Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng tổ chức cơ sở đảng tại xã, phường, thị trấn ở tỉnh bắc giang từ năm 199...

Tài liệu Xây dựng tổ chức cơ sở đảng tại xã, phường, thị trấn ở tỉnh bắc giang từ năm 1997 đến năm 2014

.PDF
108
306
124

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------- VŨ THỊ MINH HUYỀN XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TẠI XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN Ở TỈNH BẮC GIANG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2014 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI- 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Vũ Thị Minh Huyền ----------------------- VŨ THỊ MINH HUYỀN XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TẠI XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN Ở TỈNH BẮC GIANG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2014 Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 03 15 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Quang Hiển HÀ NỘI- 2015 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCH: Ban Chấp hành BTC: Ban Tổ chức BTG: Ban Tuyên giáo BTV: Ban Thường vụ CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa HĐND: Hội đồng nhân dân MTTQ: Mặt trận Tổ quốc TCCSĐ: Tổ chức cơ sở đảng TW: Trung ương UBND: Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Hệ thống tổ chức của Đảng được chia thành 4 cấp từ TW đến địa phương. Trong hệ thống ấy, TCCSĐ (chi bộ và đảng bộ cơ sở) là cấp cuối cùng được lập ra ở các xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị khác. TCCSĐ giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng, là nền tảng, đơn vị cơ bản của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với quần chúng. Xã, phường, thị trấn (cấp xã) là đơn vị hành chính cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính 4 cấp ở Việt Nam. Ở các xã, phường, thị trấn, TCCSĐ vừa là nơi trực tiếp thực hiện mọi đường lối, chủ trương của Đảng thành hành động của đảng viên và quần chúng nhân dân; vừa là nơi tập hợp những kinh nghiệm, sáng kiến, trí tuệ của đảng viên và quần chúng nhân dân, thông qua việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Đồng thời, TCCSĐ cũng là nơi tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng, lựa chọn, bồi dưỡng, rèn luyện, theo dõi và kết nạp đảng viên, đào tạo cán bộ nhằm bổ sung nguồn lực mới cho TCCSĐ và chính quyền cấp cơ sở. Qua đó, góp phần tăng cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và đảm bảo sự kế thừa, phát triển liên tục của Đảng. Chất lượng của TCCSĐ là yếu tố tiên quyết tạo nên sức mạnh của Đảng và uy tín của Đảng trước quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, “Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh. Chi bộ mạnh là do các đảng viên hăng hái và gương mẫu” [53, tr.29]. TCCSĐ mạnh hay không mạnh, việc làm của TCCSĐ và đảng viên tốt hay không tốt đều có tác động mạnh mẽ đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Do vậy, “cần phải ra sức củng cố các chi bộ, để tất cả các chi bộ trở nên thật sự là hạt nhân lãnh đạo của Đảng ở mọi bộ, mọi ngành, mọi nghề, mọi nơi” [53, tr.30]. Kể từ ngày thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác xây dựng TCCSĐ, coi đó là một trong những nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng hàng đầu 1 của công tác xây dựng Đảng. Những thành tựu đạt được trong công tác xây dựng TCCSĐ đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt từ khi đất nước bước vào thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH, nhiệm vụ xây dựng Đảng (trong đó có nội dung xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn) được coi là nhiệm vụ then chốt. Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác xây dựng TCCSĐ vẫn còn hạn chế. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng (khóa X) khẳng định: “Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên còn một số khiếm khuyết, yếu kém: nhiều cấp ủy chưa thực sự coi trọng vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng; không ít TCCSĐ chưa nhận thức và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của TCCSĐ…” [58, tr.1423]. Chính vì thế, việc nâng cao chất lượng của TCCSĐ một cách toàn diện luôn luôn là một nhiệm vụ chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Bắc Giang là vùng đất có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Tỉnh Bắc Giang nằm gần các trung tâm thương mại của khu vực phía Bắc, gần thị trường Trung Quốc rộng lớn, có mạng lưới giao thông đường bộ, đường thủy tương đối thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Bước vào thời kì CNH, HĐH đất nước, tỉnh Bắc Giang đã và đang đạt được những thành tựu đáng kể trong nhiều lĩnh vực. Đạt được những thành công ấy, có một phần đóng góp rất lớn của việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang. Sự phấn đấu bền bỉ ấy thể hiện Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang luôn tin tưởng và thực hiện những nhiệm vụ mà Đảng Cộng sản Việt Nam giao phó. Sau khi tái lập tỉnh (năm 1997), Đảng bộ tỉnh Bắc Giang luôn chú trọng thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, trong đó đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng TCCSĐ làm nền tảng cho mọi thắng lợi. Qua thời gian, mô hình TCCSĐ của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang ngày càng hoàn thiện, gồm các loại hình TCCSĐ: xã, phường, thị trấn; cơ quan hành chính; cơ sở sự nghiệp; doanh nghiệp; quân đội, công an. Trong đó, số lượng TCCSĐ xã, phường, thị trấn luôn chiếm khoảng 30% tổng số TCCSĐ, 2 với trên 75% số lượng đảng viên của toàn Đảng bộ. Do vậy, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang luôn quan tâm đến hoạt động xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn, nhằm đạt được những thắng lợi trong công tác xây dựng TCCSĐ và xây dựng Đảng nói chung. Đây chính là một trong những yếu tố góp phần rất lớn cho sự phát triển của địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó, công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang còn một số mặt chưa làm được. Điều đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, tổng hợp, rút ra những kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề đặt ra, nhằm đưa công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang đạt được những kết quả cao hơn. Với ý nghĩa khoa học thực tiễn đó, đồng thời nhằm tìm hiểu sâu hơn quá trình xây dựng TCCSĐ ở tỉnh Bắc Giang từ khi tái lập tỉnh (năm 1997) trong hướng nghiên cứu khoa học của mình và để thể hiện tấm lòng tri ân đối với mảnh đất nơi tôi đã sinh ra và trưởng thành, được sự khuyến khích của thầy giáo hướng dẫn, tôi chọn đề tài: “Xây dựng tổ chức cơ sở đảng tại xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến năm 2014” để làm Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nghiên cứu công tác xây dựng Đảng, trong đó có nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ luôn có ý nghĩa khoa học thực tiễn và mang tính thời sự. Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những góc độ khác nhau về xây dựng TCCSĐ, có đề cập đến công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn, gồm những nhóm như sau: 2.1. Các công trình nghiên cứu về Đảng và xây dựng TCCSĐ Cuốn sách “Về xây dựng Đảng” (Hồ Chí Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1981) trình bày những tư tưởng của Người về các vấn đề liên quan đến nhiệm vụ xây dựng Đảng, trong đó có nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ nói chung. Cuốn sách “Xây dựng Đảng” (Viện Xây dựng Đảng, Học viện CHính trị quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999) là công trình tổng hợp những vấn đề 3 liên quan đến nội dung xây dựng Đảng, trong đó, có đề cập đến vấn đề xây dựng TCCSĐ. Cuốn sách nêu chức năng và nhiệm vụ của TCCSĐ và một số chủ trương, biện pháp nâng cao chất lượng TCCSĐ. Cuốn “Xây dựng Đảng, rèn luyện đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh” (Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003) tập hợp các tác phẩm, bài nói, bài viết quan trọng của Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng và các công trình nghiên cứu khoa học khác. Trong “Tổ chức cơ sở đảng với cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng” (Nguyễn Cúc, Lê Phương Thảo, Doãn Hùng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004), vấn đề xây dựng TCCSĐ cũng luôn được nhấn mạnh trong cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng. Các cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” (Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2005); “Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, giáo dục và nâng cao chất lượng đảng viên trong thời đại Hồ Chí Minh” (Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2005); “Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng” (Thanh Quang, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2009): trình bày những quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình cách mạng; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của một số nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam về nội dung xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Trên đây là một số tác phẩm tiêu biểu có đề cập đến các chủ trương, đường lối lãnh đạo xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là những tư liệu quan trọng viết về quá trình xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng, trong đó có nội dung xây dựng TCCSĐ nói chung, công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn nói riêng. 4 2.2. Những tài liệu liên quan đến sự lãnh đạo, xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, tập I (1925 - 1975) (Tỉnh ủy Bắc Giang, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999)” và “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, tập II (1975 - 2005)” (Tỉnh ủy Bắc Giang, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008): ghi lại lịch sử vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh; tổng kết những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ trong 2 chặng đường từ năm 1925 đến năm 1975 và từ năm 1975 đến năm 2005. Trong đó, công tác xây dựng Đảng nói chung và xây dựng TCCSĐ được đề cập đến với vị trí quan trọng trong nhiệm vụ chung của Đảng bộ, nhất là sau khi tái lập tỉnh Bắc Giang (1997). “Bắc Giang, những chặng đường lịch sử” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005) là cuốn sách khái quát lịch sử truyền thống của địa phương trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, đậm nét nhất là thời kì từ khi có Đảng lãnh đạo. Nội dung xây dựng, củng cố TCCSĐ, trong đó có hoạt động xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang được nhấn mạnh từ sau khi đất nước giành được độc lập, thể hiện sự thường xuyên và liên tục trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ. Ngày 17-11-2004, Trường Chính trị Tỉnh Bắc Giang tổ chức Hội thảo Khoa học “Đánh giá thực trạng, phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng bộ các xã miền núi tỉnh Bắc Giang”. Hội thảo nghiên cứu khảo sát 163 xã miền núi; tổng kết thực tiễn 36 đảng bộ xã, 73 chi bộ trên 9 huyện của tỉnh. Tại Hội thảo, 33 tham luận nêu bật thực trạng và các giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của TCCSĐ từ lãnh đạo chính quyền, đoàn thế, lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến việc thực hiện nghị quyết, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, phân công nhiệm vụ đảng viên, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên… (nguồn: Tổng hợp qua các báo địa phương (2004), Tạp chí Xây dựng Đảng, số 12 - 2004, trang 46). Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu khác có đề cập đến nội dung xây dựng TCCSĐ được thực hiện ở Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang, như: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở”, Tạ Văn Thử (1999); “Đào 5 tạo, bồ i dưỡng cán bộ cơ sở về xây dựng Đảng và quản lý Nhà nước ở tỉnh Bắ c Giang, thực trạng và giải pháp” , Tạ Văn Thử (2000), “Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nông thôn huyện Yên Thế”, Vũ Cao Hải (2003); “Đánh giá toàn diện về vai trò lãnh đạo của đảng bộ cơ sở các xã vùng núi trong tỉnh. Nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị với các cấp nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của các đảng bộ cơ sở, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn”, Nguyễn Xuân Trường (2005); “Thực trạng, giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ nông thôn trên địa bàn huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang”, Nguyễn Xuân Cường (2011) (nguồn: Tổng hợp Kết quả hoạt động khoa học từ 1997 - 2011 trường Chính trị Tỉnh Bắc Giang, đăng trên trang web Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang: http://truongchinhtribg.gov.vn/home/vi/news/Hoat-dong/Ket-qua-hoat-dongkhoa-hoc-tu-nam-1997-den-2011-cua-truong-Chinh-tri-26). Bên cạnh đó, công tác xây dựng Đảng ở tỉnh Bắc Giang cũng đã được đề cập và nghiên cứu trong các Khóa luận Tốt nghiệp Đại học, Luận văn Thạc sĩ như: Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam “Đảng bộ Thị xã Bắc Giang lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng Đảng thời kỳ 1996 - 2000” (Nguyễn Thanh Xuân, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2006): trình bày những chủ trương xây dựng Đảng của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (1996 - 2000); tổng kết quá trình thực hiện công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ thị xã Bắc Giang và khẳng định những đóng góp của Đảng bộ thị xã trong sự phát triển chung của tỉnh. Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam“Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng Đảng thời kỳ 2001 - 2006” (Nguyễn Thi Hường, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2010): trình bày những chủ trương và biện pháp chỉ đạo cũng như những thành tựu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đã đạt được trong lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng Đảng (2001 - 2006); đưa ra những nhận xét khách quan về công tác xây dựng Đảng 6 của Đảng bộ cũng như rút ra những kinh nghiệm lịch sử trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, “Đảng bộ huyện Lục Nam (Bắc Giang) thực hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở đảng từ năm 2005 đến năm 2010” (Chu Thị Lụa, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2012): đề cập đến những chủ trương xây dựng TCCSĐ của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2005 - 2010); trình bày quá trình xây dựng TCCSĐ của Huyện ủy Lục Nam (Bắc Giang) từ năm 2005 đến năm 2010; nêu ra những nhận xét và rút ra kinh nghiệm về công tác xây dựng TCCSĐ của Đảng bộ huyện Lục Nam. Luận văn Thạc sĩ ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước “Công tác phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số ở các đảng bộ xã của tỉnh Bắc Giang giai đoạn hiện nay” (Nguyễn Thị Thu Hiền, mã số 60 31 02 03, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2012): trình bày quan niệm, vai trò và các bước tiến hành công tác phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số ở các đảng bộ xã của tỉnh Bắc Giang; phân tích, đánh giá thực trạng công tác phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số ở các đảng bộ xã của tỉnh từ năm 2006 đến năm 2011, qua đó xác định nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm thực tế; đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số ở các đảng bộ xã của tỉnh Bắc Giang đến năm 2015. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam “Công tác xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang từ năm 2000 đến năm 2010” (Đinh Hữu Thuận, mã số 60 22 03 15, Trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, Hà Nội, 2014): trình bày những chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang trong công tác xây dựng đội ngũ đảng viên từ năm 2000 đến năm 2010; đưa ra những đánh giá về thành tựu, hạn chế, tìm ra nguyên nhân và đúc rút kinh nghiệm về quá trình xây dựng đảng viên của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang. Trên đây là một số công trình nghiên cứu về lịch sử tỉnh Bắc Giang, có đề cập đến công tác xây dựng TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn, cung cấp cho tác giả những nội dung quan trọng và cách nhìn tổng quát nhất cho việc nghiên cứu đề tài. 7 2.3. Những vấn đề các công trình nghiên cứu chưa làm sáng tỏ Những công trình trên mới chỉ góp phần cung cấp hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về công tác xây dựng Đảng. Các vấn đề liên quan đến nhiệm vụ xây dựng Đảng, trong đó có nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ, hoạt động xây dựng TCCSĐ tại xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang mới được đề cập một cách sơ lược, khái quát trong những công trình này. Các công trình chưa nghiên cứu công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Bắc Giang một cách sâu rộng cả về không gian (tỉnh Bắc Giang) và thời gian. Hầu hết, những chủ trương và biện pháp thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ nói chung, xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn nói riêng mới chỉ được thể hiện ở các địa phương cụ thể trong các công trình nghiên cứu, chưa đem đến cái nhìn toàn cảnh và rõ nét về vấn đề xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang. 2.4. Những vấn đề Luận văn cần đi sâu nghiên cứu Từ những tài liệu sưu tầm và nghiên cứu, tác giả nhận thấy cần phải đi sâu nghiên cứu những chủ trương, biện pháp thực hiện và thành tựu đạt được của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang trong công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn. Luận văn hi vọng sẽ khắc họa rõ nét thêm những thành tựu và hạn chế, rút ra những kinh nghiệm lịch sử trong công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến năm 2014. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn làm sáng tỏ quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến năm 2014. Từ đó, rút ra được những kinh nghiệm trong công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn nói riêng và trong công tác xây dựng TCCSĐ nói chung. 8 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Sưu tầm, hệ thống hóa tư liệu và tổng hợp các tư liệu về quá trình xây dựng, củng cố TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang. - Trình bày hệ thống các chủ trương, biện pháp và việc thực hiên nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ tại xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến năm 2014. - Nêu lên những nhận xét, đánh giá về ưu điểm, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm về công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Những chủ trương và biện pháp của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ, trong đó có công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn. - Quá trình chỉ đạo thực hiện và kết quả xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian: Tỉnh Bắc Giang - Thời gian: Đề tài giới hạn phạm vi thời gian nghiên cứu từ năm 1997 (tái lập tỉnh Bắc Giang) đến năm 2014 (mốc dừng tương đối của sự nghiên cứu). - Nội dung nghiên cứu: + Những điều kiện ảnh hưởng đến công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở Bắc Giang. + Những chủ trương và biện pháp chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn. 9 + Công tác xây dựng tổ chức ở các chi bộ, đảng bộ cơ sở (loại hình xã, phường, thị trấn) trong tỉnh Bắc Giang. 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tài liệu - Các văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2015, nhất là các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), IX (2001), X (2006), XI (2011) của Đảng. - Các văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến năm 2015. - Các đề án, nghị quyết, kế hoạch, báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng hàng năm của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến năm 2015. - Các sách, báo, tạp chí nghiên cứu về Lịch sử Đảng và Xây dựng Đảng… 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic làm phương pháp nghiên cứu chính. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích số liệu… để làm rõ nội dung và đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang. 6. Đóng góp của Luận văn - Luận văn trình bày những chủ trương và biện pháp thực hiện của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn, từ năm 1997 đến năm 2014. - Trên cơ sở những nhận xét, Luận văn rút ra những kinh nghiệm lịch sử về công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn. - Luận văn cung cấp một số tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu về công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang. 10 7. Bố cục của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, cấu trúc của Luận văn gồm ba chương: Chương 1: Đảng bộ tỉnh Bắc Giang thực hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn từ năm 1997 đến năm 2005. Chương 2: Tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở đảng tại xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang từ năm 2006 đến năm 2014. Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử. 11 Chƣơng 1 ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005 1.1. Những yếu tố tác động đến nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phƣờng, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang và chủ trƣơng của Đảng bộ 1.1.1. Những yếu tố tác động - Sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và yêu cầu của công tác xây dựng TCCSĐ Đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh thực hiện CNH, HĐH kể từ năm 1996, song nền kinh tế Việt Nam phát triển chưa bền vững. Báo cáo Chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) nhận định, trong 10 năm đổi mới, Đảng đề ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện dần đường lối đổi mới một cách đúng đắn, sáng tạo, hình thành ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đã có chủ trương và biện pháp đổi mới, chỉnh đốn Đảng gắn với nhiệm vụ và biện pháp đổi mới, chỉnh đốn Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, kiện toàn hệ thống chính trị; Đổi mới một bước tổ chức cán bộ, nâng cao trình độ và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên, ngăn chặn được sự sa sút, yếu kém của nhiều TCCSĐ, bước đầu cải tiến phương thức lãnh đạo và phong cách công tác. Công tác kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, kiểm tra giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ đảng viên và việc xử lý kỷ luật Đảng có tiến bộ [58, tr.1340-1341]. Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng vẫn còn nhiều mặt yếu kém và khuyết điểm: “Đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức lối sống, một số thoái hóa về chính trị; trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo của Đảng có mặt chưa theo kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được làm 12 sáng tỏ; TCCSĐ ở nhiều nơi còn yếu kém; phương thức lãnh đạo và sinh hoạt lúng túng, có tình trạng vừa kém dân chủ vừa thiếu kỷ luật, kỷ cương; công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, quan điểm, chỉ thị, nghị quyết của Đảng chưa được chú trọng” [58, tr.1341-1342]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh nhiệm vụ cần phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục những yếu kém và tiêu cực: “Đảng phải mạnh từ TW đến cơ sở, ở tất cả các cấp, các ngành. Trong công tác xây dựng Đảng, cần phải thường xuyên nắm vững và quán triệt các nhiệm vụ sau: giữ vững và tăng cường bản lĩnh giai cấp công nhân; nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ đảng viên; kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế cận; nâng cao sức chiến đấu của TCCSĐ, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” [58, tr.1342]. Từ ngày 25-1 đến ngày 2-2-1999, Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) diễn ra tại Hà Nội, thông qua Nghị quyết “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết đề ra 10 nhiệm vụ xây dựng Đảng, trong đó có công tác xây dựng TCCSĐ cùng các giải pháp cụ thể, đồng bộ và kiên quyết nhằm xây dựng và chỉnh đốn tổ chức đảng. Nhiều nghị quyết của TW Đảng đề ra những chủ trương, giải pháp củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) BCH TW Đảng (khóa VIII) [45, tr.71]. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001), nhiệm vụ xây dựng Đảng càng được chú trọng hơn, trong đó có nhiệm vụ xây dựng, củng cố các TCCSĐ: “Tất cả các đảng bộ, chi bộ đều phải phấn đấu thực hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Các cấp ủy trên phải tập trung chỉ đạo củng cố 13 các đảng bộ, chi bộ yếu kém, kịp thời kiện toàn cấp ủy và tăng cường cán bộ ở những nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết; Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy; Phân công, hướng dẫn, kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu; giữ mối liên hệ với quần chúng ở nơi công tác, với chi bộ và nhân dân nơi cư trú; Phát triển đảng viên theo đúng tiêu chuẩn; Đổi mới việc phân tích, đánh giá chất lượng các TCCSĐ và đảng viên” [45, tr.55]. Ngày 18-3-2002, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng (khóa IX) “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn” được ban hành. Nghị quyết đề cập đến 6 nội dung: Đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ sở. Đổi mới và nâng cao hiệu lực của chính quyền cơ sở. Đổi mới công tác mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở. Đổi mới sự chỉ đạo của cấp trên đối với cơ sở [7]. Trong mỗi nội dung, Nghị quyết đưa ra những nhiệm vụ cần thực hiện cụ thể đối với các TCCSĐ xã, phường, thị trấn. Những yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và các chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác xây dựng Đảng chính là nền tảng để Đảng bộ tỉnh Bắc Giang có những định hướng xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn phù hợp với điều kiện địa phương ngay sau khi tái lập. - Tình hình tỉnh Bắc Giang và vấn đề xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn Tại kì họp lần thứ 10 (6-11-1996), Quốc hội khóa IX ra Nghị quyết chia tỉnh Hà Bắc ra làm 2 tỉnh là Bắc Giang và Bắc Ninh. Bộ Chính trị ra quyết định thành lập Đảng bộ tỉnh Bắc Giang và chỉ định BCH (lâm thời) Đảng bộ tỉnh. “Tỉnh Bắc Giang chính thức đi vào hoạt động và làm việc theo đơn vị hành chính mới từ ngày 1-11997” [3, tr.338]. Như vậy, từ năm 1997, Bắc Giang bước sang giai đoạn phát triển mới, với nhiều thuận lợi và khó khăn. 14 Về thuận lợi: Trước hết, Bắc Giang là vùng đất có truyền thống văn hiến lâu đời. “Kể từ khi có Đảng và Bác Hồ lãnh đạo, những truyền thống tốt đẹp của nhân dân các dân tộc Bắc Giang được phát huy mạnh mẽ và nhân lên gấp bội, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chống Pháp, chống Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang đang bền bỉ và quyết tâm phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH để xây dựng quê hương ngày càng thêm giàu mạnh” [3, tr.5]. Hai là, sau hơn 10 năm (1986 - 1996) thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh nỗ lực phấn đấu tạo nên sự phát triển mới cho nền kinh tế trong tỉnh: Nhịp độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt khá, cơ cấu kinh tế chuyển biến theo hướng tích cực, cơ chế quản lý có chuyển biến tiến bộ. Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống nhân dân trong tỉnh được cải thiện từng bước. Ba là, công tác xây dựng chính quyền, đoàn thể và TCCSĐ, trong đó có TCCSĐ xã, phường, thị trấn đạt nhiều kết quả; năng lực tổ chức chỉ đạo và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ từng bước được nâng cao. Tính đến tháng 11997, tỉnh Bắc Giang có 211 đảng bộ xã, phường, thị trấn trong tổng số 740 TCCSĐ. Công tác xây dựng TCCSĐ được Đảng bộ tỉnh chỉ đạo thực hiện gắn liền với nhiệm vụ củng cố các cơ sở đảng yếu kém. Năm 1996, số lượng TCCSĐ xã, phường, thị trấn đạt trong sạch, vững mạnh tăng, chiếm 53,3%, đồng thời số lượng TCCSĐ yếu kém giảm xuống còn 3,4% [61, tr.10]. Trong quá trình thực hiện xây dựng TCCSĐ tại xã, phường, thị trấn, đội ngũ cán bộ của Đảng bộ có nhiều kinh nghiệm quý báu, để phát huy trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở những năm tiếp theo. Những thành tựu trên tạo nhiều điều kiện thuận lợi để Đảng bộ tỉnh Bắc Giang tiếp tục thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ, trong đó có nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn. 15 Bên cạnh những thuận lợi, tỉnh Bắc Giang mới tái lập cũng gặp rất nhiều khó khăn: Thứ nhất, nền kinh tế tuy có bước phát triển song ở điểm xuất phát thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm, công nghiệp quốc doanh địa phương nhỏ bé, năng lực thiết bị, trình độ công nghệ lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng còn thấp kém, nhiều vấn đề xã hội chưa có biện pháp giải quyết hiệu quả. Những điều kiện kinh tế này ảnh hưởng đến sự thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng tại các cấp cơ sở. Đời sống nhân dân còn khó khăn, vì thế tập trung vào phát triển kinh tế, thiếu điều kiện để tham gia xây dựng TCCSĐ, nhất là TCCSĐ cấp xã, phường, thị trấn ở địa phương mình. Thứ hai, Bắc Giang mới được tái lập chính thức từ ngày 1-1-1997, các cơ quan lãnh đạo được kiện toàn, song sự hoạt động của bộ máy chính quyền còn chưa thực sự đi vào “guồng”. Bởi sau khi tách tỉnh, có nhiều vấn đề nảy sinh phức tạp, cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề phân chia địa giới hành chính và quản lý dân cư ở các vùng giáp ranh tỉnh Bắc Ninh. Thứ ba, Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn nhiều yếu kém: “Một số TCCSĐ được công nhận là trong sạch, vững mạnh nhưng kinh tế địa phương chậm phát triển, đời sống nhân dân chưa được cải thiện, tiêu cực xã hội còn nhiều phức tạp; Có nơi còn vi phạm pháp luật, cá biệt có cán bộ, đảng viên vi phạm phải truy tố trước pháp luật; Công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong Đảng và nhân dân còn hạn chế, nội dung sinh hoạt chưa cải tiến, chất lượng nâng lên chậm, tinh thần tự phê bình và phê bình chưa cao, còn hữu khuynh tránh né; Lãnh đạo xây dựng chính quyền, đoàn thể nhân dân chưa được chú trọng đúng mức; Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn thiếu quan tâm, một số cơ sở chưa thực sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng và thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương” [61, tr.2]. Về xây dựng TCCSĐ, tỷ lệ TCCSĐ đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh các năm thấp. Bên cạnh đó, tỉnh Bắc Giang vẫn còn 25 TCCSĐ yếu kém, trong đó về TCCSĐ xã, phường, thị trấn yếu kém chiếm tới 92%, ở các đơn vị sau: Lục Ngạn 5; Lục Nam 11; Sơn Động, Yên Dũng, Tân Yên, mỗi đơn vị 2; Yên Thế 1 cơ sở. Ở 16 những TCCSĐ yếu kém, vai trò lãnh đạo của Đảng đạt hiệu quả thấp; Có nơi nội bộ mất đoàn kết, nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng bị buông lỏng; cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, một số vi phạm pháp luật, nhất là Luật Đất đai, làm giảm lòng tin đối với quần chúng nhân dân [61, tr.2]. Những khó khăn về kinh tế - xã hội, cũng như những sự hạn chế trong công tác xây dựng Đảng đặt ra những yêu cầu mới cho Đảng bộ tỉnh Bắc Giang. Đặc biệt để tiếp tục thực hiện xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn, Đảng bộ tỉnh cần phải tìm hiểu rõ những vấn đề phát sinh, cần giải quyết; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn và các loại hình TCCSĐ khác vững mạnh, tạo niềm tin vững chắc với nhân dân trong tỉnh, gắn liền với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đánh giá được những thuận lợi và khó khăn đó, ngay sau khi tái lập tỉnh, Tỉnh ủy lãnh đạo, chỉ đạo việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể, cũng như các đơn vị kinh tế, văn hóa xã hội để đưa hoạt động của tỉnh từng bước đi vào nền nếp. 1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ Sau ngày tái lập tỉnh, Tỉnh ủy Bắc Giang đề ra phương hướng, nhiệm vụ và các biện pháp cụ thể lãnh đạo việc ổn định tình hình sau khi chia tách tỉnh và tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương. Ngày 19-9-1997, Tỉnh ủy Bắc Giang (lâm thời) ban hành Kế hoạch số 19-KH/TU“Tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; củng cố cơ sở đảng yếu kém”. Kế hoạch tổng kết tình hình xây dựng TCCSĐ trước năm 1997; kết luận những thành tựu đạt được và tìm ra nguyên nhân của những hạn chế. Từ đây, Kế hoạch đặt ra những yêu cầu: Thứ nhất, Tăng cường sự đoàn kết trong Đảng và nhân dân về đường lối của Đảng, về sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, không dao động trước khó khăn và âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan