BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ BẮC HÀ
--------------------------
Bộ Môn
: Quản trị ngân hàng thương mại
Đề Tài
: Xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do
2011
Sinh Viên: Hoàng Cao Qúy
MSV
: 0854030065
Lớp
: EFB404
1
Hà nội, 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ BẮC HÀ
-------------------------------
Chuyên ngành: Tài chính- ngân hàng
Hệ
: Đại học
Khóa
: 2008 – 2012
Người Hướng Dẫn
Giảng Viên
: LÊ THỊ HỒNG PHƯỢNG
2
Bài bổ sung kiểm tra tuần
Hà nội, 2011
GIỚI THIỆU
Vàng là hàng hoá đa dạng với chức năng là tiền tệ, công cụ tài chính
và hàng hoá thông thường. Mặc dù thực tế chức năng tiền tệ của vàng
không còn quan trọng như thời kỳ bản vị vàng, Chính phủ rất nhiều
nước vẫn giữ một lượng vàng đáng kể trong dự trữ. Vàng vẫn còn
chứng tỏ vai trò quan trong của mình như một công cụ tài chính bên
cạnh các công cụ tài chính khác như chứng khoán và trái phiếu. Đặc
biệt là đối với các nước đang phát triển, nền kinh tế chưa thực sự vững
chắc, giá trị đồng bản tệ chưa thực sự ổn định. Cũng vì lý do đó tại một
số nước vẫn duy trì chính sách quản lý vàng một cách chặt chẽ.
Ở Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế vai trò của vàng
cũng gắn liền với bước thăng trầm của nền kinh tế. Vai trò tiền tệ của
vàng đã phát huy rõ nét trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái, lạm phát
3
với tốc độ phi mã, vàng được coi là công cụ dự trữ, phương tiện thanh
toán, đơn vị tính toán đối với tài sản có giá trị. Nhà nước đã sử dụng
vàng làm công cụ ổn định giá trị đồng Việt Nam, góp phần chống lạm
phát.
Trong bối cảnh hiện nay khi nền kinh tế nước ta đã qua thời kỳ khủng
hoảng và đang có bước phát triển ổn định, lạm phát được duy trì ở
mức thấp, xu hướng hội nhập toàn cầu hoá ngày càng tăng, thì giá
vàng cũng ổn định và biến động theo giá vàng của thị trường vàng
quốc tế. Vai trò tiền tệ của vàng ngày càng giảm, thị trường vàng
trang sức mỹ nghệ ngày càng phát triển, nhu cầu vàng trang sức mỹ
nghệ ngày càng tăng theo mức độ tăng của đời sống. Tuy nhiên do tập
quán và thói quen vàng vẫn được sử dụng như một loại tiền trong
thanh toán dân gian, trong thanh toán quốc tế (lậu) ở biên giới nên
vàng vẫn có một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của
nước ta.
Bên cạnh đó ngành sản xuất, kinh doanh vàng có truyền thống lâu đời
với hơn 8000 tổ chức, cá nhân sử dụng hàng chục vạn lao động, trong
đó có nhiều nghệ nhân, nhiều thợ có tay nghề cao phải là một thế
mạnh cần khai thác. Hàng trăm tấn vàng trong dân chưa trở thành vốn
để phục vụ đầu tư tăng trưởng. Sự manh mún, nhỏ lẻ của công nghệ
sản xuất, kinh doanh vàng, sự yếu kém của các đơn vị quốc doanh
đang trở nên nhức nhối trong khi đó những đơn vị kinh doanh vàng
có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đang hoạt động có hiệu quả.
4
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, cũng như
kinh nghiệm thực tế để đưa ra các giải pháp nhằm phát triển thị
trường vàng Việt Nam theo hướng sử dụng hợp lý nhất nguồn lực
"vàng" cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Chương 1: Khái quát về thị trường vàng ở Việt Nam
1.1. Tổng quan về thị trường vàng ở Việt Nam
1.1.1.
