Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xử lý nợ xấu theo pháp luật việt nam từ thực tiễn ngân hàng tmcp quốc tế việt na...

Tài liệu Xử lý nợ xấu theo pháp luật việt nam từ thực tiễn ngân hàng tmcp quốc tế việt nam (vib)

.DOC
81
55
115

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ VIỆT ANH XỬ LÝ NỢ XẤU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM (VIB) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI – 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ VIỆT ANH XỬ LÝ NỢ XẤU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM (VIB Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PSG.TS LÊ THỊ THU THỦY HÀ NỘI – 2020 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, trong thời gian qua tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, các đồng nghiệp và gia đình, bè bạn. Đặc biệt, tôi xin được chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến PGS.TS Lê Thị Thu Thủy - người đã hướng dẫn, định hướng cách thức nghiên cứu và giải quyết những vấn đề cơ bản của luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo, chuyên viên, cán bộ tại Hội sở của Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam đã dành thời gian góp ý về hoạt động xử lý nợ xấu, cũng như đã tạo điều kiện, đồng thời cung cấp những tài liệu nghiên cứu, dữ liệu về thực tiễn xử lý nợ xấu tại quý Ngân hàng để tôi hoàn thiện luận văn này. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bè bạn đã động viên, giúp đỡ. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian có hạn, cũng như kinh nghiệm của bản thân về vấn đề nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên luận văn không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Rất mong quý thầy, cô và đồng nghiệp đóng góp ý kiến để luận văn được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Học Viên Vũ Việt Anh MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.......6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên nhân nợ xấu của ngân hàng thương mại..................................................................................................................................................6 1.2. Khái niệm, đặc điểm về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại ............................................................................................................11 1.3. Các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại...................12 1.4. Khái niệm, nội dung của pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại..............................................................................................................................17 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUỐC TẾ VIỆT NAM . 19 2.1. Các quy định pháp luật Việt Nam về xử lý nợ xấu của NHTM .. 19 2.2. Thực tế thực thi pháp luật về xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam..................................................................................42 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG, CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG QUỐC TẾ VIỆT NAM.....................................................................54 3.1. Định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại..............................................................................................54 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại tại Việt Nam...............................................................................................56 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam................................................................................69 KẾT LUẬN...................................................................................................................................73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................74 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT AMC Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản DATC Debt and Assets Trading Company - Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp - Bộ tài chính DNNN Doanh nghiệp nhà nước HĐKD Hoạt động kinh doanh NHTM Ngân hàng thương mại cổ phần NHNN Ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước TCTD Tổ chức tín dụng TSBĐ Tài sản bảo đảm VIB Vietnam International Bank – Ngân hàng THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Quốc tế Việt Nam MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã và đang có những bước phát triển vượt bậc không những phát triển kinh tế nội địa mà chúng ta đã thực sự quan tâm đến giao lưu, phát triển kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đánh giá nền kinh tế nước ta trong 15 năm trở lại đây để có thể thấy được sự phát triển này.Về cơ chế xử lý nợ xấu, hiện Việt Nam chưa có thị trường mua bán nợ phát triển, đến nay những đơn vị được tham gia mua nợ chủ yếu là DATC, VAMC và các AMC của TCTD. Ngoài ra, chưa có đơn vị nào được cấp đăng ký kinh doanh mua bán nợ theo quy định tại Luật Đầu tư 2014 và Luật số 69/2014/QH13 của Quốc hội về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, dẫn đến VAMC mua nợ xấu từ các TCTD nhưng không thể bán nợ cho các đơn vị khác ngoài DATC và AMC của các TCTD. Cũng do những quy định tại Luật Đầu tư 2014, Luật 69/2014/QH13, nhà đầu tư nước ngoài chưa thể tham gia hoạt động xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Ngày 21/6/2017, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Nghị quyết này có hiệu lực trong 05 năm từ ngày 15/8/2017. Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép áp dụng nhiều chính sách mới (so với pháp luật hiện hành) về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, góp phần tạo lập cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho việc xử lý nợ xấu. Nghị quyết này được ban hành hứa hẹn mang lại những bước chuyển mới trong xử lý nợ xấu tại Việt Nam hiện nay.Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Xử lý nợ xấu theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB)” làm đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình. Việc triển khai nghiên cứu đề tài để làm sáng tỏ hơn nữa một số vấn đề về lý luận và thực tiễn việc xử lý nợ xấu, cụ thể là ở ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hơn trong thực tiễn áp dụng các quy định này về xử lý nợ xấu ở Việt Nam hiện nay. 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua tổng quan các công trình nghiên cứu về pháp luật xử lý nợ xấu như: “So sánh pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ về xử lý nợ quá hạn tại các Ngân hàng TCMP” của học viên Đỗ Thị Xuân Phương – Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội; “Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Quảng Bình” của học viên Nguyễn Tiến Đức – Học viện hành chính quốc gia; “Giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Gia Lai” của học viên Nguyễn Thị Thu Hiền – Đại học Đà Nẵng; “Quản lý nợ xấu tại ngân hàng Agribank chi nhánh Phù Yên – tỉnh Sơn La’’ của học viên Nguyễn Tuấn Anh – Học viện Hàn lâm KHXH; … có thể thấy các công trình nghiên cứu đã đề cập những vấn đề sau: Thứ nhất, các công trình đã đưa ra được khái niệm pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng qua thực tiễn tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Ở góc độ nhất định cũng đã nêu và phân tích được các đặc điểm về xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Thứ hai, các công trình đã phần nào phân tích làm rõ được các quy định pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng, qua thực tiễn tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam Thứ ba, các công trình nghiên cứu ở mức độ nhất định cũng phân tích về pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng, qua thực tiễn tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, qua đó chỉ ra thực trạng và đề xuất giải pháp để giải quyết nợ xấu tại Việt Nam hiện nay. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu đề tài luận văn, tác giả sẽ có sự tiếp thu, kế thừa những thành quả, các giá trị mà các nghiên cứu đã chỉ ra làm nền móng cho việc tiếp tục nghiên cứu đề tài của mình của về lý luận cũng như thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1.Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về xử lý nợ xấu và đánh giá thực trạng 2 pháp luật về xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu của Ngân hàng Thương mại và nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, nghiên cứu một số vấn đề lý luận về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại cổ phần, như làm rõ khái niệm, đặc điểm, các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại, nội dung của pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại. Thứ hai, nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành và thực tiễn thực thi pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng, qua thực tiễn tại VIB theo pháp luật Việt Nam, từ đó làm rõ những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng, qua thực tiễn tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Thứ ba, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại và biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý nợ xấu tại VIB. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật Việt Nam về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại và thực tiễn thực thi các quy định này tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại, qua thực tiễn lại ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam. Đặc biệt, luận văn tập trung vào các biện pháp xử lý nợ xấu như mua bán nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm, cơ cấu các khoản nợ xấu. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên 3 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được trình bày dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật và những quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ đổi mới. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau bao gồm: - Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các chương của luận văn để phân tích các khái niệm, phân tích quy định của pháp luật, các số liệu,... - Phương pháp so sánh: Được sử dụng trong luận văn để so sánh một số quy định của pháp luật trong các văn bản khác nhau, tập trung chủ yếu ở chương 2 của luận văn. - Phương pháp diễn giải quy nạp: Được sử dụng trong luận văn để diễn giải các số liệu, các nội dung trích dẫn liên quan và được sử dụng tất cả các chương của luận văn. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp thống kê,... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn đã nghiên cứu, đánh giá pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại tại Việt Nam và cụ thể là ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam. Qua đó, luận văn đề xuất một số định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu gắn với thực tiễn tại ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam nói riêng. Các giải pháp được đưa ra tập trung vào nhóm vấn đề: chủ thể xử lý nợ xấu, định giá các khoản nợ xấu, mua bán nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ xấu. Thông qua các định hướng, giải pháp này, đề tài mong muốn phần nào đóng góp vào 4 việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động xử lý nợ xấu ở nước ta hiện nay và thực tế tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam. 7. Kết cấu luận văn Ngoài mục lục, danh mục các từ viết tắt, lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về xử lý nợ xấu và pháp luật về xử lý nợ xấu của NHTM. Chương 2: Các quy định pháp luật Việt Nam về xử lý nợ xấu của NHTM và thực tiễn thực thi tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam Chương 3: Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam và nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên nhân nợ xấu của ngân hàng thương mại “Nợ xấu” thường được nhắc đến với các thuật ngữ “ bad debt”, “ nonperforming loan” (NPL), “doubtful del debt”.Theo khái niệm của Ngân hàng Thế giới (World Bank) thì “nợ xấu” là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. [20] Theo Uỷ ban Basel về giám sát Ngân hàng (BCBS), trong các hướng dẫn về quản lý rủi ro tín dụng, BCBS xác định, việc khoản nợ bị coi là không có khả năng hoàn trả khi một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau xảy ra: ngân hàng thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi, người vay đã quá hạn 90 ngày. [1] Dựa trên hướng dẫn này, nợ xấu sẽ bao gồm toàn bộ các khoản cho vay mà người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ trong tương lai hoặc các khoản cho vay đã quá hạn 90 ngày và có dấu hiệu người đi vay không trả được nợ [7]. Theo pháp luật Việt Nam (Khoản 3 Điều 3 Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủ ro và việc sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ban hành kèm theo Thông tư 09/2014/TT-NHNN của NHNN Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của thống đốc ngân hàng nhà nước quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài), nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm nợ 3,4,5. Cụ thể, đây là các khoản nợ dưới tiêu 6 chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn. Vậy theo quy định nêu trên của pháp luật Việt Nam cũng khẳng định nợ xấu là các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên hoặc các khoản nợ đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ mà khách hàng vẫn bị nghi ngờ về khả năng trả nợ. Nguyên nhân của nợ xấu tại ngân hàng thương mại Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, do môi trường kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tình hình kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp suy giảm. Kể từ cuối năm 2008, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sau đó là vấn đề lạm phát cao. Những tác động tiêu cực này khiến cho Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng cầu chậm lại, trong 6 tháng đầu năm 2012, tăng trưởng kinh tế ước chỉ đạt 4,38% so với cùng kỳ năm 2011. Các chỉ số tiêu dùng (Gồm cả chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp và chỉ số tiêu dùng cá nhân) tăng chậm so với cùng kỳ các năm trước. Trong khi đó, tại các doanh nghiệp chỉ số tồn kho tăng mạnh và ở mức cao so với cùng kỳ các năm trước, tại thời điểm 01/6/2012, chỉ số hàng tồn kho của ngành công nghiệp chế biến tăng 26% so với cùng kỳ năm 2011. Hàng tồn kho nhiều dẫn đến đọng vốn trong sản xuất kinh doanh và làm tăng nợ xấu của các TCTD. Bên cạnh đó, rất nhiều doanh nghiệp hiện nay có năng lực tài chính yếu, chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng, vốn chủ sở hữu nhỏ và khả năng ứng phó với sự thay đổi môi trường kinh doanh hạn chế. Vì vậy, khi môi trường kinh doanh xấu đi, chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt, lãi suất tăng, đồng thời tiêu thụ hàng hoá khó khăn đã ảnh hưởng lớn đến điều kiện tài chính, kết quả kinh doanh và khả năng trả nợ vay ngân hàng của doanh nghiệp. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động tăng nhanh: Năm 2011 có 79.014 doanh nghiệp và tính từ đầu năm đến ngày 21/6/2012 có khoảng 25.250 doanh nghiệp, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2011 (23.358 doanh nghiệp bị phá sản trong 6 tháng đầu năm 2011). 7 Thứ hai, nguyên nhân dẫn đến nợ xấu ngân hàng là do năng lực quản trị rủi ro tại mỗi ngân hàng còn kém. Hiện nay, việc xếp hạng tín dụng nội bộ khách hàng của TCTD mang tính chất chủ quan. Các ngân hàng chưa xây dựng được thước đo lượng hóa rủi ro nên chưa tính toán chính xác được yếu tố này dẫn đến quyết định cho vay, phân loại nợ chưa chính xác. Bên cạnh đó, về phía các doanh nghiệp – đối tượng giải ngân vốn quan trọng của các TCTD, theo nghiên cứu hiện có đến 90% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, không ít doanh nghiệp có báo cáo tài chính không chính xác, trong khi phần lớn các báo cáo tài chính này lại không được kiểm toán. Ngay cả đối với những doanh nghiệp lớn được kiểm toán thì sự chậm chễ trong việc công bố báo cáo cũng như chất lượng kiểm toán cũng gây không ít khó khăn cho ngân hàng. Thứ ba, do đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ ngân hàng và khách hàng kém dẫn đến tình trạng thông đồng rút ruột ngân hàng. Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc thù, cần dựa trên sự tin cậy và mức độ tín nhiệm thì đạo đức phải được đặt lên hàng đầu và ở khía cạnh nào đó còn mang tính bắt buộc. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ ngân hàng đã thông đồng rút ruột với khách hàng, cho vay khống dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Chính vì vậy đã có chi nhánh phải xử lý hàng chục nhân viên do cấu kết với nhau rút ruột ngân hàng. Ngoài ra, nợ xấu còn nằm ở dạng “chuyển vốn cho vay thành vốn góp.” Khoản nợ này không chỉ “rất xấu” mà còn nguy hiểm ở chỗ đôi khi chỉ tồn tại trên sổ sách của con nợ và chủ nợ. Thứ tư, do tình trạng sở hữu chéo Một nghiên cứu của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright công bố về sở hữu chéo giữa Ngân hàng với doanh nghiệp (DN) tại Việt Nam cho thấy hệ thống Ngân hàng đã hình thành một mạng lưới sở hữu chéo và cho vay theo quan 8 hệ rất phức tạp, nhằm mục đích thâu tóm ngân hàng, thu xếp vốn cho những dự án đầu tư chưa minh bạch. Theo đó, rất nhiều công ty lớn, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế Nhà nước và các tập đoàn cổ phần, dù không thuộc lĩnh vực tài chính nhưng hiện đang đầu tư dài hạn với vai trò nhà sáng lập, nhà đầu tư chiến lược trong các Ngân hàng thương mại. Chưa kể, các Ngân hàng cũng sở hữu cổ phần lẫn nhau, cổ đông tại các Ngân hàng thương mại là các công ty quản lý quỹ đầu tư vốn vào những Ngân hàng khác có tiềm năng. Hiện không ít tập đoàn, tổng công ty Nhà nước và tư nhân cũng đang đầu tư, sở hữu chéo khi họ có trong tay khá nhiều Ngân hàng. Theo Ủy ban Kinh tế Quốc hội, đến nay, gần 40 Doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân sở hữu trên 5% tại các Ngân hàng Thương mại cổ phần và các doanh nghiệp này lại sở hữu các công ty đầu tư tài chính. Tình trạng sở hữu chéo này có thể dẫn tới rất nhiều hệ lụy, một trong số đó là làm tăng tỷ lệ xấu của các ngân hàng. Bởi lẽ, việc sở hữu chéo sẽ dẫn đến tình trạng các Ngân hàng sẽ tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp sở hữu ngân hàng này có thể dễ dàng vay được vốn từ ngân hàng kia, hoặc dễ dàng cho các công ty con của các doanh nghiệp có vốn sở hữu tại ngân hàng vay vốn, thậm chí khi một tổ chức tín dụng lớn chiếm cổ phần chi phối ngân hàng khác và biến ngân hàng này thành “sân sau” của mình, họ có thể buộc ngân hàng bị chi phối cấp tín dụng cho những dự án không an toàn hoặc cho doanh nghiệp có quan hệ thân thiết. Việc cho vay dễ dàng, thiếu kiểm soát cộng với việc thẩm định vốn vay thiếu cẩn trọng tất yếu sẽ dẫn đến nợ xấu. Do đó, tình trạng sở hữu chéo được xem là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ xấu tăng cao trong thời gian gần đây. Thứ năm, nguyên nhân dẫn đến nợ xấu là quy định pháp luật nhằm hạn chế, giải quyết tình trạng nợ xấu đã có nhưng chưa minh bạch, chưa hợp lý Có thể thấy rằng, pháp luật hiện hành đã có những khung pháp lý cơ bản trong việc hạn chế cũng như giải quyết nợ xấu của các TCTD như: quy định về phân loại nợ; quy định về trích lập dự phòng rủi ro; quy định về xử lý tài sản đảm bảo nợ; quy định về quyền khởi kiện yêu cầu các tổ chức cá nhân hoàn trả 9 vốn vay; quy định về hoạt động mua bán nợ…Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy, các quy định khi đi vào thực tế trở nên không phù hợp, không phát huy được hiệu quả trong việc giải quyết nợ xấu, dẫn đến tình trạng nợ xấu không được cải thiện mà còn có xu hướng tăng lên. Nguyên nhân từ phía khách hàng, doanh nghiệp Trong quá trình kinh doanh, nhiều doanh nghiệp đã phán đoán không chính xác xu hướng phát triển của thị trường, dẫn đến mở rộng quy mô sản xuất trong các ngành đang phát triển quá nóng mà không có sự đánh giá kỹ lưỡng. Hậu quả là sự mất cân bằng trong cung và cầu. Một số doanh nghiệp khi thực hiện các dự án lớn lại chia nhỏ dự án để tìm tài trợ từ nhiều ngân hàng khác nhau, qua đó giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc vay vốn từ các ngân hàng cũng như giảm bớt sự kiểm soát của ngân hàng. Chính những yếu tố này làm cho ngân hàng gặp khó khăn trong việc kiểm soát các khoản cho vay, dẫn đến tình trạng nợ xấu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Nguyên nhân từ cơ chế xử lý nợ của ngân hàng thương mại Nợ xấu của ngân hàng thương mại đã tồn tại từ lâu nhưng quá trình xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại lại thiếu hiệu quả, nguyên nhân là do cơ chế xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại chưa thực sự hợp lý, còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế. Hệ quả của nợ xấu của ngân hàng thương mại Một là, nợ xấu của ngân hàng thương mại gia tăng tạo ra gánh nặng ngân sách trong vấn đề xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Hai là, khi nợ xấu của ngân hàng thương mại gia tăng gây đình trệ nền kinh tế. Ba là, nợ xấu của ngân hàng thương mại đe doạ an toàn hoạt động của cả hệ thống ngân hàng. 10 1.2. Khái niệm, đặc điểm về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại Xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại là quá trình được thực hiện bởi các chủ thể và áp dụng các biện pháp khác nhau để thông qua đó, ngân hàng thương mại có thể thu hồi các khoản nợ mà ngân hàng thương mại đã cho khách hàng vay. Đặc điểm xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại: Thứ nhất, về chủ thể xử lý nợ xấu: Có thể chính là ngân hàng thương mại, hoặc ngân hàng thương mại bán cho