quan hệ xã hội”; không phải là khám phá kho lưu giữ các nghĩa mà là lí giải “sức mạnh tham dự vào những thay đổi của trường xã hội”. Như vậy, có thể giới thuyết một cái nhìn về văn hóa năng động hơn trong bối cảnh sự tương tác văn hóa diễn ra với tốc độ nhanh và đa chiều. Đó là: văn hóa vừa là tổng thể các sinh hoạt xã hội và các hoạt động thuộc chiều sâu tinh thần được thể hiện thành những mô thức nhất định mang bản sắc của cộng đồng người, vừa là những tương tác ngoại vi tại các đường biên; văn hóa vừa có tính ổn định vừa có sự biến đổi qua các giai đoạn phát triển của khách thể và chủ thể. 1.1.2 Khái niệm xung đột văn hóa Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới đã định nghĩa xung đột như sau: “Xung đột (conflict): Hệ quả của những căng thẳng đối lập ở bên trong cũng như bên ngoài, có thể đạt tới độ nguy kịch, xung đột biểu trưng khả năng chuyển từ cực đối lập này sang cực đối lập khác, đảo lộn khuynh hướng về phía tốt hay xấu: độc lập – nô lệ, đau khổ - vui sướng, đau ốm – khỏe mạnh, chiến tranh – hòa bình, định kiến – sáng suốt, trả thù – tha thứ, phân liệt – hòa giải, ức chế - phấn chấn, tội lỗi – trong trắng, ... Xung đột là hình 8 ảnh của hiện thực, đồng thời của sự bất ổn định tinh thần do hoàn cảnh hoặc cá nhân gây nên, cũng như của sự giải cố kết cá nhân hoặc tập thể.” [37, tr.1027]. Với góc nhìn xã hội học, xung đột xã hội và xung đột văn hóa hầu như được hiểu giống nhau, đó là “tình huống hoặc quá trình xã hội, trong đó tồn tại mâu thuẫn về lợi ích của cá nhân với một nhóm xã hội, giữa các nhóm xã hội với xã hội nói chung, thể hiện bằng sự bất đồng, tranh chấp do khác nhau về nhận thức, thái độ, nhu cầu, giá trị, mối quan tâm về nguồn lực tài nguyên – xã hội, và đôi khi thể hiện bằng hình thức đụng độ vũ trang.” [72, tr.890]. Mĩ học nhìn nhận xung đột là một nhân tố tích cực thúc đẩy sự cải tiến sáng tạo. Đó là những tranh luận, mâu thuẫn về tiêu chuẩn giá trị, về cách nhìn cuộc sống và con người. Từ góc nhìn mĩ học, xung đột văn hóa biểu hiện dưới dạng xung đột cách nhìn, quan niệm, nhằm hướng tới những chuẩn mực thẩm mĩ mới phù hợp hơn và nhân văn hơn. Phương diện này cũng được nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn nhắc tới trong công trình Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, khi ông cho rằng, nghiên cứu xung đột văn hóa chủ yếu ở Xung đột trong cách nhìn thế giới/cách kiến tạo mô hình thế giới và Xung đột trong cách nhìn/cách kiến tạo mô hình con người. Khi đưa ra khái niệm xung đột văn hóa, các nhà nghiên cứu cũng thấy mối quan hệ giữa văn hóa và xã hội. Từ điển bách khoa văn hóa học có viết: “Xung đột văn hóa (conflits culturels) (cách phiên âm tiếng Latinh, theo sách chú thích) là những hình thức và phương tiện tác động lẫn nhau trong xã hội, trong đó có sự chống lại, không muốn và không biết cách hiểu được của một bên đối với những nhu cầu và khả năng của bên đối lập; tình trạng nổi nóng dẫn đến thù địch, thậm chí hận thù, gây khó khăn lớn cho mối quan hệ giữa hai bên. Xung đột phát sinh trong mọi lĩnh vực của văn hóa, mọi khu vực của sinh hoạt xã hội, không chừa một lĩnh vực hoặc khu vực nào.” [183, tr.636]. Trương Lập Văn đã khái quát thành 5 dạng thức xung đột mà nhân loại thế kỉ XX phải đối mặt khi tìm hiểu ý thức Đông Á trong chuyển đổi mô hình hiện đại, đó là: xung đột giữa con người với tự nhiên, xung đột giữa con người với xã hội, xung đột giữa con người với con người, xung đột tâm linh của con người, xung đột giữa các nền văn minh. Trong quá trình phân tích, diễn giải, nhà nghiên cứu kết hợp cấu trúc xã hội với nền tảng văn hóa mang tính bản sắc để hiểu về sự vận động của văn hóa Á Đông, nhất là Trung Quốc trong bối cảnh mới. Theo ông, sự song hành góc nhìn xung đột xã hội và xung đột văn hóa là cần thiết để lí giải các hiện tượng văn hóa, đi tới khẳng định sự cần thiết của triết học trong hóa giải xung đột. Bên cạnh đó, giá trị văn hóa được các nhà nghiên cứu đặc biệt nhấn mạnh. Theo Trương Lập Văn, “giá trị là khái niệm của quan hệ, là chỉ quan hệ đặc biệt (khẳng định và phủ định, xung đột và dung hợp) giữa nhu cầu của khách thể (tự nhiên, xã hội, người khác và tác dụng, biến hóa của hình thái ý thức của hình thức khách thể nào đó) và nhu cầu của chủ thể.” [254, tr.47]. Đoàn Văn Chúc khi nghiên cứu về xã 9 hội học văn hóa cũng nhìn nhận giá trị như một đặc điểm cơ bản và cốt lõi nhất, thể hiện sâu đậm nhất tính chất văn hóa của con người: “giá trị là cái khả ao ước trong đời sống của một cộng đồng xã hội, một nhóm hay một cá nhân. Nói cách khác, người ta nhìn thấy ở các giá trị những “quan niệm thầm kín hoặc bộc lộ về cái ao ước, riêng của một cá nhân hay của một nhóm, những quan niệm ấy chi phối sự lựa chọn trong các phương thức, các phương tiện và các mục đích khả thể của hành động.” [41, tr.147]. Gắn với khái niệm giá trị là khái niệm chuẩn mực (phép tắc hay quy phạm phải theo trong ứng xử), tiêu chuẩn (những dấu hiệu khả quan sát, khả đo lường, được lấy làm nguyên tắc để căn cứ vào đó mà phán xét, thẩm định giá trị của một sự vật). Đoàn Văn Chúc chia thành các loại hạng giá trị, bao gồm giá trị thuộc trật tự tự nhiên (những phẩm chất thuộc phần vật chất con người), giá trị thuộc trật tự kinh tế, giá trị thuộc trật tự tâm linh (là sản phẩm của một vũ trụ quan và một nhân sinh quan nào đó (tín ngưỡng, tôn giáo, học thuyết). Nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến khái niệm “giá trị thuộc trật tự đạo đức” và “giá trị thuộc trật tự thẩm mĩ”. Giá trị thuộc trật tự đạo đức là những chuẩn mực trong ứng xử giữa các vai trò trong xã hội. Giá trị thuộc trật tự thẩm mĩ là những rung cảm trước vẻ đẹp của tự nhiên và của nghệ thuật. Cũng theo nhà nghiên cứu, hệ thống văn hóa có tính cởi mở, “như hiện tượng đồng tồn so le ta từng được chứng kiến trong lịch sử mỗi khi có sự “cấy văn hóa”, hẳn cho thấy quan hệ giữa các yếu tố trong hệ thống là quan hệ tổ hợp, không phải quan hệ loại trừ, do vậy các yếu tố cổ truyền bản địa với hiện tại du nhập có thể đi bên nhau mà không bài xích nhau, không phải mãi mãi nhưng cũng có thể trong một thời đoạn không ngắn ngủi. Trong Hệ giá trị Việt Nam, từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai, Trần Ngọc Thêm cũng cho rằng: “Hệ giá trị là toàn bộ các giá trị của một khách thể trong một bối cảnh không gian – thời gian xác định cùng với mạng lưới các mối quan hệ của chúng.” [tr.51 . Giá trị văn hóa phân biệt với giá trị tự nhiên bởi tính nhân sinh cao và phân biệt với giá trị văn minh bởi có tính lịch sử. Giá trị văn hóa gồm hai bộ phận là các giá trị con người (trực tiếp thuộc về con người), và các giá trị gián tiếp có liên quan đến con người. Giá trị con người gồm có giá trị cá nhân (giá trị thể chất, giá trị tinh thần, giá trị hoạt động) và giá trị xã hội (gồm giá trị nhận thức, giá trị tổ chức, giá trị ứng xử). Hệ giá trị văn hóa chứa đựng trong mình hệ tính cách văn hóa và bản sắc văn hóa (tính cách văn hóa – tính cách dân tộc – mở rộng ra là tính cách tập thể, là hệ thống các đặc điểm tinh thần tương đối bền vững thuộc về con người của một cộng đồng người (chủ thể) trong điều kiện không gian và thời gian sinh tồn cụ thể của họ). Như vậy, điểm khả dụng nhất để hiểu sâu khái niệm xung đột văn hóa, phân tách xung đột văn hóa so với xung đột kinh tế, chính trị, xã hội chính là hệ giá trị của văn hóa. Có thể phân xuất một số bình diện của xung đột kinh tế, chính trị và xung đột văn hóa như sau: xung đột kinh tế, chính trị gồm: xung đột giữa các phe nhóm - giai cấp; xung đột nhóm – quốc gia; xung đột về thể chế, xung đột quyền lợi khai thác và 10 thụ hưởng tài nguyên, lãnh thổ,… Xung đột văn hóa gồm: xung đột thế giới quan, niềm tin; xung đột sắc tộc và tôn giáo; xung đột lối sống; xung đột tư tưởng bảo thủ cấp tiến; xung đột giá trị thật – giả; thiêng – tục; thiện – ác. Xung đột kinh tế, chính trị thường thể hiện sinh động trong các hoạt động vật chất cụ thể, gắn liền với lợi ích. Xung đột giá trị thường ẩn chìm hơn, gắn với vấn đề bản sắc, trình độ văn minh, tính quan niệm, phẩm cách và thể diện. Xung đột văn hóa không thể đồng nhất với xung đột xã hội nhưng chúng có những điểm giao thoa. Bởi vì, các giá trị được định hình, suy cho cùng chỉ nảy sinh được thông qua sự tương tác xã hội. Con người chỉ cấu tạo nên giá trị của nó trong các mối quan hệ, không thể nào tuyệt đối trong giới hạn của bản thân nó. Có điều, xung đột xã hội là loại hình xung đột có tính bao quát hơn - diễn ra ở nhiều phạm vi như cá nhân, gia đình, quốc gia, xuyên quốc gia và có tính đa dạng về cấp độ. Một số mô thức trong xung đột xã hội chỉ trở thành xung đột văn hóa khi nó được đẩy đến mức tranh luận về giá trị, quan niệm sống. Xung đột văn hóa là sự đụng độ của những cách kiến giải mang tính thẩm mĩ, là sự mâu thuẫn giữa các cách nhìn về vấn đề của văn hóa. Thậm chí, hẹp hơn và sâu hơn, đó là xung đột, mâu thuẫn bên trong con người với những giá trị sống mà chính con người đang loay hoay lựa chọn. Nhấn mạnh lại, xung đột văn hóa diễn ra khi có sự va chạm giữa những quan niệm về giá trị, và thường xảy ra ở phần giáp ranh, nơi diễn ra sự dịch chuyển không gian văn hóa một cách hiển lộ hoặc âm thầm. Chuyển dịch không gian này, hiểu ở quy mô lớn là sự mở rộng phạm vi dân tộc đến toàn cầu, phương Đông và phương Tây. Nhìn ở diện rộng, thế giới càng theo trật tự phẳng, tính dân chủ càng nới rộng thì sự song tồn và chất vấn giữa các quan điểm, các giá trị càng trở nên sinh động. S.Huntington nhìn thấy sự dịch chuyển thế cân bằng của các nền văn minh, trong đó đáng chú ý sức mạnh trỗi dậy của văn hóa bản địa làm phá vỡ cách nhìn phương Tây là trung tâm. Khi nền kinh tế Xô-viết trì trệ và không còn đủ sức duy trì sức mạnh quân sự, những giá trị và thể chế phương Tây đã cuốn hút người dân của các nền văn hóa khác. Phương Tây tạo ra lực hướng tâm mạnh mẽ với sự thể hiện sức mạnh vượt trội trong cuộc đua công nghệ hiện đại và tiềm lực quân sự, chính trị. Tuy nhiên, sức mạnh ấy chỉ duy trì trong khoảng những năm đầu thế kỉ XX và sau đó suy giảm dần. Phương Tây nhanh chóng phải đối đầu với tình hình thực tế nội bộ. Trong khi đó, nền văn minh Đông Á ngày càng mạnh lên, họ vừa chú trọng hiện đại hóa vừa bày tỏ sự tự tin vào nền văn hóa đậm bản sắc của dân tộc mình. Cán cân Đông – Tây thay đổi, xu hướng toàn cầu hóa đã xác định lại mối quan hệ trung tâm – ngoại vi. Điều này tạo ra động lực lớn để khẳng định văn hóa dân tộc như một sức mạnh trên con đường hội nhập. Sức mạnh ấy bắt nguồn từ những sinh hoạt văn hóa gần gũi nhất, mà ở Việt Nam, để rõ được nó, nhất thiết phải nhìn vào không gian văn hóa nông thôn mang đậm tính chất vùng văn hóa. Những xung đột văn hóa được phản ánh, không gì khác, đó là cách thể hiện sự kháng cự hoặc thích nghi, sự bảo tồn hoặc biến đổi các giá trị truyền thống. Mặt khác, 11 sự gia tăng tốc độ phát triển kinh tế, hệ thống internet phủ sóng toàn cầu và nhu cầu nhân công lao động đồng thời tạo nên tâm lí bất an và hoang mang đối với những người dân di cư. Họ cần “một dòng chảy mới về bản sắc, một hình thức cộng đồng mới ổn định, và những quy ước mới về đạo đức để giúp họ tìm được ý nghĩa và mục đích.” [103, tr.139]. Đó là lí do dẫn tới những cách viết “tầm căn”, “tìm nguồn” để kháng cự lại nhịp độ đô thị hóa mạnh mẽ. Cách con người nhận thức lại về cái tự nhiên trong sinh thái cũng là một trong những biểu hiện của nỗi bất an đô thị hóa. Quả thực, nếu xét diễn trình văn hóa mà không nhìn sâu vào những xung đột, mâu thuẫn, sẽ không thể nhận ra những chuyển động tất yếu để làm phong phú và giàu có hơn văn hóa quốc gia. Như M.Bakhtin đã chỉ ra, ở tại các đường biên, khi có sự va đập, xâm lấn giữa các giá trị, đời sống văn hóa mới thể hiện sống động nhất. Phần ngoại vi văn hóa tham gia tích cực vào việc điều chỉnh và thiết lập trung tâm văn hóa. Nhìn ở những mô thức xung đột văn hóa chính là thừa nhận sức mạnh tấn công của các yếu tố mới mẻ hoặc khác biệt. Văn hóa phải là những yếu tố ổn định, và cả những yếu tố bên lề có tác dụng điều chỉnh sự phát triển của văn hóa chính thống. Và, cũng như hầu hết các nhà nghiên cứu văn hóa, mà chung hơn cả là định nghĩa văn hóa của UNESSCO, S.Huntington cũng nhận ra khả năng ổn định, hòa bình của các nền văn minh khi đã trải qua những va đập, đụng độ. Xung đột không phải là trạng thái căn bản và vĩnh viễn, mà chủ yếu, nó diễn ra trong quá trình hiện đại hóa, biểu hiện cụ thể qua những giai đoạn phát triển thực tế. Hòa bình vẫn là trạng thái sau cùng mà thế giới và mỗi quốc gia hướng tới, hiểu theo nghĩa ổn định chính trị và sâu sắc hơn đó là sự phát triển bền vững theo hướng giao lưu hợp tác. Cũng vì vậy, Trương Lập Văn nhận định: “Thế kỉ XXI sẽ là thế kỉ dung hợp hài hòa xung đột, là thế kỉ đa nguyên, đa cực, đa trung tâm thẩm thấu và bổ trợ lẫn nhau của văn hóa thế giới. Sự hình thành và phát triển của kinh tế các vùng, các khu vực đã mở ra không gian và nền tảng cho sự sinh tồn, thẩm thấu, bổ trợ lẫn nhau, dung hợp hài hòa xung đột cho các trung tâm văn hóa và đa nguyên văn hóa.” [254, tr.19]. Từ những luận giải trên, có thể hiểu khái niệm xung đột văn hóa như sau: Xung đột văn hóa là một loại hình xung đột, được thể hiện thành các mô thức xung đột giá trị mà qua đó, cho thấy những động hình văn hóa và dự báo lược đồ giá trị trong điều kiện phát triển mới. Nhìn văn hóa ở những mô thức xung đột, sẽ thấy văn hóa giống như một quyền lực mềm dẻo chi phối sự phát triển của xã hội. Đó là thứ quyền lực không đo lường, định lượng được nhưng rất quyết liệt, dai dẳng và rốt ráo. Bản chất của xã hội và văn hóa, sự định hình chỉnh thể nền văn hóa, suy cho cùng phải từ những xung đột như thế. Đó là điều thú vị, nhưng cũng là khó khăn khi tiếp cận xung đột văn hóa. 1.2 Tiếp cận xung đột văn hóa trên thế giới Trên thế giới, vấn đề xung đột được các nhà xã hội học quan tâm từ rất sớm. Các nhà nghiên cứu này xem xung đột như là một thuyết (Theory of conflict). Khi ấy, xung 12 đột được xem xét từ khái niệm, nguyên nhân đến tiến trình, kết quả. Trong đó, người ta nhấn mạnh trạng thái mâu thuẫn, đụng độ giai cấp, thể chế nhà nước. Lí luận của chủ nghĩa Marx phát triển quan niệm xung đột xã hội thành đấu tranh giai cấp (giữa chủ sở hữu tư liệu sản xuất với những người ngoài; giữa những nhà tư bản với giai cấp vô sản). Marx cho rằng, việc tổ chức phương thức sản xuất không chỉ đơn giản là vấn đề điều phối các hiện vật, thay vào đó, một cách cố hữu, nó gắn với những mối quan hệ giữa con người. Những mối quan hệ này bên cạnh tính xã hội còn là vấn đề quyền lực và xung đột. Với chủ nghĩa Marx, lịch sử không phải là một quá trình tiến hóa êm ả, mà được đánh dấu bằng những gián đoạn và ngắt quãng quan trọng của phương thức sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất sẽ bị thay thế bởi một phương thức sản xuất khác khi những điều kiện bên trong, đặc biệt là những điều kiện của xung đột giai cấp, dẫn tới sự biến đổi và thay thế nó. Xung đột xã hội được nhìn như một quy luật phát triển, song hành cùng đồng thuận xã hội để tạo nên sự tiến bộ của mỗi quốc gia và toàn nhân loại. Đáng chú ý khi đề cập đến xã hội nông thôn là học thuyết tiến hóa của Tonnies [72, tr.739]. Theo ông, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của phân tích xã hội học là xác định được vai trò của môi trường trong quan hệ nhân quả của một nền văn hóa. Chính học thuyết tiến hóa của Tonnies về sự biến chuyển từ phương thức sống cộng đồng sang phương thức sống xã hội dưới ảnh hưởng của đô thị công nghiệp đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của xã hội nông thôn. Dạng kinh tế, dạng thống trị và hệ thống giá trị đặc thù đã tạo ra nét riêng biệt về văn hóa nông thôn. Nhắc đến những xung đột trong xã hội, người ta chú trọng nhiều đến sự thay đổi không gian nông thôn, sự biến chuyển văn hóa và sự hình thành nét mới trong tâm lí, tính cách. Có thể hình dung thuyết xung đột xã hội đề cập đến những hiện tượng bề nổi, có tính vật chất trên cơ sở tìm hiểu tương quan lực lượng xã hội. Như vậy, ban đầu, xung đột văn hóa được xem là một biểu hiện trong xung đột xã hội, là một chiều cạnh trong quá trình phát triển của lịch sử. Có nghĩa là, xung đột văn hóa như một hệ quả kéo theo của xung đột về phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất. Xung đột văn hóa thuộc lĩnh vực của cấu trúc thượng tầng, bị chi phối mạnh mẽ bởi cơ sở hạ tầng. Đến khoảng giữa thế kỉ XX, xung đột văn hóa lại trở thành vấn đề trung tâm. Samuel Hungtington khẳng định rằng: “Nguồn gốc cơ bản của các xung đột trên thế giới này sẽ không còn là hệ tư tưởng hay kinh tế nữa. Các ranh giới quan trọng nhất chia rẽ loài người và nguồn gốc bao trùm các xung đột sẽ là văn hóa. Nhà nước dân tộc vẫn là nhân vật chủ yếu trên sân khấu thế giới, nhưng các xung đột cơ bản nhất của chính trị toàn cầu sẽ diễn ra giữa các dân tộc và các nhóm người thuộc những nền văn minh khác nhau. Sự đụng độ giữa các nền văn minh sẽ trở thành nhân tố chi phối chính trị thế giới. Ranh giới giữa các nền văn minh sẽ là chiến tuyến tương lai.” [103]. S.Huntington nhấn mạnh thêm: “Văn minh là một thực thể văn hóa nào đấy. Làng xóm, khu vực, nhóm sắc tộc, dân tộc, cộng đồng tôn giáo, tất cả đều mang sắc thái văn 13 hóa đặc thù của mình, phản ánh những mức độ khác nhau của tính không đồng nhất về văn hóa... Chúng ta có thể xác định văn minh là một cộng đồng văn hóa cao nhất, là trình độ cao nhất của tính đồng nhất văn hóa của con người”. Ông đã dựa vào nhiều cơ sở để khẳng định tính tất yếu xảy ra sự đụng độ giữa các nền văn minh, đáng chú ý là: sự khác biệt giữa các nền văn minh, thế giới đang trở nên bé đi, những quá trình hiện đại hóa kinh tế và biến đổi xã hội trên toàn thế giới đang phá vỡ tính đồng nhất truyền thống của con người nơi địa bàn cư trú. Huntington nhận ra các đặc tính và khác biệt văn hóa ít thay đổi hơn so với các đặc tính và khác biệt về kinh tế và chính trị, và do vậy, việc giải quyết và đưa chúng tới thỏa hiệp cũng phức tạp hơn. Trong đụng độ giữa các nền văn minh, câu hỏi đặt ra theo cách khác, không phải là “Anh theo phe phái nào”, mà “Anh là ai?”. Học giả người Trung Quốc, ông Guo Jiemin cho rằng: “Cái gọi là đụng độ văn hóa, nói khái quát, là chỉ sự đối lập, gạt bỏ, phủ định lẫn nhau giữa các nền văn hóa khác nhau, thực chất là sự đụng độ giữa các đặc tính khác nhau của loài người”. Bởi vì khái niệm văn hóa rất rộng, không chỉ là vấn đề vật chất mà còn là vấn đề tinh thần, cho nên xung đột văn hóa cũng rất phong phú. “Chẳng hạn, từ giác độ địa lí, chúng ta có xung đột văn hóa phương Đông và phương Tây; từ giác độ lịch sử, có xung đột văn hóa truyền thống và hiện đại; từ giác độ quốc gia, có xung đột văn hóa ngoại lai và văn hóa bản địa; từ giác độ phát triển xã hội có xung đột văn hóa nông nghiệp và văn hóa công nghiệp.” [260]. Vậy, hệ thống trật tự với vai trò của thể chế, nhà nước đang nhường chỗ dần cho những cuộc đụng độ về văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa. Nhân loại đang phấn đấu bước qua giai đoạn đấu tranh bằng vũ khí, bằng súng ống mà chuyển sang đấu tranh về văn hóa. Thách thức đặt ra cho mỗi quốc gia là vấn đề bản sắc và hòa nhập, vấn đề ứng xử với môi trường tự nhiên, với quyền con người. Thomas Fridman nhìn thế giới ở mô hình “phẳng”, tức là sự phá vỡ trật tự trên dưới, mạnh yếu theo tinh thần bá quyền chính trị để xác lập những quan hệ mới dựa vào đặc điểm văn hóa quốc gia. Ông đã dùng những từ ngữ rất ngắn gọn để mô tả thế giới, đó là “nóng, phẳng, chật”. Đồng thuận với cách nhìn của Thomas Fridman, Alvin Toffler trong Làn sóng thứ ba đã bàn về nền văn minh hậu công nghiệp với sự tăng trưởng chóng mặt về kinh tế, sự di chuyển dân cư sang các vùng miền khác nhau tạo nên tính phức tạp văn hóa, đỏi hỏi cả người đến và nơi tiếp nhận phải có những chiến lược văn hóa phù hợp để kháng cự lại những hụt hẫng, đứt gãy khi dịch chuyển không gian văn hóa. Trong một cuốn sách khác có tên Cú sốc tương lai (Future Shock), Alvin Toffler nhận định rằng, chúng ta đang trong thời đại cắt đứt với quá khứ mà phạm vi của nó lan rộng vô cùng. Dòng thay đổi nhanh đến mức chúng ta phóng thích một lực lượng xã hội hoàn toàn mới, ảnh hưởng tới nhận thức của chúng ta về thời gian, tới “cách chúng ta cảm thấy thế giới của chúng ta, phân biệt với những người trong quá khứ đã cảm”. Sự gia tăng này nằm sau tính không vĩnh viễn – tính nhất thời – thâm nhập và nhuộm màu nhận thức 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan