1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối của Đảng, trong những năm qua, sản
xuất nông nghiệp nước ta liên tiếp thu được những thành tựu to lớn.
Thành tựu lớn nhất là trong một thời gian không dài, từ một nền
nông nghiệp tự cấp tự túc, lạc hậu vươn lên trở thành một nền nông
nghiệp hàng hóa, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia và có tỉ suất
hàng hóa ngày càng lớn, có vị thế đáng kể trong khu vực và thế giới.
Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu các sản phẩm
nông nghiệp lớn trên thế giới.
Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hiện nay, gạo là một trong
những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam. Gạo trở thành
một trong 5 mặt hàng nông sản xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ
USD. Đây là thành tựu đáng kể của hoạt động sản xuất và kinh
doanh gạo và lại càng đáng kể hơn khi cách đây 20 năm nước ta vẫn
còn phải nhập khẩu lương thực.
Tuy nhiên, sản xuất để đáp ứng “cái ăn” của hơn 80 triệu dân
Việt Nam, khác với sản xuất lúa hàng hóa tham gia thị trường thế
giới với tư cách là nước xuất khẩu. Nhiều vấn đề khúc mắc cần phải
giải quyết đối với sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam, đặc biệt
trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Theo số liệu mới công bố vào tháng 12/2008 của Bộ Thương
Mại, mặc dù số lượng gạo xuất khẩu của ta nhiều, đứng thứ hai trên
thế giới về mặt khối lượng nhưng lại chỉ xếp thứ tư thế giới xét về
2
mặt giá trị xuất khẩu. Điều này là do chất lượng gạo không đảm
bảo, từ khâu chọn giống lúa, bảo quản, vận chuyển và chế biến đều
thiếu và yếu. Hơn nữa, cơ chế quản lý điều hành xuất khẩu gạo
không hợp lý cùng với công tác dự báo thị trường kém nên thường
để lỡ cơ hội xuất khẩu khi giá gạo lên cao và lại bán ra ồ ạt khi giá
gạo xuống thấp. Đối với các loại gạo đã có thương hiệu, có chỉ dẫn
địa lý thì giá cả ổn định, có thể định giá cao mà người tiêu dùng
vẫn chấp nhận mua, trong khi đó gạo xuất khẩu của Việt Nam mặc
dù đã có mặt trên thị trường từ rất lâu xong hoàn toàn chưa có
thương hiệu nên giá gạo thường xuyên biến động, khó dự đoán, khó
có thể định một mức giá quá cao để bán. Vì thế giá gạo Việt Nam
thường thấp, chỉ gần bằng 85% giá gạo xuất khẩu thế giới, thấp nhất
trong 4 cường quốc xuất khẩu gạo còn lại (Thái Lan, Ấn Độ, Hoa
Kỳ, Pakistan). Hạn chế về tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm nên
Việt Nam cũng chưa thể thâm nhập vào các thị trường tiêu thụ gạo
cao cấp, đem lại giá trị xuất khẩu cao. Với những lợi thế của mình
Việt Nam hoàn toàn có thể cải thiện được chất lượng gạo để bán với
giá cao hơn.
Để có thể phát huy hết tiềm năng của một nền nông nghiệp lúa
nước, cần phải nhìn nhận lại thực trạng sản xuất lúa hàng hóa và
việc xuất khẩu gạo những năm vừa qua. Việc xem xét đánh giá đó
được đặt trong bối cảnh chung của thế giới nhất là khi Việt Nam đã
trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức Thương Mại
Thế Giới (WTO), có nghiên cứu, xem xét và so sánh với những
3
quốc gia có đặc điểm tương đồng với Việt Nam, từ đó tìm đến
những giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam
Đây cũng chính là mục đích nghiên cứu của em khi chọn đề
tài “Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chung :
Đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện thực trạng hoạt động
xuất khẩu gạo của nước ta trong giai đoạn gần 20 năm trở lại đây,
từ đó đề ra những định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa
hoạt động xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam trong thập niên tới.
- Mục tiêu cụ thể :
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động xuất
khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế.
Các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến sản xuất và
xuất khẩu gạo.
Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam
trong khoảng thời gian từ 1989 đến 2008 trên các khía cạnh cơ
chế điều hành quản lý xuất khẩu gạo; khối lượng và kim ngạch
xuất khẩu; giá gạo xuất khẩu; chất lượng gạo xuất khẩu; cơ
cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo
của Việt Nam
4
Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo
của Việt Nam trong thời gian tới để phù hợp với những yêu
cầu của hội nhập kinh tế thế giới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu gạo của Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới.
- Phạm vi nghiên cứu:
Không gian : xem xét hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam
Thời gian: Từ năm 1989 đến 2008.
4. Kết cấu của đề tài
Đề tài nghiên cứu ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh
mục tài liệu tham khảo, nội dung bao gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động xuất khẩu
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam và các vấn
đề đặt ra trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo
của Việt Nam
5. Phương pháp nghiên cứu
- Ngoài phương pháp chung là phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn còn sử dụng tổng
hợp các phương pháp phân tích – tổng hợp, thống kê- so sánh.
- Sử dụng các nguồn số liệu thứ cấp ( các số liệu đã qua xử lý,
được thu thập từ trước và được ghi nhận ) của Tổng Cục Thống Kê,
5
Bộ Thương Mại, Bộ Kế Hoạch Đầu Tư, Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ
(USDA), Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc (FAO)
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế trong quá trình toàn
cầu hóa kinh tế
Ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là đặc
trưng và xu hướng phát triển phổ biến của nền kinh tế thế giới, bất
luận đó là nền kinh tế có quy mô và trình độ phát triển ra sao và
thuộc chế độ chính trị - xã hội thế nào.
1.1.1.
Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế
Toàn cầu hóa kinh tế, xét về bản chất, là quá trình gia tăng mạnh
mẽ của những mối liên hệ, sự phụ thuộc lẫn nhau, tác động qua lại
của các quốc gia, khu vực ở lĩnh vực kinh tế trên thế giới.
Đây là một quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới
và các quan hệ kinh tế quốc tế vượt khỏi biên giới quốc gia, hướng
tới phạm vi toàn cầu, trong đó hàng hóa, vốn, tiền tệ, thông tin, lao
động... vận động thông thoáng; mối quan hệ kinh tế giữa các quốc
gia và khu vực được vận hành theo "luật chơi" chung được xác lập
qua hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên trong cộng đồng quốc
tế; sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng; các nền kinh
tế ngày càng có quan hệ mật thiết với nhau và tùy thuộc lẫn nhau;
tính xã hội hóa của sản xuất ngày càng tăng.
7
Như vậy, toàn cầu hóa là giai đoạn phát triển cao của quá trình
quốc tế hóa đời sống kinh tế. Nó đưa tới sự hình thành một thị
trường thế giới thống nhất và một hệ thống tín dụng toàn cầu, nơi
mà sự phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu, sự mở
rộng giao lưu kinh tế và khoa học - công nghệ giữa các quốc gia
trên phạm vi thế giới, đồng thời giải quyết các vấn đề kinh tế - xã
hội có tính toàn cầu, như vấn đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo
vệ môi trường sinh thái...
Tuy nhiên, toàn cầu hóa kinh tế là một quá trình khách quan phức
tạp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt
tiêu cực.
Những khía cạnh tích cực là: Thúc đẩy rất nhanh, rất mạnh sự
phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất, đưa tới sự tăng trưởng
kinh tế nói chung ngày càng cao; làm tăng thêm sự tùy thuộc, tác
động và thúc đẩy lẫn nhau của các nền kinh tế các nước; mỗi nước
phải tự điều chỉnh chính sách và các phương thức phát triển kinh tế,
hình thành các mối quan tâm chung trong quan hệ quốc tế; thúc đẩy
quá trình cạnh tranh đối với mỗi nước và với từng doanh nghiệp
trên thương trường, đòi hỏi phải cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao
động, tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh; mở ra những địa bàn và
thị trường mới, những đối tác mới cho tất cả các nước.
Những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế có thể nhìn
nhận theo những góc độ sau: Quá trình toàn cầu hóa kinh tế càng
được tăng cường thì chủ quyền quốc gia của mỗi nước càng bị hạn
8
chế và thu hẹp một cách tương đối; thúc đẩy các nguồn vốn đầu cơ
tăng nhanh, hình thành các "bong bóng xà phòng" - nguyên nhân
gây ra các cuộc khủng hoảng tài chính trên phạm vi rộng lớn;
khoảng cách giàu nghèo trên thế giới và trong mỗi quốc gia ngày
càng mở rộng hơn; môi trường toàn cầu hóa là điều kiện thuận lợi
cho các nước phương Tây tiến hành chiến tranh kinh tế, chiến tranh
tâm lý, "diễn biến hòa bình" hòng buộc các nước đang và chậm phát
triển theo sự áp đặt của họ; môi trường sinh thái suy giảm, gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của nhân loại.
Mặc dù toàn cầu hóa kinh tế là con dao hai lưỡi, vừa có mặt tích
cực vừa có mặt tiêu cực, nhưng nếu các nước đang phát triển chủ
động nắm bắt được cơ hội, tận dụng những thành quả khoa học - kỹ
thuật tiên tiến trên thế giới, biến đó thành sức mạnh của mình trong
quá trình phát triển kinh tế thì thách thức được vượt qua, tự nó sẽ
trở thành thời cơ.
1.1.2.
Hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
kinh tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình đi liền với toàn cầu
hóa kinh tế mà trọng tâm là mở cửa kinh tế, tham dự phân công,
hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong
nước với bên ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát
triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể được trong quan hệ
kinh tế quốc tế.
9
Như vậy có thể thấy, bản chất của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đó là :
- Có sự thống nhất giữa yếu tố chủ quan là sự chủ động tham
gia của các chính phủ, các quốc gia và yếu tố khách quan là xu
thế toàn cầu hóa kinh tế.
- Sự chủ động điều chỉnh đường lối, chính sách kinh tế đối
ngoại của các chính phủ theo hướng mở cửa, thúc đẩy quá trình
tự do hóa thương mại, dịch vụ và đầu tư, thực hiện sự luân
chuyển vốn, kỹ thuật, công nghệ, lao động giữa các nền kinh tế
nhằm nâng cao sức cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế của từng
nền kinh tế trong môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng,
thống nhất
- Sự hợp tác và cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế trên mọi lĩnh
vực dưới tác động của các quy luật xã hội và phản ánh lợi ích
của các giai cấp, dân tộc, đồng thời mang đậm những dấu ấn
văn hóa - xã hội đa dạng.
- Tính không đồng nhất, gián đoạn và diễn ra trong từng hoàn
cảnh lịch sử cụ thể.
Từ những lý luận trên đây, có thể thấy mặc dù quá trình toàn cầu
hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế luôn song hành với nhau
nhưng giữa chúng có sự khác nhau, đó là:
Do sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất, công nghệ
thông tin và vì lợi ích của chính mình mà các nước phát triển đã
phát động toàn cầu hóa kinh tế. Vì toàn cầu hóa là đòi hỏi khách
10
quan như vậy, các nước đang phát triển mặc dù gặp vô vàn khó
khăn cũng buộc mình phải tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, nếu
không sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi và bị phân biệt đối xử. Như vậy
toàn cầu hóa hoàn toàn là tất yếu khách quan. Trong khi đó, nhận
thức được bản chất của toàn cầu hoá, các quốc gia đã chủ động
tham gia vào quá trình này. Do vậy hội nhập kinh tế quốc tế mang
tính chủ quan trong nhận thức và hành động của từng quốc gia.
Nếu toàn cầu hóa có mặt thuận và mặt nghịch thì hội nhập lại
luôn mang theo mình cơ hội và thách thức. Đây chính là điều mà bất
cứ quốc gia nào muốn hội nhập kinh tế quốc tế thành công cũng
phải nhận thức và hành động đúng đắn.
1.2. Khái quát về hoạt động xuất khẩu
1.2.1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ
cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện
thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể dùng là ngoại tệ đối với một quốc
gia hay đối với cả hai quốc gia.
Thực tế cho thấy, đối với các quốc gia khác trên thế giới hoạt
động xuất nhập khẩu đóng vai trò không thể thiếu được do mục tiêu
phát triển đất nước. Nếu mỗi quốc gia chỉ đóng cửa phát triển, áp
dụng phương thức tự cung tự cấp thì không thể có cơ hội vươn lên
củng cố thế lực của mình và nâng cao đời sống nhân dân.
11
Cơ sở của hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động mua bán
trao đổi hàng hoá vượt ra ngoài biên giới một quốc gia. Khi việc
trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi thì các quốc gia đều quan
tâm đến việc mở rộng hoạt động này.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã
xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Hoạt động xuất khẩu
diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế từ xuất khẩu hàng
hoá tiêu dùng cho đến hành hoá tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị
cho đến công nghệ kĩ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm
mục tiêu là đem lại ngoại tệ cho các quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra rất rộng cả về không gian và thời
gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một hai ngày hoặc kéo dài hàng
năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ một quốc gia hay nhiều
quốc gia khác nhau.
1.2.2. Quan điểm về xuất khẩu trong các lý thuyết ngoại thương
Nền kinh tế mỗi nước đều có những nguồn lực nhất định ( đất
đai, khoáng sản, tiền vốn, kỹ thuật lao động…), tuy nhiên các nguồn
lực này không phải là bất tận thậm chí là khan hiếm. Để sản xuất ra
mặt hàng nào đó với số lượng bao nhiêu thì nền kinh tế phải có sự
lựa chọn để phân bổ các nguồn lực đó một cách hợp lý. Dưới góc độ
hiệu quả kinh tế, các nước sẽ lựa chọn những mặt hàng có lợi thế so
sánh để thông qua trao đổi thương mại tận dụng và phát huy các lợi
thế so sánh sẵn có và tiết kiệm được nguồn lực, nâng cao hiệu quả
sản xuất.
12
Từ thế kỷ 18, các nhà kinh tế học người Anh là Adam Smith và
David Ricardo đã lần lượt đưa ra “Lý thuyết lợi thế tuyệt đối”, “Lý
thuyết lợi thế so sánh” cho đến này vẫn được coi là những lý thuyết
nền tảng của thương mại quốc tế. Cùng với đó lý thuyết về Lợi thế
cạnh tranh được coi như vấn đề có tính chiến lược và sách lược của
từng quốc gia nhằm phát huy các yếu tố về lợi thế tuyệt đối và so
sánh trong quá trình sản xuất và trao đổi thương mại.
* Lý thuyết lợi thế tuyệt đối:
Thực chất của lợi thế tuyệt đối là việc so sánh chi phí sản xuất
tuyệt đối của cùng một loại sản phẩm ở các nước khác nhau. Nước
có chi phí sản xuất cao hơn sẽ nhập khẩu sản phẩm đó từ nước có
chi phí sản xuất thấp hơn, mọi nguồn lực sẽ được tập trung cho việc
sản xuất sản phẩm mà nước đó có chi phí sản xuất thấp hơn để xuất
khẩu. Theo Adam Smith thì chi phí sản xuất tuyệt đối thấp bắt
nguồn từ việc quốc gia đó có lợi thế về nguồn lực sẵn có như đất
đai, khí hậu, lao động.
Ở các nước đang phát triển với nguồn tài nguyên dồi dào thì lý
thuyết này hoàn toàn có ý nghĩa, nhưng tại các nước phát triển khi
mà nguồn tài nguyên đã bị khai thác hoặc không có tài nguyên thì
chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế ở đâu? thương mại quốc
tế diễn ra thế nào ? Vì thế cần phải xem xét lợi thế so sánh.
* Lý thuyết lợi thế so sánh (lợi thế tương đối):
Thương mại quốc tế đã ra đời từ rất lâu và đóng vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Mỗi quốc gia đều có nguồn
13
lực và khả năng sản xuất giới han, việc trao đổi buôn bán quốc tế sẽ
cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước.
Lý thuyết lợi thế so sánh được hình thành dựa vào việc xem xét
chi phí sản xuất so sánh để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm ở
các nước. Lợi thế so sánh được thực hiện trên nguyên tắc chuyên
môn hóa sản xuất sản phẩm có chi phí so sánh thấp hơn sau đó trao
đổi lấy sản phẩm có chi phí so sánh cao hơn nhằm thu lợi từ mức
giá tương đối rẻ hơn so với sản xuất trong nước.
Chẳng hạn :
- Nhật: Nếu tập trung toàn bộ nguồn lực để sản xuất: tivi thì có thể
sản xuất được 180 triệu tivi; nếu tập trung toàn bộ nguồn lực sản
xuất lúa thì được 120 tấn lúa.
- Việt Nam: Nếu tập trung toàn bộ nguồn lực để sản xuất: tivi thì có
thể sản xuất được 60 triệu tivi; nếu tấp trung toàn bộ nguồn lực sản
xuất lúa thì được 120 tấn lúa ( Bảng 1.1.)
Bảng 1.1. Số liệu khả năng sản xuất ti vi và lúa ở Nhật Bản và
Việt Nam
Nhật Bản
Tivi (triệu)
Lúa( triệu tấn)
180
0
150
20
120
40
90
60
60
20
80
Việt Nam
Ti vi (triệu)
Lúa (triệu tấn)
60
0
50
20
40
40
30
60
80
14
30
0
100
120
10
0
100
120
* Khi không có thương mại :
Giả sử nước Nhật chọn sự kết hợp sản xuất và tiêu dùng tại điểm A
(90 tivi và 60 lúa) trên đường giới hạn khả năng sản xuất của họ .
Việt Nam chọn sự kết hợp tại điểm E (40 tivi và 40 lúa).
15
Đồ thị 1.1. Đường giới hạn khả năng sản xuất của hai quốc gia
Nhật bản và Việt Nam khi không có thương mại
Lúa
12
0
Lúa
12
0
Nhật Bản
Việt Nam
A
60
40
0
90
18 Ti vi 0
0
E
40 6
0
Ti vi
Nhật Bản muốn sản xuất 1 tivi phải hi sinh 2/3 lúa và Việt Nam
phải hi sinh 1 lúa. Như vậy chi phí sản xuất tivi tương đối của Nhật
là 2/3 và của Việt Nam là 1. Như vậy chi phí sản xuất tivi tương đối
của Nhật thấp hơn của Việt Nam và ngược lại đối với việc sản xuất
ra lúa. Vì thế Nhât sẽ có lợi thế so sánh về sản xuất ti vi, Việt Nam
có lợi thế so sánh về sản xuất gạo. Do vậy, Nhật sẽ tập trung sản
xuất ra tivi còn Việt Nam sẽ tập trung sản xuất lúa sau đó hai nước
sẽ tiến hành trao đổi với nhau.
* Khi có thương mại:
Nhật chuyên môn hóa vào sản xuất tivi (sản phẩm mà Nhật có lợi
thế so sánh ) và sản xuất tại điểm B(180 tivi và 0 lúa) trên đường
giới hạn khả năng sản xuất.
Tương tự vậy, Việt Nam sẽ chuyên môn hóa sản xuất lúa và sản
xuất tại điểm B’(0 tivi và 120 lúa). Giả sử căn cứ vào nhu cầu tiêu
16
dùng trong nước, nước Nhật sẽ trao đổi 70 tivi lấy 70 lúa với Việt
Nam.
Tiêu dùng của Nhật sẽ chuyển tới điểm A’(110 tivi và 70 lúa), của
Việt Nam chuyển tới điểm E’(70 tivi và 50 lúa).
So sánh điểm A’ với điểm A và điểm E’với điểm E, ta thấy rõ ràng
tiêu dùng của 2 nước đã tăng lên, biểu hiện của lợi ích do thương
mại mang lại. Nguyên nhân sâu xa là mỗi nước đã chuyên môn hóa
sản xuất sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh và trao đổi với cá nước
khác.
Đồ thị 1.2. Đường giới hạn khả năng sản xuất của hai quốc
gia Nhật Bản và Việt Nam khi có thương mai
Lúa
12
0
Lúa
12
0
Nhật Bản
A
B’
Việt Nam
A’
E
E’
40
60
B
0
90
18 Ti vi 0
0
40 6
0
Ti vi
Như vậy, thương mại dựa trên cơ sở chuyên môn hóa sản xuất
sản phẩm có lợi thế tương đối làm cho mọi nước đều có lợi khi tham
gia vào quá trình phân công lao động quốc tế bất kể nước đó có lợi
thế tuyệt đối hơn hẳn các nước khác, hoặc kém lợi thế tuyệt đối so
với các nước khác trong sản xuất mọi sản phẩm vì mỗi nước có một
17
lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh
nhất định về các mặt hàng khác.
Lý thuyết đã được xây dựng trên một loạt các giả thiết được đơn
giản hóa như chỉ có hai quốc gia hai loại sản phẩm, thương mại tự
do, không có chi phí vận chuyển, chi phí sản xuất là cố định, lao
động được di chuyển hoàn toàn trong phạm vi một quốc gia nhưng
không có khả năng di chuyển giữa các quốc gia và dựa trên lý
thuyết tính giá trị bằng lao động.Do vậy, mặc dù quy luật của lợi thế
so sánh là nguyên lý cơ bản quan trọng của kinh tế học nhưng vẫn
hạn chế vì nó chủ yếu dựa vào lý luận giá trị lao động, cho rằng lao
động là yếu tố đầu vào duy nhất. Trong thực tế lao động không phải
là đồng nhất, những ngành khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác
nhau, hơn nữa đầu vào của sản xuất còn bao gồm đất đai, vốn, khoa
học công nghệ.
* Lợi thế cạnh tranh:
Ngày nay xu thế hội nhập và tự do hóa thương mại diễn ra mạnh
mẽ, nó tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế nhưng nó cũng đặt ra
thách thức rất lớn về sự cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Về nguyên
lý, lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh được xét và đánh giá bởi các
yếu tố tự nhiên, kinh tế và nó thuần túy ở dạng tiềm năng. Các tiềm
năng này sẽ không tạo thành sức mạnh đột phá nếu không có một kế
hoạch khai thác hiệu quả, điều này cũng giống như một nước với
tiềm năng tự nhiên rừng vàng biển bạc nhưng vẫn nghèo đói nếu
không có một giải pháp hữu hiệu để khai thác các tiềm năng đó.
18
Muốn khai thác các tiềm năng, chúng cần được đặt trong mối quan
hệ với các vấn đề chính trị và các chính sách kinh tế. Chỉ trên cơ sở
khai thác hiệu quả các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội gắn với cục
diện chính trị và các định hướng chiến lược mới tạo ra sức mạnh
tổng hợp trong sản xuất và xuất khẩu. Điều này đặc biệt quan trọng
trước sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, lợi thế so
sánh không thể tồn tại cố định mà sẽ có sự chuyển hóa thay đổi qua
các giai đoạn. Do vậy việc xác định lợi thế cạnh tranh sẽ làm cho
mỗi quốc gia có thể chủ động khai thác lợi thế và tiềm lực của nền
kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu.
Như vậy lợi thế cạnh tranh là sự biểu hiện tính trội của mặt hàng
đó về chất lượng và cơ chế vận hành của nó trên thị trường tạo nên
sức hấp dẫn cho sản phẩm và thuận tiện cho khách hàng. Ngoài ra
lợi thế cạnh tranh còn được thể hiện trên các mặt: giá sản phẩm,
khối lượng sản phẩm, thời gian giao hàng, tính chất về sự khác biệt
của sản phẩm hàng hóa. Lợi thế cạnh tranh còn bao gồm chi phí cơ
hội và năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, đạt tiêu
chuẩn quốc tế và thị hiếu tiêu dùng trên các thị trường cụ thể, nguồn
cung cấp ổn định, môi trường thương mại thông thoáng, thuận lợi.
Do vậy lợi thế cạnh tranh của một đất nước là những nội dung mang
tính giải pháp về chiến lược và sách lược của một đất nước trong
qua trình sản xuất trao đổi và thương mại, nó giúp phát huy những
lợi thế sẵn có của chính mình để tạo thành ưu thế hàng hóa trong
cạnh tranh nói chung và trong hoạt động ngoại thương nói riêng.
19
1.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu gạo đối với nền kinh tế
quốc dân
* Xuất khẩu gạo mang lại ngoại tệ cho quốc gia, có ngoại tệ để
nhập khẩu nhằm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá đất nước.
Hiện nay gạo chiếm giá trị kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của đất nước. Trong khi đó cán cân thanh toán ngoại tệ
của Việt Nam luôn bị thâm hụt, do đó cần có một khoản ngoại tệ bổ
sung sự thâm hụt đó.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con
đường tất yếu khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển
của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong thời gian ngắn đòi
hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kĩ thuật
công nghệ tiên tiến .
Nguồn vốn để nhập khẩu hình thành từ nhiều nguồn: đầu tư nước
ngoài, đi vay, viện trợ và xuất khẩu. Các nguồn đầu tư nước ngoài,
đi vay, viện trợ tuy quan trọng nhưng cũng phải trả dù cách nay hay
cách khác. Nguồn quan trọng nhất chỉ có thể trông chờ vào là xuất
khẩu mà trong đó xuất khẩu gạo chiếm vị trí quan trọng.
* Xuất khẩu gạo đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
Quan điểm coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức
sản xuất và xuất khẩu đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển:
20
- Xuất khẩu gạo sẽ tạo điều kiện cho các ngành khác cùng cơ hội
phát triển.
- Xuất khẩu gạo tạo điều kiện, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
góp phần ổn định sản xuất.
- Tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất
gạo mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia.
Thông qua xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ có điều kiện tham gia vào
cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới cả về giá cả và chất lượng.
Cuộc cạnh tranh này có tác dụng ngược trở lại buộc các doanh
nghiệp Việt Nam phải tổ chức, xem xét lại khâu sản xuất, hình
thành một cơ cấu sản xuất thích hợp, các doanh nghiệp cũng cần
phải nhìn lại chất lượng sản phẩm của mình để thích nghi với những
biến động của thị trường thế giới.
* Xuất khẩu gạo có tác dụng tác động tích cực đến việc giải
quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân
- Tác động của xuất khẩu gạo đến đời sống nông dân được thể
hiện trên nhiều phương diện. Một mặt sản xuất gạo là nơi thu hút
nhiều lao động và việc làm có thu nhập khá ổn định. Mặt khác xuất
khẩu gạo tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu sản phẩm tiêu dùng đáp ứng
nhu cầu ngày càng đa dạng phong phú của nhân dân.
- Giải pháp xuất khẩu là sự đòi hỏi nhất thiết của thực trạng kinh
tế. Khi thực hiện xuất khẩu một lượng mặt hàng gạo dư thừa trong
thị trường nội địa sẽ được giải quyết lập lại cung cầu ở giá cao hơn.
Nông dân không những bán được hàng mà còn được giá. Từ những
- Xem thêm -