1- Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng nói chung và TCCSĐ TSVM trong doanh nghiệp nói riêng, có vị trí, vai trò rất quan trọng. Các tổ chức cơ sở đảng ở DNCPH là một loại hình trong hệ thống TCCSĐ, cùng với các loại hình khác, tạo thành nền tảng của Đảng và hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng, trong xây dựng quân đội, tạo ra sự ổn định và phát triển của các DNCPH trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Trong những năm vừa qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Bộ quốc phòng đã sắp xếp lại và tiến hành CPH các DN trong quân đội trong đó có các DN của TCHC nhằm mục đích huy động thêm vốn, tạo động lực thúc đẩy sản xuất – kinh doanh, khai thác và sử dụng các nguồn lực trong xã hội. Chủ trương này bước đầu đã thu được những thành tựu đáng kể, các DNCPH của TCHC sau khi sắp xếp lại đã đi vào làm ăn có hiệu quả, thoát khỏi tình trạng sản xuất – kinh doanh trì trệ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, khi tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp còn nảy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết, đó là: vai trò của cấp uỷ đảng trong doanh nghiệp, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với doanh nghiệp sau khi CPH. Đại hội X của Đảng đã khẳng định: “Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp, trọng tâm là CPH”, “Đẩy mạnh và mở rộng diện CPHDN, kể cả các tổng công ty nhà nước” [20, tr.85], để chủ trương này phát huy hiệu quả trong thực tế đòi hỏi phải xây dựng các TCCSĐ TSVM, đây là những vấn đề quan trọng có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn đang đặt ra hiện nay.
Trong quá trình hoạt động nhiều tổ chức cơ sở đảng ở DNCPH của TCHC đã tích cực, chủ động, sáng tạo tìm tòi các biện pháp lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh đạt hiệu quả và đứng vững trên thương trường, góp phần quan trọng vào sự phát triển của quân đội và đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được, vẫn còn tồn tại những khuyết điểm, cần khắc phục đó là: chưa thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, phương thức lãnh đạo còn cứng nhắc, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng tham ô, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ, vốn và tài sản của Nhà nước bị thất thoát, công nợ ngày càng nhiều, người lao động thiếu việc làm, đời sống cán bộ công nhân viên không được cải thiện, quy chế dân chủ trong doanh nghiệp thực hiện không nghiêm túc. Đây là những lý do chính làm giảm sút năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các TCCSĐ ở DNCPH của TCHC, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của Đảng, hiệu quả sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, vấn đề xây dựng TCCSĐ TSVM ở DNCPH của Tổng cục Hậu cần là vấn đề cấp thiết đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Trong những năm tới đây, vấn đề CPH các doanh nghiệp của TCHC tiếp tục được đẩy mạnh. Quá trình, sắp xếp lại các DN đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng, trong đó vấn đề xây dựng các TCCSĐ TSVM đóng vai trò hết sức quan trọng. TCCSĐ TSVM là điều kiện tiên quyết để tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh. Thực hiện mục tiêu đổi mới, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các DNCPH của Tổng cục Hậu cần đòi hỏi phải xây dựng các TCCSĐ TSVM ở DNCPH.
Thực tế ở DNCPH của Tổng cục Hậu cần cho thấy vấn đề xây dựng TCCSĐ TSVM giữ vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Các tổ chức cơ sở đảng là chỗ dựa tin cậy, đảm bảo cho các DNCPH phát triển đúng hướng, bền vững và từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh trên thương trường, giữ vững sự ổn định trong sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống người lao động. Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, sự nghiệp củng cố quốc phòng và kết hợp phát triển kinh tế văn hoá xã hội với quốc phòng – an ninh đang đặt ra những yêu cầu mới trong sắp xếp và đổi mới các doanh nghiệp của TCHC. Sự nghiệp đổi mới chỉnh đốn Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các DNCPH, và những bất cập trong xây dựng các TCCSĐ cũng đặt ra yêu cầu phải xây dựng các TCCSĐ TSVM ở DNCPH của TCHC. Vì vậy, với mong muốn góp phần vào việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, xây dựng các tổ chức đảng trong Đảng bộ Tổng cục Hậu cần TSVM nói chung ở DNCPH nói riêng góp phần xây dựng quân đội về chính trị, nhằm phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng, tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, tôi chọn đề tài “Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh ở doanh nghiệp cổ phần hoá của Tổng cục Hậu cần giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
1
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Ban Chấp hành Trung ương
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cổ phần hoá
Cổ phần hóa doanh nghiệp
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp cổ phần
Doanh nghiệp cổ phần hóa
Doanh nghiệp nhà nước
Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng ủy Quân sự Trung ương
Hội đồng quản trị
Quân đội nhân dân Việt Nam
Tổ chức cơ sở đảng
Tổng cục Chính trị
Tổng cục Hậu cần
Tư bản chủ nghĩa
Trách nhiệm hữu hạn
Trong sạch vững mạnh
Vững mạnh toàn diện
Xã hội chủ nghĩa
Chữ viết tắt
BCHTW
CNXH
CNH, HĐH
CPH
CPHDN
DN
DNCP
DNCPH
DNNN
ĐCSVN
ĐQSTW
HĐQT
QĐNDVN
TCCSĐ
TCCT
TCHC
TBCN
TNHH
TSVM
VMTD
XHCN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1
Trang
3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY
DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG SẠCH
VỮNG MẠNH Ở DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN HOÁ
CỦA TỔNG CỤC HẬU CẦN
12
1.1.
Tổ chức cơ sở đảng ở doanh nghiệp cổ phần hoá của
2
1.2.
Chương 2
Tổng cục Hậu cần và những vấn đề cơ bản về xây dựng tổ
chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh ở doanh nghiệp cổ
phần hoá của Tổng cục Hậu cần
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở doanh nghiệp cổ phần
hoá của Tổng cục Hậu cần - Thực trạng, nguyên nhân và
một số kinh nghiệm bước đầu
PHƯƠNG HƯỚNG, YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI
PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ
ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH Ở DOANH
NGHIỆP CỔ PHẦN HOÁ CỦA TỔNG CỤC HẬU
CẦN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
12
34
54
2.1.
2.2.
Sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ và phương hướng
yêu cầu xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững
mnạh ở doanh nghiệp cổ phần hoá của Tổng cục Hậu
cần giai đoạn hiện nay
Phương hướng, yêu cầu và những giải pháp cơ bản xây
dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh ở doanh
nghiệp cổ phần hoá của Tổng cục Hậu cần giai đoạn hiện
nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
54
66
99
101
104
MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng nói chung và TCCSĐ TSVM trong doanh
nghiệp nói riêng, có vị trí, vai trò rất quan trọng. Các tổ chức cơ sở đảng ở
DNCPH là một loại hình trong hệ thống TCCSĐ, cùng với các loại hình khác,
tạo thành nền tảng của Đảng và hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội, đóng vai
trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách
của Đảng, trong xây dựng quân đội, tạo ra sự ổn định và phát triển của các
DNCPH trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
3
Trong những năm vừa qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Bộ
quốc phòng đã sắp xếp lại và tiến hành CPH các DN trong quân đội trong đó
có các DN của TCHC nhằm mục đích huy động thêm vốn, tạo động lực thúc
đẩy sản xuất – kinh doanh, khai thác và sử dụng các nguồn lực trong xã hội.
Chủ trương này bước đầu đã thu được những thành tựu đáng kể, các DNCPH
của TCHC sau khi sắp xếp lại đã đi vào làm ăn có hiệu quả, thoát khỏi tình
trạng sản xuất – kinh doanh trì trệ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã
đạt được, khi tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp còn nảy sinh nhiều vấn
đề cần giải quyết, đó là: vai trò của cấp uỷ đảng trong doanh nghiệp, phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với doanh nghiệp sau khi CPH. Đại hội X của
Đảng đã khẳng định: “Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả
của doanh nghiệp, trọng tâm là CPH”, “Đẩy mạnh và mở rộng diện CPHDN,
kể cả các tổng công ty nhà nước” [20, tr.85], để chủ trương này phát huy hiệu
quả trong thực tế đòi hỏi phải xây dựng các TCCSĐ TSVM, đây là những vấn
đề quan trọng có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn đang đặt ra hiện nay.
Trong quá trình hoạt động nhiều tổ chức cơ sở đảng ở DNCPH của
TCHC đã tích cực, chủ động, sáng tạo tìm tòi các biện pháp lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh đạt hiệu quả và đứng vững trên thương
trường, góp phần quan trọng vào sự phát triển của quân đội và đất nước. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được, vẫn còn tồn tại những khuyết điểm,
cần khắc phục đó là: chưa thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, phương thức
lãnh đạo còn cứng nhắc, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
tình trạng tham ô, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ, vốn và tài sản của Nhà
nước bị thất thoát, công nợ ngày càng nhiều, người lao động thiếu việc làm,
đời sống cán bộ công nhân viên không được cải thiện, quy chế dân chủ trong
doanh nghiệp thực hiện không nghiêm túc. Đây là những lý do chính làm giảm
sút năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các TCCSĐ ở DNCPH của TCHC,
điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của Đảng, hiệu quả sản xuất – kinh
4
doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, vấn đề xây dựng TCCSĐ TSVM ở
DNCPH của Tổng cục Hậu cần là vấn đề cấp thiết đang đặt ra trong giai đoạn
hiện nay.
Trong những năm tới đây, vấn đề CPH các doanh nghiệp của TCHC tiếp tục
được đẩy mạnh. Quá trình, sắp xếp lại các DN đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng,
trong đó vấn đề xây dựng các TCCSĐ TSVM đóng vai trò hết sức quan trọng.
TCCSĐ TSVM là điều kiện tiên quyết để tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh.
Thực hiện mục tiêu đổi mới, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các
DNCPH của Tổng cục Hậu cần đòi hỏi phải xây dựng các TCCSĐ TSVM ở
DNCPH.
Thực tế ở DNCPH của Tổng cục Hậu cần cho thấy vấn đề xây dựng
TCCSĐ TSVM giữ vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng trong công tác xây dựng
Đảng. Các tổ chức cơ sở đảng là chỗ dựa tin cậy, đảm bảo cho các DNCPH
phát triển đúng hướng, bền vững và từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh
trên thương trường, giữ vững sự ổn định trong sản xuất kinh doanh, nâng cao
đời sống người lao động. Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, sự nghiệp củng cố
quốc phòng và kết hợp phát triển kinh tế văn hoá xã hội với quốc phòng – an
ninh đang đặt ra những yêu cầu mới trong sắp xếp và đổi mới các doanh
nghiệp của TCHC. Sự nghiệp đổi mới chỉnh đốn Đảng, tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng trong các DNCPH, và những bất cập trong xây dựng các
TCCSĐ cũng đặt ra yêu cầu phải xây dựng các TCCSĐ TSVM ở DNCPH của
TCHC. Vì vậy, với mong muốn góp phần vào việc thực hiện tốt chủ trương,
đường lối của Đảng, xây dựng các tổ chức đảng trong Đảng bộ Tổng cục Hậu
cần TSVM nói chung ở DNCPH nói riêng góp phần xây dựng quân đội về
chính trị, nhằm phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng, tính tiên phong,
gương mẫu của đảng viên, tôi chọn đề tài “Xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong sạch vững mạnh ở doanh nghiệp cổ phần hoá của Tổng cục Hậu cần
giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2- Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
5
Vấn đề xây dựng các TCCSĐ TSVM trong DNNN nói chung và DNCPH
trong quân đội nói riêng được đề cập trong các văn kiện của Đảng, trong các
công trình nghiên cứu khoa học được thể hiện dưới dạng các chương trình khoa
học – công nghệ, đề tài nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo, luận văn, luận
án và bài báo khoa học đăng tải ở các tạp chí khoa học.
Các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài có thể kể đến là:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới”, do
PGS, TS Nguyễn Phú Trọng, PGS, TS Tô Huy Rứa và TS Trần Khắc Việt đồng
chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; chuyên đề KHXH. 05 – 08 CĐ
“Luận cứ khoa học về tổ chức, bộ máy của Đảng để đảm bảo vai trò lãnh đạo
của Đảng trong hệ thống chính trị hiện nay”; đề tài Mô hình tổ chức Đảng
trong Tổng Công ty 90, 91 của Ban Tổ chức Trung ương Đảng; bài “Nâng cao
chất lượng sinh hoạt chi bộ” của PGS, TS Nguyễn Văn Biều đăng trên Tạp chí
Cộng sản số 3 – 1993; “Một số vấn đề đổi mới tổ chức bộ máy của Đảng Cộng
sản Việt Nam” của PGS, TS Nguyễn Hữu Tri, TS Nguyễn Thị Phương Hồng,
đăng trên Tạp chí Cộng sản 1 – 2004...và các luận văn, luận án như: Nguyễn
Đình Kỳ (1993), “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ
trong xí nghiệp quốc doanh qua thực tiễn công nghiệp địa phương Hà Nội’;
Đặng Thuỳ Dương (2005), “Nâng cao chất lượng tổ chức đảng ở DNCPH tại
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay”; Ngô Tùng Chinh (2005), “Năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ ở các đơn vị sản xuất kinh doanh
thuộc Tổng Công ty địa ốc Sài Gòn trong giai đoạn hiện nay”; Nguyễn Thị Lệ
Hồng (2000), “Về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ ở
DNCPH ở Khu công nghiệp Biên Hoà I”...
Ngoài những công trình đã nêu ở trên thì một số đề tài gần đây nhất đề cập sát
nhất đến vấn đề xây dựng tổ chức cơ sở đảng TSVM ở doanh nghiệp cổ phần hoá
phải kể đến đó là đề tài: “Chất lượng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp
Nhà nước ở Đảng bộ Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội giai đoạn
6
hiện nay” của tác giả Nguyễn Duy Nhu thuộc chuyên ngành Xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Từ chỗ đặt
vấn đề tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp cổ phần có vị trí đặc biệt
quan trọng trực tiếp góp phần vào quá trình phát triển của doanh nghiệp, vì
vậy nâng cao chất lượng tổ chức đảng trong doanh nghiệp cổ phần là một yêu
cầu cấp thiết đối với công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện
nay, tác giả đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận về chất lượng TCCSĐ,
đánh giá thực trạng chất lượng tổ chức cơ sở đảng tại các doanh nghiệp Nhà
nước ở Tổng công ty. Qua đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp nâng
cao chất lượng TCCSĐ trong loại hình doanh nghiệp này, như tiếp tục bổ sung
hoàn thiện quy chế hoạt động của TCCSĐ, tập trung lãnh đạo tổ chức thực hiện
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên
chức, xây dựng tổ chức và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo đơn vị
nhất là cán bộ chủ chốt doanh nghiệp, chú trọng công tác phát triển đảng, nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đổi mới nâng cao chất lượng công tác tư
tưởng, tăng cường công tác kiểm tra giám sát đối với các tổ chức cơ sở đảng.
- Để góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá không ngừng nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, ngày 14 – 3 – 2006, Bộ biên tập Tạp chí
Cộng sản, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Bộ biên tập báo nhân dân và Đảng
uỷ khối các cơ quan kinh tế Trung ương đã tổ chức hội thảo khoa học – thực tiễn
“Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với tiến trình cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước”. Trong báo cáo đề dẫn đồng chí Lê Hữu Nghĩa, Tổng biên tập
Tạp chí Cộng sản đã nêu ra một trong những nguyên nhân cơ bản có ý nghĩa quyết
định của những thành công bước đầu trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp là
sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo chặt chẽ và kịp thời của Chính phủ, của các cấp
chính quyền và sự ủng hộ của các bộ, địa phương và các doanh nghiệp. Báo
cáo cũng nêu rõ từ những kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo thành công và những
bài học không thành công sắp tới chúng ta phải làm gì và làm như thế nào để tiếp
tục phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá
7
doanh nghiệp Nhà nước một cách đúng hướng, đúng tiến độ và thực sự hiệu quả.
Một là, Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, tạo sự thống nhất về
nhận thức, trước hết trong các cấp uỷ, đội ngũ cán bộ, đảng viên và người lao động
về chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, về vị trí vai trò của tổ chức
đảng trong các doanh nghiệp cổ phần đối với nền kinh tế nước nhà, về quyền, trách
nhiệm và lợi ích của người lao động mà các tổ chức đoàn thể là người đại diện
trong các doanh nghiệp cổ phần hoá.
Hai là, Tiếp tục đổi mới chức năng nhiệm vụ, mô hình tổ chức và cơ chế hoạt
động của tổ chức đảng, trước hết và tập trung là cấp uỷ với hội đồng quản trị, giám
đốc (tổng giám đốc), trong các doanh nghiệp cổ phần ở các loại hình doanh nghiệp
Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc không chi phối (công ty mẹ, công ty con).
Ba là, Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, của tổ chức
đảng, trong xây dựng đội ngũ đảng viên, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo quản lý trong doanh nghiệp cổ phần hoá.
Bốn là, Xây dựng cơ chế phối hợp thống nhất chặt chẽ và hiệu quả giữa sự
lãnh đạo của Đảng ở các cấp với sự quản lý của Nhà nước, chính quyền các cấp
đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá.
Tổng thuật hội thảo cũng đã tổng hợp và nêu ra một số vấn đề chính là.
Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và những vấn đề đặt ra đối
với sự lãnh đạo của Đảng.
Thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong tiến trình
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Phương hướng giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức đảng trên lộ trình cổ phần hoá và sau cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước.
Những giải pháp được nêu trong báo cáo là.
Một là, các cấp uỷ đảng trong doanh nghiệp tiếp tục đổi mới nhận thức về sự
8
thay đổi, đa dạng hoá chế độ sở hữu, về vị trí, chức năng nhiệm vụ, hình thức tổ
chức bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng trong doanh nghiệp để có nội
dung và phương thức hoạt động phù hợp, hiệu quả.
Hai là, làm tốt công tác giáo dục tư tưởng tạo sự thống nhất nhận thức trong
cấp uỷ, cán bộ đảng viên, quần chúng về chủ trương cổ phần hoá, về vai trò của các
doanh nghiệp cổ phần hoá đối với nền kinh tế nước ta hiện nay và về vai trò trách
nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng trong doanh nghiệp cổ phần hoá có vốn Nhà nước.
Ba là, cấp uỷ tổ chức đảng chủ động giới thiệu những cán bộ có phẩm chất
đạo đức, năng lực và kinh nghiệm để bầu vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt trong bộ
máy quản lý của doanh nghiệp.
Bốn là, xác định rõ mối quan hệ giữa cấp uỷ, tổ chức đảng với hội đồng
quản trị, giám đốc (tổng giám đốc).
Năm là, gắn chặt và tăng cường công tác kiểm tra giám sát của cấp uỷ
đảng và uỷ ban kiểm tra các cấp đối với tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp.
Sáu là, lãnh đạo thực hiện dân chủ và quy chế dân chủ ở cơ sở.
-“Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và sự lãnh đạo của tổ chức cơ
sở đảng trong doanh nghiệp cổ phần”, Nxb CTQG, H.2000, do Phí Văn Chỉ
chủ biên. Trong cuốn sách này tác giả đã luận giải vai trò lãnh đạo của tổ chức
cơ sở đảng trong doanh nghiệp cổ phần có vốn Nhà nước, đồng thời nêu rõ
tăng cường vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp cổ
phần có vốn Nhà nước là điều hết sức cần thiết. Tác giả đã đánh giá hoạt động
của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp cổ phần thời gian qua, thực trạng
cơ cấu tổ chức, hoạt động của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp cổ
phần. Trong phần 3 tác giả đã nêu lên vấn đề đổi mới nội dung phương thức
lãnh đạo của TCCSĐ trong doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước là quan
tâm và tăng cường lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng ngay từ khâu chuẩn bị
cổ phần hoá, tăng cường các mối quan hệ của TCCSĐ trong doanh nghiệp cổ
9
phần như quan hệ với đại hội đồng cổ đông, quan hệ với hội đồng quản trị,
quan hệ với giám đốc hoặc tổng giám đốc, quan hệ với ban kiểm soát.
Về nội dung lãnh đạo của TCCSĐ trong doanh nghiệp cổ phần, tác giả đề cập
là phải tham gia xây dựng phương hướng, kế hoạch phát triển của doanh nghiệp,
tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ đủ sức quản lý điều hành có hiệu quả doanh
nghiệp, lãnh đạo xây dựng, củng cố tổ chức công đoàn và các đoàn thể khác, tham
gia công tác kiểm tra, giám sát, lãnh đạo xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững
mạnh, thực hiện tốt công tác quản lý, giáo dục rèn luyện và phân công công tác cho
đảng viên, thường xuyên quan tâm làm tốt công tác phát triển đảng tại doanh nghiệp.
Về phương thức lãnh đạo, tác giả cho rằng TCCSĐ lãnh đạo bằng công
tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, công tác tổ chức; lãnh đạo thông qua đại
diện quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; lãnh đạo thông qua tổ chức công
đoàn và các đoàn thể quần chúng; lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát.
Đặc biệt, tác giả nêu một số kiến nghị về công tác xây dựng TCCSĐ
trong doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước là.
1- Củng cố kiện toàn, tổ chức đảng trong doanh nghiệp và đồng thời tạo
mối quan hệ thường xuyên chặt chẽ giữa các cơ quan đảng từ Trung ương đến cơ
sở. Thành lập TCCSĐ trong doanh nghiệp sao cho phù hợp với hệ thống tổ chức
của doanh nghiệp. TCCSĐ phải nhận được sự chỉ đạo của cấp uỷ các cấp, tạo
nên mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ giữa các cơ quan đảng, từ trên đến cơ
sở.
2- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đảng viên trong doanh nghiệp, nâng cao
trình độ lý luận chính trị, năng lực quản lý và trình độ chuyên môn để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ.
3- Tạo mọi điều kiện cần thiết để TCCSĐ tham gia tích cực vào công tác phát
hiện, bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng cán bộ. Đặc biệt trong việc đề xuất, tham gia ý
kiến, đánh giá cán bộ được cử làm đại diện trực tiếp quản lý vốn của Nhà nước tại
doanh nghiệp. Tránh hiện tượng cơ quan quản lý vốn, hoặc người đại diện trực tiếp
10
quản lý vốn tại doanh nghiệp hoạt động đơn tuyến hay chỉ thông qua hội đồng quản
trị mà xem nhẹ việc liên hệ, trao đổi thống nhất với TCCSĐ. Đảng trực tiếp quản lý
công tác cán bộ cho nên TCCSĐ cần tham gia vào quá trình phát hiện bồi dưỡng và
kiến nghị đề bạt cán bộ.
4- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của TCCSĐ trong doanh nghiệp cổ
phần bảo đảm việc thực hiện đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước tại
doanh nghiệp. Bằng kiểm tra giám sát việc thực hiện các quan điểm của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, điều lệ, phương hướng, kế hoạch của doanh nghiệp,
TCCSĐ phát huy vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn bộ hoạt động của doanh
nghiệp.
5- Xây dựng những quy định phù hợp nhằm điều chỉnh về quyền và
trách nhiệm của bí thư, cấp uỷ đối với doanh nghiệp. Xác định rõ những vấn
đề phải chịu trách nhiệm và những vấn đề phải chịu trách nhiệm liên đới,
tránh tình trạng chung chung không phân định rõ quyền và trách nhiệm. Về
nguyên tắc, TCCSĐ phải chịu trách nhiệm liên đới với những sai lầm và
khuyết điểm của đảng viên trong tổ chức mà mình quản lý, đặc biệt là những
vi phạm về pháp luật, điều lệ mọi quy chế của Đảng và Nhà nước.
Những công trình nghiên cứu trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị,
phản ánh khá phong phú lý luận và thực tiễn hoạt động của TCCSĐ ở DNCPH thời
kỳ đổi mới. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu có hệ thống, đầy
đủ việc xây dựng tổ chức đảng TSVM ở DNCPH của TCHC.
3- Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
*Mục đích: Trên cơ sở luận giải, làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về lý
luận và thực tiễn, đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng TCCSĐ TSVM ở
DNCPH của TCHC giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và của Đảng ta, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận xây dựng TCCSĐ TSVM.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và rút ra những kinh
11
nghiệm xây dựng TCCSĐ TSVM ở DNCPH của TCHC.
- Xác định phương hướng, yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản
xây dựng TCCSĐ TSVM ở DNCPH của TCHC giai đoạn hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là xây dựng
TCCSĐ TSVM ở DNCPH của TCHC.
* Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở vấn đề xây
dựng các TCCSĐ TSVM ở DNCPH của TCHC. Thời gian nghiên cứu khảo
sát từ năm 2006 đến nay.
4- Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Học thuyết Mác – Lênin về chính đảng cách mạng của giai cấp
công nhân, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, đường lối, chỉ thị, nghị quyết
của ĐCSVN của ĐUQSTW về xây dựng chỉnh đốn Đảng; đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là cơ sở lý luận của luận
văn.
* Cơ sở thực tiễn: Các văn bản hướng dẫn, các báo cáo tổng kết CTĐ,
CTCT công tác xây dựng TCCSĐ của TCCT, của TCHC, thực tiễn xây dựng
TCCSĐ ở DNCPH của TCHC là cơ sở thực tiễn của đề tài. Đề tài luận văn
còn kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học về xây dựng đảng
đã công bố liên quan đến xây dựng TCCSĐ, xây dựng cấp uỷ, cán bộ, đảng
viên của các doanh nghiệp trong và ngoài quân đội, các DN của TCHC.
* Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành và
chuyên ngành, trong đó chú trọng các phương pháp: Kết hợp lôgíc và lịch sử, thống
kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương
pháp sử dụng chuyên gia.
5- Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấpcơ sở khoa học cho
Đảng bộ TCHC trong xây dựng TCCSĐ TSVM ở DNCPH.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng TCCSĐ TSVM ở các doanh nghiệp trong quân đội và TCHC, đồng thời làm
12
tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy môn CTĐ, CTCT ở các Học viện
nhà trường quân đội.
6- Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết) kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH Ở
DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN HOÁ CỦA TỔNG CỤC HẬU CẦN
1.1. Tổ chức cơ sở đảng ở doanh nghiệp cổ phần hoá của Tổng cục
Hậu cần và những vấn đề cơ bản về xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
sạch vững mạnh ở doanh nghiệp cổ phần hoá của Tổng cục Hậu cần
1.1.1. Tổ chức cơ sở đảng ở doanh nghiệp cổ phần hoá của Tổng cục
Hậu cần
* Cổ phần hoá doanh nghiệp của Tổng cục Hậu cần
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX, Nghị quyết
71/ĐUQSTW ngày 25 – 4 – 2002 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương về nhiệm
vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội trong thời kỳ mới – tiếp tục sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp quân đội, trong đó
có doanh nghiệp hậu cần, Đảng uỷ thủ trưởng Tổng cục Hậu cần đã có nhiều
nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo sắp xếp đổi mới các doanh nghiệp hậu
cần gắn với tổ chức lực lượng của ngành. Tổng cục Hậu cần đã chủ động phối
hợp với các cơ quan chức năng và Ban chỉ đạo cổ phần hoá doanh nghiệp
quân đội, chỉ đạo các doanh nghiệp hậu cần triển khai cổ phần hoá theo đúng
quy trình, nội dung, thủ tục quy định của Chính phủ và Bộ Quốc phòng. Chú
trọng quản lý và giải quyết chính sách thoả đáng cho người lao động theo
đúng quy định của Chính phủ (riêng quân nhân giải quyết theo quy định của
13
Bộ quốc phòng) một cách tận tình, chu đáo có lợi nhất cho người lao động.
Các doanh nghiệp hậu cần đã tích cực triển khai thực hiện nghiêm túc đạt kết
quả bước đầu đáng khích lệ. Đến nay việc sắp xếp đổi mới các doanh nghiệp
hậu cần được thực hiện theo ba mô hình. Công ty mẹ, công ty con, công ty
TNHH nhà nước một thành viên và doanh nghiệp cổ phần. Trong đó, Tổng
công ty Thành An, Tổng công ty 28 và Tổng công ty xăng dầu quân đội được
chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ, công ty con. Có hai doanh
nghiệp là công ty 36, thuộc Tổng công ty Thành An và công ty 28.1 thuộc
Tổng công ty 28 được chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH
Nhà nước một thành viên. Các doanh nghiệp cổ phần hoá xong chuyển sang
hoạt động theo hình thức doanh nghiệp cổ phần là công ty 22, 26, 20, 32. Cơ
cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp cổ phần gồm có đại hội cổ đông, hội
đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc trong đó đại hội cổ đông là cơ
quan quyết định cao nhất của doanh nghiệp cổ phần, hội đồng quản trị là cơ
quan quản lý doanh nghiệp, giám đốc hoặc tổng giám đốc là người điều hành
hoạt động kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cổ phần có
quyền phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn. Hiện nay các doanh
nghiệp được CPH đều có số vốn pháp định trên 100 tỷ. Trong đó Nhà nước đều
giữ cổ phần chi phối 51%. Các cán bộ được thường vụ Đảng uỷ TCHC bổ
nhiệm là người đại diện vốn của Nhà nước trong doanh nghiệp đều có phẩm
chất, năng lực tốt giữ các vị trí chủ chốt như: Chủ tịch Hội đồng quản trị, tổng
giám đốc, phó tổng giám đốc, bí thư đảng uỷ, kế toán trưởng, trưởng ban kiểm
soát. Quá trình sắp xếp đổi mới doanh nghiệp cũng là quá trình thực hiện các
bước chuyển đổi, sáp nhập, giải thể, phá sản một số doanh nghiệp theo quy định
của pháp luật để giảm số lượng đầu mối doanh nghiệp, hình thành những doanh
nghiệp mạnh là những tổng công ty, công ty TNHH Nhà nước một thành viên,
14
(100% vốn Nhà nước) và các doanh nghiệp cổ phần hoạt động theo luật doanh
nghiệp.
Điểm nổi bật đáng ghi nhận là trong quá trình sắp xếp, chuyển đổi mô
hình doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hậu
cần vẫn ổn định và tăng trưởng. Ba năm gần đây các doanh nghiệp hậu cần đều
hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao, riêng năm 2008 mặc dù gặp
nhiều khó khăn nhưng các chỉ tiêu kinh tế đều vượt kế hoạch được giao. Doanh
thu đạt 117% thu nhập bình quân người lao động đạt 108,7%. Nộp ngân sách
đạt 118%, lợi nhuận trước thuế đạt 105%. Đặc biệt các doanh nghiệp sau cổ
phần đã vận dụng cơ chế quản lý điều hành giám sát phù hợp, thực hiện đầy đủ
quyền tự chủ hạch toán sản xuất kinh doanh lên đạt hiệu quả cao hơn. Các chỉ tiêu
về doanh thu lợi nhuận nộp ngân sách, tỷ suất lợi nhuận trên vốn, thu nhập của người
lao động đều tăng hơn trước. Tiêu biểu như Công ty cổ phần 32 có cổ tức bình quân
đạt 25% năm. Công ty cổ phần 199 và Công ty cổ phần xây lắp Thành An 96 có cổ
tức bình quân đạt 15%/năm.
Tuy nhiên quá trình cổ phần hoá ở các doanh nghiệp của Tổng Cục Hậu
cần vừa qua còn bộc lộ một số hạn chế nhất định như nhận thức của một số
đối tượng vẫn lầm tưởng rằng cổ phần hoá là tư nhân hoá. Những nhận thức như
vậy cùng với những vướng mắc và thiếu sót, lệch lạc trong tiến hành cổ phần
hoá đã có ảnh hưởng xấu đến quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp. Trên thực
tế việc bán cổ phần thiếu công khai minh bạch, còn khép kín trong nội bộ doanh
nghiệp ở một số trường hợp dẫn đến những yếu kém của doanh nghiệp sau cổ
phần hoá chậm được khắc phục. Có những doanh nghiệp còn chần chừ không
muốn cổ phần hoá, cố trì hoãn sự tồn tại của doanh nghiệp với mục đích đeo
bám nguồn bao cấp của Nhà nước và Quân đội, không dám nghĩ, dám làm, mặc
dù hiệu quả hoạt động thấp, kéo dài trong nhiều năm. Không ít cán bộ sợ mất
quyền quản lý đối với doanh nghiệp, vì lợi ích cá nhân, cục bộ đã tìm cách đánh
giá sai, thiếu công tâm, khách quan giá trị thực số tài sản hiện có của doanh
15
nghiệp. Sau khi tiến hành cổ phần hoá họ tìm mọi cách để thôn tính dần số cổ
phiếu của cổ đông là Nhà nước, mua gom số cổ phiếu khác dưới nhiều thủ đoạn
tinh vi nhằm thâu tóm quyền lực, thao túng doanh nghiệp cổ phần dưới nhiều
hình thức.
* TCCSĐ ở DNCPH của TCHC:
TCCSĐ ở DNCPH củaTCHC là bộ phận hợp thành hệ thống tổ chức của
Đảng bộ TCHC, là nền tảng, hạt nhân chính trị trong doanh nghiệp cổ phần, là
nơi quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của DNCP, tiến hành công tác
xây dựng Đảng, trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện, phát triển đảng viên, đại
diện và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ công nhân viên, người lao
động trong DNCP.
TCCSĐ ở DNCPH của TCHC gồm TCCSĐ ba cấp và hai cấp. Hoạt động
theo Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, hướng dẫn của ban bí thư, phục tùng sự lãnh đạo
trực tiếp của Đảng uỷ TCHC.
Các TCCSĐ ở DNCPH của TCHC là một tổ chức chặt chẽ và khoa học
cùng với các loại hình TCCSĐ khác góp phần bảo đảm cho sự vững chắc cho
toàn Đảng bộ TCHC.
- Vị trí, vai trò của TCCSĐ ở DNCPH của TCHC
Tổ chức cơ sở đảng là cầu nối giữa Đảng bộ TCHC và các cơ quan
chức năng của Tổng cục với quần chúng
Do đặc điểm về tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của TCCSĐ trong
DNCPH của TCHC nên mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng trong doanh
nghiệp chỉ có thể thông qua cầu nối trực tiếp là các TCCSĐ. Là tổ chức lãnh
đạo của Đảng ở doanh nghiệp trực tiếp liên hệ với quần chúng hàng ngày nên
TCCSĐ có điều kiện nắm rõ tâm tư, nguyện vọng, của quần chúng để báo cáo
với Đảng, giúp cho các cơ quan chức năng của Tổng cục nghiên cứu và giải
quyết kịp thời. Mặt khác, Đảng muốn đưa đường lối chủ trương đến với quần
16
chúng cũng phải thông qua công tác tuyên truyền giáo dục và tổ chức thực hiện
của các TCCSĐ. Vì vậy, TCCSĐ ở DNCPH của TCHC có vai trò làm cầu nối
giữa Đảng bộ Tổng cục với quần chúng ở doanh nghiệp và làm cho mối liên hệ
giữa Đảng với quần chúng ngày càng mật thiết, bền chặt.
TCCSĐ ở DNCPH của TCHC là hạt nhân chính trị ở cơ sở, nơi trực tiếp
đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào quần chúng và tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương chính sách ấy
Đường lối chủ trương chính sách của Đảng, các chỉ thị hướng dẫn của trên
muốn thâm nhập vào quần chúng và được thực hiện phải thông qua nhiều khâu,
nhiều bước, nhiều tổ chức, trong đó trực tiếp nhất là thông qua hoạt động lãnh
đạo của các TCCSĐ trong doanh nghiệp. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
uỷ TCHC và các cơ quan nghiệp vụ TCCSĐ ở DNCPH của TCHC có trách
nhiệm cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, chỉ thị hướng
dẫn của cấp trên thành nhiệm vụ chính trị của mỗi doanh nghiệp. Tiến hành
tuyên truyền vận động và tổ chức quần chúng chấp hành nghiêm đường lối chủ
trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước. Thông qua quá trình
quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, chỉ thị hướng dẫn của Bộ quốc phòng và TCHC,
TCCSĐ có trách nhiệm báo cáo với các cơ quan lãnh đạo cấp trên những kiến
nghị, góp ý của quần chúng ở doanh nghiệp về đường lối chính sách đã ban
hành để Đảng uỷ TCHC nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện chính sách cho phù
hợp. Vì vậy, thắng lợi của đường lối chủ trương chính sách của Đảng và sự
hoàn thành nhiệm vụ của các doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào vai trò lãnh
đạo và tổ chức thực hiện của TCCSĐ. Không có TCCSĐ và hoạt động lãnh đạo
của nó đối với quần chúng thì mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, của Bộ Quốc phòng và của TCHC chỉ dừng lại ở khâu ra văn bản
nghị quyết, chỉ thị mà thôi.
Là hạt nhân chính trị ở doanh nghiệp TCCSĐ có trách nhiệm kiểm tra, giám
17
sát mọi hoạt động của cơ quan quản lý, chỉ huy và đội ngũ cán bộ chủ trì ở doanh
nghiệp. Với chức năng lãnh đạo, TCCSĐ không chỉ đảm bảo cho tổng giám đốc
(giám đốc), bí thư đảng uỷ hoàn thành chức trách của mình, mà còn kiểm tra, giám
sát đội ngũ cán bộ chủ trì doanh nghiệp thực hiện đúng đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của Bộ quốc phòng và
Tổng cục. Tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm góp phần bổ sung, hoàn thiện
phát triển đường lối chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, quân đội và
TCHC.
TCCSĐ là nơi trực tiếp xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của doanh nghiệp
Quản lý, giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng viên, xây dựng đội ngũ
cán bộ là nhiệm vụ thường xuyên quan trọng của toàn Đảng bộ TCHC và TCCSĐ
ở các DNCPH. TCCSĐ là nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên.
Đảng viên dù đảm nhiệm cương vị, trọng trách nào trong doanh nghiệp cũng đều
phải tham gia sinh hoạt và chịu sự quản lý của TCCSĐ ở doanh nghiệp đó. TCCSĐ
trực tiếp tác động tới từng đảng viên và giáo dục, rèn luyện họ trở thành những
đảng viên ưu tú. Thông qua các nghị quyết lãnh đạo, thông qua công tác tư tưởng
và tổ chức, bằng các biện pháp quản lý, duy trì các chế độ nề nếp sinh hoạt đảng,
phân công nhiệm vụ cho đảng viên, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra,
giám sát đảng viên và chấp hành kỷ luật đảng để giáo dục, rèn luyện đảng viên. Với
vai trò là cầu nối trực tiếp giữa Đảng với quần chúng, TCCSĐ có điều kiện lựa
chọn những quần chúng ưu tú, có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để bồi dưỡng, giáo dục,
rèn luyện, thử thách, kết nạp họ vào Đảng, tăng thêm nguồn sinh lực cho Đảng, góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Thông qua việc quản
lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, TCCSĐ có trách nhiệm phát hiện, bồi dưỡng và
rèn luyện đội ngũ cán bộ cho đảng bộ TCHC để làm nguồn cán bộ chủ trì các
doanh nghiệp.
TCCSĐ ở DNCPH của TCHC có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn
bộ công tác xây dựng và hoạt động của Đảng bộ TCHC. Vì vậy, thường xuyên chăm
18
lo xây dựng, củng cố TCCSĐ TSVM, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo toàn
diện và sức chiến đấu của TCCSĐ, làm cho TCCSĐ thật sự trở thành nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở các DNCPH là trách nhiệm của Đảng uỷ, cơ quan chính
trị TCHC, của bản thân TCCSĐ và của mọi cán bộ đảng viên trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nước nói chung và các doanh nghiệp ở TCHC nói
riêng sau khi cổ phần hoá chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, tham gia vào
kinh tế thị trường, hoạt động theo cơ chế thị trường. Hay nói một cách khác là
từ doanh nghiệp có một chủ sở hữu là Nhà nước, có một tổ chức đảng lãnh
đạo toàn diện, nay chuyển sang doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu có các cơ
quan lãnh đạo, quản lý khác nhau trong doanh nghiệp. Như vậy, ở đây đã diễn
ra sự thay đổi trong quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Trong những mối
quan hệ cơ bản của bản thân quan hệ sản xuất, thì quan hệ sở hữu tư liệu sản
xuất quyết định mục đích sản xuất, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh,
phương thức quản lý, cách thức phân phối sản phẩm. Quan hệ sở hữu tư liệu
sản xuất trở thành quan hệ bản chất của quan hệ sản xuất, luôn chi phối và
thống nhất với quan hệ phân phối kết quả sản xuất. Đồng thời cơ chế quản lý
và phân phối sản phẩm là biểu hiện trực tiếp, cụ thể của quan hệ sở hữu tư
liệu sản xuất. Ba mặt của quan hệ sản xuất quan hệ hữu cơ thẩm thấu nhau,
tạo thành một hệ thống với cấu trúc đồng bộ, tương hợp. Nếu thiếu sự thẩm
thấu, tương hợp, quan hệ sản xuất sẽ không vận hành và phát triển bình
thường được. Bởi vậy, sau khi doanh nghiệp được cổ phần hoá, chế độ sở hữu
đã có sự thay đổi mà không thấy sự tương tác, thống nhất của cơ chế quản lý,
của chế độ phân phối sẽ rơi vào cách nhận thức siêu hình. Do đó, phải có sự lãnh
đạo để gắn kết chặt chẽ ba mặt cơ bản của quan hệ sản xuất mới tạo ra được
động lực mạnh mẽ để thúc đẩy sự phát triển, như Đại hội Đảng VIII đã khẳng
định “chế độ sở hữu, cơ chế quản lý và chế độ phân phối gắn kết với nhau, giải
phóng sức sản xuất, tạo ra động lực mạnh mẽ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực
hiện công bằng xã hội ”. Cho nên, khi tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp,
19
chúng ta không thể làm tuỳ tiện, vì sự tuỳ tiện sẽ dẫn đến các quan điểm sai trái
về nhận thức trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới, sẽ có nguy cơ đi chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Để bảo đảm gắn kết chặt chẽ ba mặt cơ bản của quan hệ
sản xuất với nhau trong doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước, nhằm phát huy
được các nguồn lực, tạo ra động lực mạnh mẽ, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh
doanh, thực hiện tốt các chính sách xã hội, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì tăng cường vai trò lãnh đạo, kiểm tra của
tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghiệp cổ phần hoá là một tất yếu, có ý nghĩa
quyết định.
Đảng và Nhà nước ta coi kinh tế thị trường là công cụ, phương tiện, biện
pháp, bước đi để đi lên chủ nghĩa xã hội. Phát triển kinh tế thị trường ở nước
ta là sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc chuyển sang nền
kinh tế thị trường không đơn thuần là một quá trình kinh tế mà bao giờ cũng
phải gắn liền với những thay đổi lớn, căn bản về mặt xã hội. Tính thống nhất
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là một nguyên tắc.
Trong doanh nghiệp cổ phần nguyên tắc này không phải lúc nào cũng được bảo
đảm khi mục đích đầu tiên của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là nhằm tìm kiếm
lợi nhuận và đạt được lợi nhuận ngày càng cao. Sự thống nhất hài hoà giữa phát
triển kinh tế – xã hội chỉ có thể đạt được khi có sự lãnh đạo của Đảng thông qua
sự quản lý, can thiệp của Nhà nước bằng luật pháp, bằng các chiến lược vĩ mô và
thông qua tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghiệp. Với vai trò là hạt nhân chính trị
ở cơ sở, tổ chức cơ sở đảng thực hiện chức năng lãnh đạo doanh nghiệp trên cơ sở
bảo đảm quyền tự chủ, sáng tạo trong kinh doanh mà vẫn bảo đảm được lợi ích
của xã hội nói chung và người lao động nói riêng, không để xảy ra tình trạng và
xu thế làm kinh tế bằng mọi giá bất chấp luật pháp.
Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng ở doanh nghiệp cổ phần
hoá Tổng cục Hậu cần
Căn cứ vào quy định số 114/QĐTW ngày 8/8/2008 của BCHTW, quy định chức
20
năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong doanh nghiệp Quân đội như sau:
- Chức năng: Đảng bộ, chi bộ cơ sở trong doanh nghiệp Quân đội là hạt
nhân chính trị, lãnh đạo các mặt công tác, mọi hoạt động của doanh nghiệp;
xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng doanh
nghiệp vững mạnh toàn diện; hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
- Nhiệm vụ:
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
Thường xuyên giáo dục, quán triệt để cán bộ, công nhân viên, nắm vững
nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Lãnh đạo quán triệt và thực hiện quan điểm của Đảng về công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, hoàn thành nhiệm vụ sản xuất quốc phòng và kinh
tế đạt năng xuất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội cao, đúng đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của Quân đội.
Lãnh đạo công tác tư tưởng
Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và quần chúng; phát huy truyền thống yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, truyền thống của Đảng, quân đội và đơn vị; thực
hiện nghiêm chương trình học tập chính trị theo quy định cho các đối tượng
trong đơn vị; xây dựng tinh thần làm chủ, tình đoàn kết, hợp tác và giúp đỡ
lẫn nhau trong cán bộ, chiến sĩ; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cán
bộ, đảng viên, quần chúng để giải quyết và báo cáo lên cấp trên.
Kịp thời phổ biến, quán triệt để cán bộ, đảng viên và quần chúng nắm vững
và chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
các chủ trương, nhiệm vụ của doanh nghiệp; thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao
trình độ chính trị, kiến thức và năng lực công tác cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng.
Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng đấu tranh chống các quan
điểm sai trái, tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bản vị, những hành vi nói,
- Xem thêm -