Thị trường vàng Việt Nam trong những năm gần đây
Kinh tế thế giới đã thoát khỏi khủng hoảng, nhưng giá vàng liên
tục tăng mạnh do kinh tế phục hồi chậm chạp và không vững chắc,
trong đó số liệu kinh tế Mỹ không mấy khả quan và đồng USD suy
yếu, lãi suất tại Mỹ tiếp tục duy trì ở mức thấp là những động lực
chính.
Theo các nhà phân tích thì đồng USD sẽ tiếp tục suy yếu trong
ngắn hạn. Điều này tạo áp lực cho giới đầu tư và thôi thúc họ tiến về
thị trường kim loại quý, trong đó vàng là một điển hình. Giá vàng
trong thời gian gần đây liên tục lập kỷ lục mới và đã tăng trên 24%
trong năm 2009.
Như vậy, giá vàng tăng chủ yếu do kinh tế Mỹ còn yếu. Trên
thực tế, đồng USD mất giá từ sau ngày 11/9/2001, điều này liên quan
đến cuộc chiến của Mỹ tại Trung Đông, nhất là tại Afganistan, trong
khi cuộc chiến này còn rất cam go. Vì thế, giá vàng có thể sẽ tăng
vững trong dài hạn, nó sẽ chững lại và bắt đầu xu hướng giảm khi
5
cuộc chiến tại Afganistan có dấu hiệu kết thúc. Vì lý do đó, những nỗ
lực của nhiều nước trong việc chặn đà suy giảm USD như đã làm
trong thời gian qua, thậm chí một thỏa thuận nào đó giữa các nền kinh
tế chủ chốt cũng không thể cải thiện được tình hình. Tại những thời
điểm nhất định, Fed có thể điều chỉnh các biện pháp chính sách hỗ trợ
phục hồi kinh tế, góp phần kìm hãm tốc độ tăng giá vàng. Qua theo
dõi cho thấy, giá vàng tăng lên theo chu kỳ kinh doanh thông thường:
củng cố, điều chỉnh và tăng trở lại.
Trước đây, do ảnh hưởng của khủng hoảng dầu lửa vào cuối
những năm 70 của thế kỷ trước, giá vàng thế giới đã tăng cao và đạt
mức kỷ lục 850 USD/ounce vào tháng 10/1980. Tuy nhiên, sau đó giá
vàng đã giảm liên tục và xuống dưới 260USD/ounce vào giữa năm
1999. Nhờ các biện pháp chống bán phá giá nên giá vàng phục hồi
dần, nhưng đã tăng mạnh sau sự kiện 11/9/2001.
Tại Việt Nam, vàng được đưa vào lưu thông rất đa dạng về
chủng loại và mẫu mã, nhưng thị trường vàng trong nước phụ thuộc
vào vàng nhập khẩu, cả về khối lượng và giá cả. Hàng năm, nước ta
nhập khoảng trên 60 tấn vàng, đáp ứng trên 90% nhu cầu trong nước,
nhưng vàng không ảnh hưởng đến mục tiêu điều hành chính sách tiền
tệ. Mặc dù một bộ phận người dân vẫn sử dụng vàng làm phương tiện
thanh toán mua bán nhà đất, cất trữ vàng làm tài sản hộ thân. Trên
thực tế, tỷ trọng vàng sử dụng trong thanh toán cũng như giao dịch gửi
6
và vay tại các ngân hàng là rất nhỏ so với M2, tổng vốn huy động và
cho vay tại các tổ chức tín dụng.
Trước những diễn biến của thị trường vàng trong nước (giá vàng
trong nước cao hơn giá vàng trên thị trường thế giới trên 6%). Ngày
11/11/2009, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời cấp phép nhập khẩu
vàng cho các đơn vị kinh doanh vàng nhằm tạo nguồn cung ổn định
cho thị trường, góp phần ổn định giá vàng trong nước.
Tiếp đó, ngày 30/12/2009, Văn phòng Chính phủ đã ban hành
văn bản số 369/TB-VPCP thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng.
Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu không được tổ chức và
thực hiện việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước dưới mọi
hình thức. Chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày 30/12/2009, mọi hoạt
động liên quan đến kinh doanh sàn giao dịch vàng và kinh doanh vàng
trên tài khoản ở trong nước phải chấm dứt hoạt động.
Do hoạt động kinh doanh trên sàn vàng hay còn gọi là kinh
doanh vàng trên tài khoản đã cho thấy một số yếu tố tiềm ẩn có thể
gây bất ổn cho kinh tế - xã hội.
Do đây là loại hình kinh doanh có rủi ro cao, không phải là hoạt
động sản xuất để tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Hơn nữa, đến
nay vẫn chưa có cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh này.
7
Do đó, Chính phủ cũng giao, Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối
hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát lại tất cả các quy định hiện
hành về quản lý vàng để trình Chính phủ ban hành một quy định đầy
đủ về quản lý kinh doanh vàng theo hướng Nhà nước tập trung, thống
nhất quản lý hoạt động kinh doanh vàng.
Ngoài ra, ngày 11/01/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
cũng đã có văn bản số 258/NHNN-CSTT gửi các Ngân hàng thương
mại và chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương yêu cầu ngừng cho vay để đầu tư kinh doanh trên sàn
vàng.
1.1.2. Mối quan hệ giữa thị trường vàng và các thị trường
đầu tư khác.
a.Thị trường chứng khoán.
Chứng khoán và vàng là hai kênh đầu tư có tính chất thay thế
cho nhau, nghĩa là khi có tiền, nhà đầu tư có thể chọn đầu tư vào
chứng khoán, hoặc vàng hoặc cả hai để sinh lời. Về lý thuyết, luồng
vốn đầu tư sẽ dịch chuyển từ kênh đầu tư có tỷ suất sinh lời thấp sang
kênh đầu tư có tỷ suất sinh lời cao hơn. Trên phương diện này, khi
chứng khoán lên, sẽ tạo nhiều cơ hội cho mọi người kiếm lợi nhuận từ
thị trường chứng khoán và giảm đầu tư vào vàng.
Tuy nhiên, khi nhận định như trên cần lưu ý 2 điều:
8
Không bao giờ chứng khoán và vàng là vật thay thế hoàn toàn
cho nhau, nghĩa là dù chứng khoán có hấp dẫn như thế nào thì vẫn có
nhiều nhà đầu tư quan tâm tới đầu tư vàng, đơn giản vì họ quen với
hoạt động kinh doanh này hơn.
Vàng và chứng khoán đều là những cấu phần của một thị trường
tài chính. Hoạt động nhộn nhịp đầu tư trong một cấu phần, có thể tạo
cho nhà đầu tư sự phấn khích cần thiết để đầu tư vào cả cấu phần kia.
Bên cạnh đó, đầu tư vào chứng khoán là rất rủi ro, vì khi doanh
nghiệp phá sản, số chứng khoán đang nắm giữ có thể mất giá trị. Đầu
tư vào vàng có thể lãi, có thể lỗ, nhưng không bao giờ mất trắng vì
vàng có giá trị nội tại của nó. Một nhà đầu tư khôn ngoan luôn chia sẻ
rủi ro bằng cách trong khi đầu tư chứng khoán thì vẫn đầu tư vàng.
Tóm lại, khi chứng khoán lên, có thể một số nhà đầu tư sẽ dồn
vốn đầu tư sang kênh này, nhưng điều này không hẳn dẫn tới sự trầm
lắng của thị trường vàng.
b.Thị trường tiền tệ và dầu mỏ.
Sau thế chiến năm 1945, Mỹ đứng đầu thế giới về tỷ lệ dự trữ
vàng (3/4 trữ lượng vàng của thế giới được dự trữ tại các nhà băng
Mỹ).
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1971, hầu hết các nước
đều bán vàng mua đồng đôla Mỹ để tăng dự trữ ngoại tệ, cũng là điều
chỉnh cân bằng thương mại giữa các nước. Thời kỳ này, đồng USD
mặc nhiên được coi như một đồng tiền chung trong giao dịch thương
9
mại quốc tế. Thời kỳ này, giá vàng dao động quanh ngưỡng
35USD/ounce, giá dầu ở mức 3 USD/ thùng.
Năm 1971, Mỹ ngừng bán vàng ra thị trường thế giới. Để đáp
lại, các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) buộc phải bán lượng USD
đang dự trữ đề mua vàng trên thị trường thế giới. Hệ quả là đã đẩy giá
dầu tăng lên gấp chục lần lên mức 40USD/thùng và vàng là 850
USD/ounce (tính theo thời giá hiện nay là khoảng 2500 USD/ounce).
Đây được đánh giá là một cú sốc lớn đối với nền tài chính thế giới, là
hệ quả của việc gỡ bỏ hệ thống bản vị vàng ra khỏi đồng USD trong
tháng 8/1971 của tổng thống Mỹ Richard M Nixon.
Chúng ta có thể giải thích mối quan hệ này một cách đơn giản như
sau:
Dầu là nguồn đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất. Bất cứ
sự biến động của giá dầu mỏ cũng tác động dây chuyền lên toàn bộ
nền kinh tế thế giới. Vì thế để giữ vứng nền kinh tế phát triển ổn định,
các nước có nền kinh tế lớn như Nga, Mỹ... có xu hướng xây dựng các
kho dự trữ dầu mỏ và tăng cường dự trữ vàng. Bởi lẽ đây là hai loại
hàng hóa không bị mất giá trị.
Tuy nhiên, dầu mỏ dưới vai trò lớn hơn hàng hóa tích trữ, khi giá
dầu mỏ tăng tất yếu dẫn đến hệ quả tiền USD giảm giá trị, và các nước
càng có xu hướng nhập vàng về tích trữ, do đó nhu cầu vàng trên thế
giới sẽ tăng và kéo theo sự tăng giá của vàng.
10
Năm 2006 cũng là năm đánh dấu mức kỷ lục của giá vàng, giá
dầu và một lần nữa minh chứng cho thấy sự đồng hành của giá vàng
và giá dầu. Giá dầu đạt mức kỷ lục 78,40 USD/thùng vào ngày
13/7/2006. Mức kỷ lục này cao hơn 39% so với mức giá cao nhất
trong năm 2004 là 56,37 USD/thùng (ngày 26/10/2004) và trên 10%
so với mức cao nhất năm 2005 là 70,85 USD/thùng vào ngày
27/8/2005.
Các kỷ lục về giá dầu tại thời điểm đó và những nguyên nhân
của nó cũng không nằm ngoài những nguyên nhân cố hữu như cầu
tăng, nguồn cung hạn chế do những xung đột về chính trị ở các nước
sản xuất dầu mỏ, dự trữ năng lượng tại Mỹ… Vào đầu năm 2006, giá
vàng thế giới từ mức 517 USD/ounce đã tăng liên tục và đến ngày
12/5 đã đạt mức kỷ lục là 732 USD/ounce, để rồi giảm liền một mạch
xuống còn 543 USD/ounce chỉ trong vòng 1 tháng.
Nhưng ngay sau đó, giá vàng lại tăng lại gần 140 USD/ounce lên
mức 675 USD/ounce vào nửa cuối tháng 7 - 2006. Một biến động
chưa từng có trong lịch sử giá vàng khoảng 1/4 thế kỷ trở lại đây. Giá
vàng thế giới trong phiên giao dịch cuối cùng của năm 2006 ở mức
635 USD/ounce, tăng gần 23% so với thời điểm đầu năm.
Nguyên nhân diễn biến thất thường của giá vàng và đạt được kỷ
lục cao chủ yếu là do xu hướng mất giá của đồng USD. Trong năm
2008, thị trường tài chính thế giới bước vào khủng hoảng. Sự đổ vỡ
của gần 70 Ngân hàng của Mỹ kéo theo sự u ám của nền kinh tế thế
11
giới. Vậy là chính phủ các nước phát triển mà đứng đầu là Mỹ, EU,
Nhật,.. liên tiếp tung các gói hỗ trợ kinh tế nhằm hà hơi” thổi ngạt nền
kinh tế.
Tuy nhiên, sự bơm vốn mạnh mẽ của các Chính phủ khiến gia
tăng sự thâm hụt ngân sách nặng nề. Ở đây ta hãy khoan bàn đến vấn
đề thâm hụt ngân sách Chính phủ, mà chỉ đánh giá tác động của việc
bơm tiền cứu nền kinh tế.
Trước hết, các gói hỗ trợ kinh tế có mặt tốt là thúc đẩy sự thanh
khoản của thị trường, cung ứng vốn cho các lính vực sản xuất quan
trọng. Tuy nhiên, viêc tăng cung tiền khi nền kinh tế chưa “hấp thụ”
được đã khiến đồng USD bị giảm giá mạnh so với các đồng tiền khác
như đồng EUR, đồng Yên Nhật. Điều này dĩ nhiên gây nên mối lo
ngại sâu sắc đối với các nước OPEC và những nước đang có lượng dự
trữ bằng đồng USD lớn.
1.2. Vai trò của thị trường vàng
1.2.1. Tác động của vàng đối với tỷ giá
Trong giai đoạn 5 năm 2006-2010, tỷ giá ngoại tệ USD so với
đồng Việt Nam (VND) được điều chỉnh linh hoạt theo cung cầu ngoại
tệ của thị trường và tình hình kinh tế vĩ mô. Sự điều chỉnh tỷ giá
USD/VND xuất phát từ nhiều yếu tố kinh tế cơ bản khác nhau, chủ
yếu là do cán cân thương mại mất cân đối, giải pháp kỹ thuật hạn chế
12
nhập siêu, và chính sách khuyến khích xuất khẩu. Tính từ năm 2008
đến nay, bình quân mỗi năm tỷ giá được điều chỉnh tăng khoảng 5%.
Bảng thống kê điều chỉnh tỷ giá USD/VND trong giai đoạn 2006-2010
Điều
Stt
Ngày
chỉnh
biên độ và/hoặc
Ghi chú
chỉnh
tỷ giá bình quân
0,50%
cuộc
1
31/12/2006
Tăng
2
3
4
5
giao dịch
24/12/2007
0,75%
10/03/2008
1%
27/06/2008
2%
11/07/2008
3%
6
7
Tỷ
biên
16.494
25/12/2008
16.989, %
24/03/2009
5%
lệ
độ
0,25%
Tăng biên độ giao dịch 0,25%
Tăng biên độ giao dịch 0,25%
Tăng biên độ giao dịch 1,00%
Tăng biên độ giao dịch 1,00%
Giữ nguyên biên độ giao
lên
dịch,
3,00%
tăng tỷ giá bình quân liên
ngân hàng
Tăng biên độ giao dịch 2,00%
13
điều
chung
8
9
17.034
26/11/2009
17.961,%
17.961ên
11/12/2010
18.544,%
Giảm biên độ giao dịch,
lên
tăng tỷ giá bình quân liên
3,44%
ngân hàng
Giữ nguyên biên độ giao
dịch,
3,24%
tăng tỷ giá bình quân liên
ngân hàng
Vàng không được xem là một thước đo hoặc một loại hàng hóa
chủ lực trong chính sách điều tiết hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu và điều hành chính sách vĩ mô của Nhà nước.
Khi mà vàng không được xem là một thước đo giá trị một loại
hàng hoá thì đồng nội tệ của Việt Nam (VNĐ) là đồng tiền duy nhất
mà luôn gắn liền với giá trị của hàng hóa, sản phẩm và dịch vụ, giữa
tiền và vàng có sự liên hệ gắn bó rất chặt chẽ với nhau, khi vàng tăng
giá mạnh, những hệ quả của sự tăng giá đó vẫn gây ra những tác động
vừa trực tiếp, vừa gián tiếp đối với tỷ giá VND như trong những năm
vừa qua.
Khi giá vàng tăng với mức tăng trung bình từ 20-25%/năm, các
nhà đầu tư trên thị trường tài chính không thể không chú ý đến vàng,
nhất là khi những loại tài sản khác như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
quỹ, bất động sản v.v… chưa mang lại hiệu quả sinh lợi như mong
đợi. Nói cách khác, nhà đầu tư sẽ có xu hướng chuyển dịch một phần
vốn vào vàng để vừa đa dạng hóa danh mục đầu tư, vừa hướng tới
mục tiêu sinh lợi kỳ vọng.
14
Kể từ tháng 06/2008, Ngân hàng Nhà nước tạm thời không cấp
hạn mức (quota) nhập khẩu vàng cho các doanh nghiệp kinh doanh
vàng và các ngân hàng thương mại như trước đó, trừ trường hợp nhập
khẩu can thiệp thị trường.
Có thể nói cung cầu vàng trong nước không còn liên thông với thế
giới nữa. Vì nguồn cung vàng trong nước bị gián đoạn, bị thắt cổ chai
và thiếu tính liên tục tại một số thời điểm nhất định do cái “van” nhập
khẩu đang tạm khóa, nên chỉ cần nhà đầu tư muốn mua vàng, giá vàng
trong nước sẽ tăng lên. Khi lực cầu không được đáp ứng đầy đủ, giá
vàng trong nước sẽ tăng mạnh và nhanh hơn ở thế “lệch pha trên” so
với giá vàng thế giới với mức chênh lệch giá có khi lên đến hơn 1 triệu
đồng/lượng vàng như đã từng xảy ra.
Trường hợp không cho phép nhập khẩu vàng chính thức
Ở tình huống mất cân đối cung cầu này, nếu không cho phép nhập
khẩu chính thức và nếu mức chênh lệch giá quá lớn, sẽ có một khối
lượng nhập khẩu vàng “không chính thức” vào Việt Nam qua các
đường biên giới giáp ranh với Campuchia, Lào và Trung Quốc để giải
tỏa “cơn khát” vàng trong nước. Để “nhập” được số vàng này, một số
đầu mối phải tích cực thu gom USD trên thị trường tự do để thanh
toán số vàng nhập khẩu đó, tạo sức cầu và sự khan hiếm “cục bộ” đối
với tiền mặt USD.
Do tình trạng thâm hụt mậu dịch bị mất cân đối trong một thời
gian dài và do giá vàng vẫn tiếp tục tăng chưa có điểm dừng, thực tế
cho thấy trong một số tình huống ngân hàng nhà nước phải điều chỉnh
15
tỷ giá chính thức theo “tín hiệu đón đầu” của tỷ giá tự do, khi mà
người cần ngoại tệ và người có ngoại tệ đã xác lập trước một mức tỷ
giá kỳ vọng mới. Đây là tình huống tỷ giá USD/VND tăng trong bối
cảnh không cho nhập khẩu vàng chính thức.
Bảng tóm tắt mức thâm hụt mậu dịch trong giai đoạn 2007-2011
Năm
Kim
ngạchKim
ngạchThâm
hụtTăng/
giảm
xuất khẩu (tỷnhập khẩu (tỷmậu dịch (tỷso với năm
USD)
2007 39,6
USD)
44,41
USD)
-4,81
trước
2008 48,38
60,83
-12,45
+158,84%
(tăng 22,17%) (tăng 36,97%)
2009 62,69
80,71
-18,02
+44,74%
(tăng 29,1%) (tăng 28,8%)
69,96
2010 57,04
-12,92
-28,30%
(giảm 9,01%)
4 tháng51,5
(giảm 13,32%)
60,08
-8,58
đầu
năm
2011
16
Khi đó sẽ dẫn đến lượng tiền VND bỏ ra để thu về ngoại tệ phục
vụ cho các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ rất cao dẫn đến giá bán sản
phẩm ra thị trường cũng cao theo. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến
chính sách quản lý hàng hóa của nước nhà, giá mặt hàng ngày càng
càng tăng làm cho cuộc sống của người dân ngày càng khó khăn.
Trường hợp cho phép nhập khẩu vàng chính thức
Nếu ngân hàng nhà nước cho nhập khẩu vàng chính thức, một
lượng ngoại tệ cũng sẽ được chi ra từ hệ thống ngân hàng để thanh
toán tiền nhập khẩu vàng. Có thể nói rằng trong bối cảnh giá vàng
tăng và nhiều nhà đầu tư đang muốn mua vàng, việc nhập khẩu vàng
bằng con đường chính thức hay không chính thức cũng đều tác động
lên cung cầu ngoại tệ và gây áp lực lên tỷ giá.
Đây cũng chính là thế “tiến thoái lưỡng nan” mà ngân hàng nhà
nước luôn luôn đối diện khi xử lý vấn đề nhập khẩu vàng. Tuy nhiên,
việc nhập khẩu vàng chính thức vẫn được xem là giải pháp tích cực
hơn, vì Nhà nước sẽ đạt được nhiều mục tiêu khác nhau như
Kiểm soát được số lượng nhập khẩu
Kiểm soát được doanh thu của các đơn vị nhập khẩu vàng
Chủ động tăng nguồn cung vàng trong nước
Giảm bớt sự căng thẳng tâm lý muốn mua vàng của người dân
Ngăn chặn tình trạng đầu cơ “đục nước béo cò”
Gia tăng tính công khai minh bạch trong chính sách quản lý thị
trường vàng
17
Chủ động điều chỉnh tỷ giá khi cần thiết, thay vì để cho thị trường
tự do thản nhiên thao túng.
Trong 2 năm 2009-2010 vừa qua, vàng không phải là nguyên
nhân làm tiêu tốn ngoại tệ, mà ngược lại còn góp phần đáng kể
trong việc cải thiện cán cân thương mại. Với mức xuất siêu vàng
(xuất vàng nhiều hơn nhập vàng) khoảng 60 tấn/năm, các doanh
nghiệp kinh doanh vàng đã mang về khoảng 2,5 tỷ USD trong 9
tháng đầu năm. Tuy nhiên, sự đóng góp từ kim ngạch xuất siêu vàng
chỉ giúp giảm bớt mức thâm hụt mậu dịch trong ngắn hạn. Vấn đề
cốt lõi đó là sự mất cân đối trong cán cân thương mại trong suốt
một thời gian dài luôn gây áp lực trực tiếp lên tỷ giá, không nhất
thiết xuất phát từ vàng.
Bảng tóm tắt số liệu xuất nhập khẩu vàng trong giai đoạn 2006-2010
Tấn vàng 2006
Nhập khẩu 91
Xuất khẩu Chênh lệch
(XK - NK)
2007
51
-
2008
90.5
11
2009
12
72
2010 (*)
9
70
-79.5
+60
+61
1.2.2. Vàng giúp đa dạng hóa danh mục đầu tư:
Hầu hết các danh mục đầu tư ban đầu chỉ tập trung vào những tài
sản truyền thống như cổ phiếu và trái phiếu. Lý do để nắm nhiều tài
18
sản khác nhau là để bảo vệ danh mục đầu tư tránh được những rủi ro
từ biến động giá của một loại chứng khoán nhất định. Danh mục đầu
tư có bao gồm vàng sẽ ổn định hơn so với danh mục khác.
Đưa vàng vào danh mục đầu tư của mình – một tài sản có giá trị
thực ít biến động hơn các loại tài sản tài chính khác sẽ đảm bảo an
toàn về giá trị trong trường hợp thị trường biến động dẫn đến rủi ro
mất giá của các tài sản tài chính.
Khi mà đồng nội tệ của Việt Nam phụ thuộc vào tỷ giá của đồng
USD rất nhiều trong các hạng mục, trong xuất nhập khẩu hàng hóa.
Đồng USD tăng và giảm liên tục cũng làm cho giá trị của VND cũng
bị ảnh hưởng theo, do đó khi nhà đầu tư dùng VND đầu tư vào các
hạnh mục công trình có giá trị lớn sẽ gặp rất nhiều rủi ro trong quá
trình hoạt động của dự án, nhất là khi mà nền kinh tế nước nhà đang
rơi vào tình trạng lạm phát với hai con số như hiện nay. Do đó vàng
được xem là nơi ẩn nấp an toàn khi áp lực lạm phát xảy ra do áp lực
lạm phát tăng đồng nghĩa với giá cả hàng hóa dịch vụ tăng nhanh,
đồng tiền mất giá và các nhà đầu tư thường có khuynh hướng mua
vàng vào để cất trữ.
Vàng là kênh đầu tư được ưu tiên lựa chọn khi thị trường bất ổn:
khi thị trường tồn tại nhiều bất ổn như thiên tai, chiến tranh… các nhà
đầu tư có xu hướng mua vàng để bảo vệ giá trị của đồng tiền
19
1.2.3. Vàng là công cụ phòng chống lạm phát:
Khi hàng hóa và dịch vụ tăng nhà đầu tư có khuynh hướng mua
vàng do sức mua và giá trị của vàng có khuynh hướng ổn định. Do đó
mỗi khi lo sợ về lạm phát, nhà đầu tư lại mua vàng.
Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam đang phải đối phó với nạn lạm
phát tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng sẽ ở mức hai con số trong 2011.
Lạm phát tăng thể hiện sự tương quan giữa tiền và hàng hoá. Với cùng
một số tiền như nhau thì người ta sẽ mua được một số lượng hàng hóa
ít hơn. Từ điều này có thể thấy rằng, khi có lạm phát thì người giữ tài
sản sẽ có lợi hơn người giữ tiền hay nói cách khác hàng hóa là công cụ
phòng ngừa rủi ro lạm phát. Khi mà VND ngày càng bị mất giá trên
thị trường, vật giá thì leo thang một cách nhanh chóng, khó kiểm soát.
Vì vậy, không chỉ có vàng mà các loại hàng hóa khác như kim
loại quý, bất động sản... đều là những công cụ chống lạm phát hữu
hiệu. Tuy vậy, vàng là một loại hàng hóa đặc biệt hơn cả, có giá trị
cao, luôn duy trì được giá trị trao đổi cao trên thị trường và đặc biệt là
khả năng thanh khoản trên thị trường.
Tất cả những yếu tố trên đã biến vàng thành công cụ để chống
lạm phát hữu hiệu.
1.2.4. Vàng là công cụ đầu tư thay thế đồng USD:
Vàng thường được sử dụng như một công cụ đầu tư hiệu quả thay
thế đồng USD – đồng tiền được giao dịch nhiều nhất thế giới. Nếu
đồng USD tăng giá, thì vàng sẽ giảm. Ngược lại USD giảm giá thì
vàng sẽ tăng. Do đó vàng là cách đầu tư hiệu quả nhất trong việc
20
- Xem thêm -