AMC là công ty quản lý và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại, hoặc ngân ngân hàng thương mại bán cho VAMC, DATC, hoặc các công ty mua bán nợ khác được thành lập hợp pháp. Thứ hai, đối tượng trong hoạt động xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại chính là các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại mà các khách hàng nợ không có khả năng thanh toán trong tương lai. Thứ ba, các biện pháp xử lý nợ xấu: các biện pháp xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại rất đa dạng, có thể là mua bán nợ, cơ cấu lại khoản nợ xấu, khởi kiện khách hàng ra trước tòa án nhân dân có thẩm quyền đề thu hồi nợ hoặc các cơ quan tài phán khác,… Mỗi biện pháp xử lý nợ xấu lại có những quy trình thực hiện khác nhau. Thứ tư, xử lý nợ xấu được quy định bởi rất nhiều các văn bản và có sự can thiệp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tỉ lệ nợ xấu tại các ngân hàng thương mại luôn dưới 3% [21]. Thứ năm, xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định: - Bảo đảm công khai, minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. 11 - Phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống. - Không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu. - Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu và trong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. 1.3. Các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại Về nguyên tắc, biện pháp xử lý nợ xấu cần được áp dụng từ nhiều phía, trong đó có biện pháp từ cơ quan quản lý nhà nước nhưng trách nhiệm chính trong việc thu hồi nợ xấu là chủ nợ (tổ chức tín dụng) và con nợ ( tổ chức, cá nhân vay vốn). Bởi lẽ nợ xấu là vấn đề không chỉ của chủ thể kinh doanh đặc thù là tổ chức tín dụng mà còn là vấn đề của nhiều chủ thể khác nhau trong nền kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp, cá nhân – con nợ giải quyết các khoản nợ xấu thương mại là nghĩa vụ hiển nhiên. Vì vậy, các con nợ này phải tìm mọi nguồn có thể để trả nợ, thương lượng với các chủ nợ để cơ cấu lại nợ, rà soát các dự án dể điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh, tập trung vào các hoạt động có hiệu quả nhất, giảm thiểu chi phí và sự lệ thuộc vào nguồn vốn ngân hàng, tăng khả năng quản trị rủi ro, khả năng tự đổi mới và phản ứng thị trường của mình. Tiếp cận trên phương diện các cách thức xử lý nợ xấu của TCTD, tác giả tập trung vào các biện pháp xử lý nợ của các TCTD bao gồm: Thứ nhất, phương thức trích lập dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu: Việc kinh doanh tiền tệ luôn gặp phải những rủi ro bất ngờ, do đó quy định về trích, lập và sử dụng nguồn quỹ dự phòng rủi ro để đảm bảo an toàn cho hoạt động của các TCTD là cần thiết. Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD [16] là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết và theo 12 hợp đồng tín dụng. Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của TCTD không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của TCTD. Dự phòng rủi ro bao gồm: Dự phòng cụ thể và dự phòng chung Sử dụng dự phòng là việc TCTD sử dụng dự phòng rủi ro để bù đắp tổn thất đối với các khoản nợ. Trích lập dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu được xem là một thông lệ tốt trên thế giới trong hoạt động ngân hàng. Tại Việt Nam, phương thức này được sử dụng như một biện pháp tích cực nhằm hạn chế mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Theo đó, sau khi thực hiện việc phân loại nợ theo từng nhóm nợ theo quy định tại Thông tư số 36/2014/TT-NHNN của NHNN các TCTD phải thực hiện việc trích lập đầy đủ quỹ dự phòng rủi ro tín dụng nhằm đảm bảo an toàn cho cả hệ thống. Một khi có nợ xấu phát sinh, các TCTD sẽ dùng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp cho khoản nợ xấu theo đúng quy định pháp luật. Việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng ít hay nhiều sẽ tác động đến hiệu quả kinh doanh, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cổ đông trong việc hưởng lợi nhuận cuối cùng của ngân hàng. Song các TCTD không thể chỉ biết có lãi để chia cho các cổ đông mà bỏ qua việc tuân thủ thực hiện quy chế đảm bảo an toàn trong kinh doanh ngân hàng. Thứ hai, phương thức thu hồi trực tiếp và thông qua phát mại tài sản bảo đảm nợ vay. Hiện nay, một trong những biện pháp được các ngân hàng thương mại sử dụng để thu hồi nợ chủ yếu là thu hồi trực tiếp và phát mại tài sản bảo đảm nợ vay. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện xử lý nợ xấu, nhất là nợ nhóm 5, thông qua việc xử lý tài sản đảm bảo nợ gặp không ít khó khăn, tiến trình xử lý mất rất nhiều thời gian và thủ tục, giá trị thu hồi thấp do nhiều nguyên nhân. Tình trạng phổ biến 13 hiện nay là nhiều giá trị tài sản đảm bảo nợ đã giảm rất mạnh so với thời điểm vay vốn, ví dụ như giá trị các cổ phiếu, giá trị bất động sản giảm mạnh hoặc là những tài sản trên đất như nhà xưởng, dây chuyền máy móc trên các khu công nghiệp… Điều này khiến các ngân hàng rất khó xử lý tài sản đảm bảo nợ, nếu xử lý thì chỉ thu hồi được một phần nợ. Ngoài ra, một khó khăn khác mà ngân hàng thường gặp phải là khi tài sản bảo đảm được thanh lý thì số tiền thu được lại được ưu tiên chi trả trước cho những khoản nợ phân chia theo thứ tự ưu tiên. Điều này dẫn đến việc thực hiện xử lý nợ xấu thông qua xử lý tài sản đảm bảo nợ thường kéo dài, tốn kém về tài chính. Thứ ba, phương thức mua bán nợ. Mua bán nợ là một hoạt động còn mới ở Việt Nam trong những năm gần đây. Bên bán nợ thường là các chủ nợ, bên mua nợ là các tổ chức mua bán nợ chuyên nghiệp và đối tượng của các hoạt động này là khoản nợ. Việc bán nợ này cũng được xem là phương án xử lý nợ nhanh nhất, giúp chủ nợ thu hồi một phần vốn kinh doanh để phục vụ cho các nhu cầu và các cơ hội kinh doanh mới nhằm cải thiện tình hình tài chính. Tuy nhiên, việc ra đời của các hoạt động công ty mua bán nợ cũng không đơn giản. Các cơ quan có thẩm quyền phải định rõ cơ chế pháp lý hoạt động của công ty, định giá đúng các khoản nợ xấu hợp lý để nó thực sự đạt được mục tiêu hình thành. Thứ tư, phương thức xử lý nợ thông qua con đường khởi kiện tại Tòa án hoặc Trọng tài. Đây là các biện pháp mà các ngân hàng thương mại áp dụng cuối cùng. Sau khi các biện pháp khác đã được áp dụng nhưng không có hiệu quả trong việc thu hồi nợ, cần thiết có sự hỗ trợ của các cơ quan pháp luật như tòa án, cơ quan thi hành án nhằm giúp ngân hàng thu hồi nợ vay. Việc đưa các cá nhân, doanh nghiệp ra Tòa án, phát mại tài sản sẽ tốn nhiều chi phí phát sinh, mất nhiều thời gian, rườm rà về thủ tục và lợi ích thu về chưa chắc đã đạt được như 14 mong muốn. Chính vì vậy, các ngân hàng không còn cách thức nào nữa mới sử dụng phương thức này. Thứ năm, phương thức xử lý nợ bằng biện pháp cơ cấu lại nợ, xóa nợ. Cơ cấu lại nợ là biện pháp được sử dụng khi một khoản nợ đến kì hạn trả nợ nhưng ngân hàng đánh giá khách hàng khó có khả năng trả nợ cho ngân hàng theo lịch trả nợ đã ký trước đó do khách hàng gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, nếu ngân hàng thực hiện việc cơ cấu lại thời gian trả nợ (bao gồm gia hạn nợ và điều chỉnh kì hạn trả nợ) thì khách hàng hoàn toàn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Ngân hàng thương mại cần chủ động phối hợp với khách hàng vay để cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý cho khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời, có chiều hướng cải thiện sản xuất kinh doanh tích cực và được đánh giá là có khả năng trả nợ theo thời gian cơ cấu lại. Xóa nợ là việc xóa bỏ các khoản nợ có vấn đề ra khỏi bảng cân đối dự toán, nhằm loại bỏ các khoản nợ còn tồn đọng tại ngân hàng thương mại. Biện pháp này được áp dụng khi cơ cấu lại nợ không có hiệu quả. Biện pháp xóa nợ chỉ áp dụng đối với khách hàng thuộc các đối tượng: (i) thành phần kinh tế gặp nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, mất mùa, dịch bệnh, cháy nổ … dẫn đến không có khả năng trả nợ cho ngân hàng; (ii) doanh nghiệp nhà nước đã có quyết định phá sản của Tòa án hoặc quyết định giải thể, không còn khả năng trả nợ ngân hàng; (iii) khách hàng là cá nhân bị tòa án tuyên bố là đã chết hoặc tuyên bố mất tích theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 mà không còn người thừa kế theo quy định của pháp luật. Thứ sáu, phương thức xử lý nợ xấu bằng biện pháp giảm miễn lãi. Biện pháp này được áp dụng nhằm giảm bớt khó khăn về tài chính cho khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến khích khách hàng trả một phần hoặc toàn bộ nợ xấu còn lại của ngân hàng. Hầu hết các ngân hàng khi nhận thấy các doanh nghiệp còn có 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan