Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học các đoạn trích truyện kiều ở ...

Tài liệu Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học các đoạn trích truyện kiều ở lớp 9, trung học cơ sở.

.PDF
121
96
56

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ------------------- PHAN THỊ MAY XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC CÁC ĐOẠN TRÍCH TRUYỆN KIỀU Ở LỚP 9, TRUNG HỌC CƠ SỞ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN HÀ NỘI – 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ------------------- PHAN THỊ MAY XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC CÁC ĐOẠN TRÍCH TRUYỆN KIỀU Ở LỚP 9, TRUNG HỌC CƠ SỞ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC ( BỘ MÔN NGỮ VĂN) Mã số: 60 14 10 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Phan Trọng Luận HÀ NỘI – 2012 DANH MỤC VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Chú thích 1 GS Giáo sư 2 PT Phổ thông 3 SGK Sách giáo khoa 4 SGV Sách giáo viên 5 THCS Trung học cơ sở 6 TS Tiến sĩ 7 THPT Trung học phổ thông i DANH MỤC BẢNG Bảng 1.2.1. Thống kê số lượng câu hỏi trong dạy học các đoạn trích Truyện Kiều ................................................................................................................. 28 Bảng 3.4.1. Thang điểm đánh giá ................................................................... 80 Bảng 3.4.2.Kết quả kiểm tra lớp 9B................................................................ 80 Bảng 3.4.3. Kết quả bài kiểm tra lớp 9C ......................................................... 81 Bảng 3.4.4. Kết quả bài thực nghiệm và bài đối chứng ở tiết 27 “ chị em Thúy Kiều” ............................................................................................................... 81 Bảng 3.4.5. Kết quả bài thực nghiệm và bài đối chứng ở tiết 36 “Kiều ở lầu Ngưng Bích” ................................................................................................... 81 ii MỤC LỤC Lời cảm ơn ......................................................................................................... i Danh mục viết tắt ............................................................................................... i Danh mục bảng.................................................................................................. ii Mục lục ............................................................................................................... i MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 3 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5 4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5 5. Đối tượng và khách thể và nghiên cứu ......................................................... 5 6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .................. 7 1.1.Cơ sở lý luận ............................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm câu hỏi nêu vấn đề .......................................................... 7 1.1.2. Đặc điểm và nguyên tắc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề ..................... 8 1.1.3. Vai trò của câu hỏi nêu vấn đề ....................................................... 13 1.1.4. Phân loại hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong tác phẩm văn chương 15 1.1.5. Truyện Kiều chứa đựng những tiền đề cho việc ứng dụng câu hỏi nêu vấn đề ....................................................................................................... 18 1.1.6. Đặc điểm tâm lý của học sinh phù hợp với việc xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong Truyện Kiều ...................................................... 23 1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 27 1.2.1. Khảo sát hệ thống câu hỏi trong dạy học các đoạn trích Truyện Kiều thấy nhiều điểm không hợp lý .................................................................. 27 1.2.2. Nguyên nhân của sự hạn chế khi sử dụng các câu hỏi trong dạy học các đoạn trích Truyện Kiều ...................................................................... 31 iii Chƣơng 2: VẬN DỤNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC CÁC ĐOẠN TRÍCH TRUYỆN KIỀU ........................................................ 34 2.1. Những yêu cầu chính đối với câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học các đoạn trích Truyện Kiều ............................................................................................ 34 2.1.1. Câu hỏi nêu vấn đề phải tạo ra tình huống có vấn đề ...................... 34 2.1.2. Câu hỏi nêu vấn đề phải bám sát giá trị nội dung, nghệ thuật trong Truyện Kiều ............................................................................................. 34 2.1.3. Câu hỏi nêu vấn đề phải dựa vào đặc điểm tâm lý tiếp nhận của học sinh .......................................................................................................... 35 2.2. Các đoạn trích Truyện Kiều đều chứa đựng rất nhiều vấn đề cần được khám phá ......................................................................................................... 36 2.2.1. Nội dung trong các đoạn trích là tiến đề cho xây dựng câu hỏi nêu vấn đề ....................................................................................................... 36 2.2.2. Những tư tưởng, quan điểm của Nguyễn Du trong các đoạn trích cũng là tiền đề cho việc xây dựng câu hỏi ................................................ 38 2.2.3. Sự sáng tạo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Du là vấn đề hoàn toàn mới để học sinh khám phá ................................................................ 41 2.3. Các bước chuẩn bị cho việc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học các đoạn trích Truyện Kiều ............................................................................. 50 2.3.1. Phát hiện vấn đề, tình huống có vấn đề thiết kế giáo án là khâu đầu tiên trong quá trình xây dựng câu hỏi nêu vấn đề ..................................... 50 2.3.2. Xây dựng tình huống có vấn đề, hoạt động mang tính tiền giả định để xây dựng câu hỏi nêu vấn đề cho phù hợp ................................................ 51 2.3.3. Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề .......................................... 53 2.4. Điều kiện để vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học các đoạn trích Truyện Kiều..................................................................................................... 55 2.4.1. Tạo tâm thế, môi trường học tập cho học sinh và đưa ra câu hỏi .... 55 2.4.2. Đổi mới vai trò, đề cao tính tích cực của người học, tạo không khí dân chủ trong giờ học ............................................................................... 57 iv 2.4.3. Sử dụng linh hoạt câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học ....................... 58 Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM ....................................................................... 59 3.1. Khái quát về thực nghiệm ........................................................................ 59 3.1.1 Mục đích thực nghiệm ..................................................................... 59 3.1.2. Nội dung thực nghiệm .................................................................... 59 3.1.3. Phương pháp thực nghiệm .............................................................. 59 3.1.4. Đối tượng thực nghiệm và đối chứng ............................................. 60 3.1.5. Chuẩn bị công việc thực nghiệm .................................................... 60 3.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm ................................................................... 61 3.2.1. Tiết 27 “ Chị em Thúy Kiều” ......................................................... 61 3.2.2. Tiết 36 “ Kiều ở lầu ngưng bích” .................................................... 66 3.3. Thuyết minh hệ thống câu hỏi trong bài thực nghiệm ............................. 74 3.4. Kết quả thực nghiệm và đánh giá............................................................. 80 3.4.1. Đánh giá khả năng tiếp thu bài của học sinh bằng bài kiểm tra ....... 80 3.4.2. Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề bằng phương pháp quan sát ........................................................................................... 82 3.4.3. Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề bằng phương pháp phỏng vấn ........................................................................................ 84 3.5. Thành công và hạn chế của thực nghiệm ................................................. 85 3.5.1 Những thành công của thực nghiệm ................................................ 85 3.5.2. Những vấn đề còn hạn chế .............................................................. 86 3.6. Một số điểm cần lưu ý khi sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học ... 87 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 94 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 96 v MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hiện nay phương pháp giảng dạy tích cực theo quan điểm “Lấy học sinh làm trung tâm” của quá trình dạy học đã được đưa vào ứng dụng trong hoạt động dạy học nói chung, trong giờ giảng văn nói riêng. Để phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động học tập thì người giáo viên có nhiệm vụ tổ chức chỉ đạo hoạt động của trò, trò phải là chủ thể tự giác tích cực trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Để thực hiện được mục tiêu đó, đặt câu hỏi có ý nghĩa tăng cường tính tích cực chủ động của học sinh, chống lại thói quen thụ động trong giờ học. Câu hỏi chính là phương tiện cho học sinh tự học để giáo viên dẫn dắt học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Trên thực tế đứng lớp, sau khi đi dự giờ góp ý tiết dạy, chúng tôi nhận thấy việc đặt câu hỏi để khai thác kiến thức là vấn đề vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, nhận thức cũng như cách xây dựng và sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học của giáo viên còn rất nhiều hạn chế và bất cập. Có những tiết dạy giáo viên đặt câu hỏi rất nhiều, câu hỏi nào học sinh cũng trả lời được, vì những câu hỏi đó học sinh chỉ cần nhìn vào sách giáo khoa đọc lên, không cần suy luận. Có những tiết dạy giáo viên chỉ sử dụng những câu hỏi ở trong sách giáo viên và ở phần câu hỏi đọc - hiểu văn bản, như vậy thì khả năng phân tích, tìm hiểu, nêu suy nghĩ của các em sẽ không có, dẫn tới tình trạng khi viết văn lời văn khô khan chỉ biết sao chép theo khuôn mẫu không sáng tạo. Lại có những tiết giáo viên liên tục đặt nhiều câu hỏi không học sinh nào trả lời được, không khí lớp học nặng nề nhưng giáo viên không gợi ý, không thay đổi câu hỏi mà lại đọc lại câu hỏi đó, hỏi như vậy học sinh trả lời không hướng vào câu hỏi cũng như kiến thức bài học. Có khi giáo viên gặp đâu hỏi đó, hỏi vụn vặt, hỏi “tấn công” học sinh đến khi nào không trả lời được mới thôi. Chính những câu hỏi như vậy khiến cho học sinh không hứng thú học mà lo sợ khi giáo viên đặt câu hỏi. 1 Ở đề tài này, chúng tôi quan tâm tới việc giảng dạy các đoạn trích Truyện Kiều ở lớp 9 THCS bởi đây là một trong những kiệt tác của văn học nước nhà và chiếm một vị trí không nhỏ trong chương trình. Nhưng hiện nay việc dạy và học Truyện Kiều đang gặp nhiều khó khăn do cách biệt về hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, quan niệm giữa các thời đại khác nhau. Bên cạnh đó, tình trạng thầy đọc trò chép, thầy giảng trò nghe là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh không hứng thú trong giờ học. Để khơi dậy ở các em hứng thú và sự chủ động, tích cực, câu hỏi chính là phương tiện, là sự lựa chọn tối ưu của giáo viên. Hiện nay có rất nhiều hệ thống câu hỏi khác nhau được giáo viên sử dụng trong giờ học văn: câu hỏi tái hiện, câu hỏi gợi tìm, câu hỏi so sánh,… Vấn đề đặt ra ở đây là hệ thống câu hỏi nào giúp học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo trong giờ học các đoạn trích Truyện Kiều? Với những yêu cầu và mục tiêu như trên, chúng tôi quan tâm tới hệ thống câu hỏi nêu vấn đề vì câu hỏi nêu vấn đề bao giờ cũng nhằm kích thích sự suy nghĩ tìm tòi của học sinh, buộc các em phải vận dụng những thao tác tư duy khác nhau, phải giải thích, chứng minh, tự kết luận. Rõ ràng Đây là dạng câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực và hoạt động tư duy, tính năng động trí tuệ cho học sinh qua giờ học. Tuy nhiên, đặt câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học các đoạn trích Truyện Kiều chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập tới, đây còn là một “mảnh đất trống” cần được khám phá. Việc xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong giờ dạy các đoạn trích Truyện Kiều đang trở thành đòi hỏi bức thiết ở nhà trường phổ thông. Vì vậy Thông qua đề tài của mình, chúng tôi sẽ xác lập một hệ thống khoa học về việc đặt câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học và áp dụng lý thuyết đó vào việc “Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học tác phẩm Truyện Kiều ở lớp 9 trung học cơ sở” nhằm nâng cao hiệu quả giờ học tác phẩm Truyện Kiều ở lớp 9 THCS. 2 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Nghiên cứu vấn đề đặt câu hỏi trong dạy học không còn là vấn đề mới trên thế giới. Ngay từ những năm trước Công nguyên vấn đề này đã gắn liền với tên tuổi của nhà triết học Socrát (470 - 390 TCN). Khổng Tử (551 - 479 TCN) cho rằng khi dạy học là đưa người học vào tình huống mâu thuẫn, tức là đặt ra cho họ những câu hỏi bẫy để kích thích cho người học. Ở Liên Xô, các tài liệu đề cập đến phương pháp xây dựng và sử dụng câu hỏi trong dạy học của các tác giả như: P.B. Gophman, O.Karlinxki, B.P.Exipop, M.A.Danilop, N.M.Veczilin. Cũng đi sâu vào nghiên cứu và vấn đề này còn có một số nhà giáo dục như: Skinner (Mỹ), Okon (Ba Lan)... Gần đây đáng chú ý có công trình Đặt câu hỏi có hiệu quả cao (HEO) cách thức giúp học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động học tập của Ivan Hanel. Bàn về hệ thống câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa, V. A. Kôvalép cho rằng: Mỗi chương sách giáo khoa được kết thúc bằng một hệ thống câu hỏi và bài tập. Hệ thống câu hỏi và bài tập này sẽ giúp cho các bạn học sinh phân tích sâu hơn tác phẩm, hiểu thấu đáo những nội dung trong các phần của sách giáo khoa… Làm những câu hỏi và bài tập này bạn sẽ nắm được tri thức một cách hệ thống. Những câu hỏi và bài tập này được sắp xếp một cách có thứ tự. Mỗi câu hỏi mới lại phức tạp hơn, vì nó đều có lôgíc bắt nguồn từ các bài tập và câu hỏi trước đó. Qua ý kiến trên, V. A. Kôvalép chú ý tới hệ thống câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa với mục đích, yêu cầu, tác dụng và đặc điểm của nó. Khẳng định vai trò, tầm quan trọng của hệ thống câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa văn học, tác giả A.C.Acbaseva quan niệm: Những câu hỏi, bài tập xếp đặt trong sách giáo khoa văn học có thể góp phần kích thích và phát triển tình cảm, đạo đức của học sinh; hình thành phương pháp lịch sử văn học đối với các tác phẩm nghệ thuật; giúp đỡ học sinh phát triển và làm phong phú lời nói. Ở nước ta, các tài liệu nghiên cứu riêng về vấn đề câu hỏi và bài tập nhìn chung còn ít. vấn đề nghiên cứu phương pháp xây dựng câu hỏi trong 3 dạy học môn văn được đề cập trong một số công trình như: Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường (2009) của Nguyễn Viết Chữ. Trong công trình này, tác giả đề cập đến các loại câu hỏi trong dạy học các thể loại như: tự sự, trữ tình, dân gian. Tác giả cũng phân loại hệ thống câu hỏi cảm xúc vật chất, câu hỏi nội dung, câu hỏi tưởng tượng, sáng tạo. Trong cuốn Phương pháp dạy học Văn của Phan Trọng Luận (Chủ biên), tác giả đề cập tới đặc điểm, vai trò và nguyên tắc của việc xây dựng hệ thống câu hỏi gắn với phương pháp dạy học. Tác giả bàn nhiều đến tiêu chí câu hỏi nêu vấn đề và, điều đó có đóng góp đáng kể, làm phong phú thêm cho đề tài nghiên cứu. Khi tiến hành biên soạn sách giáo khoa cải cách, nói về Phương hướng biên soạn sách giáo khoa cải cách lớp 10, Nguyễn Lộc đã đề cập đến vấn đề câu hỏi và bài tập:Tuyệt đối tránh những câu hỏi mà học sinh không cần nghiên cứu văn bản cũng có thể trả lời được đại khái, hay những câu hỏi chỉ chú trọng mặt đạo đức xã hội của tác phẩm mà hoàn toàn coi nhẹ giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Phải nghiên cứu thật kỹ các văn bản giảng văn để nêu lên những câu hỏi cụ thể, gợi mở để học sinh có thể trả lời từng bước từ chi tiết đến khái quát. Bám sát câu hỏi, học sinh tự mình phát hiện ra cái hay, cái đẹp của văn bản. Ý kiến trên đã thể hiện quan niệm về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa Văn học kể cả nội dung khoa học cũng như phương pháp sư phạm. Trong cuốn “Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương”, tác giả Nguyễn Trọng Hoàn đã đi sâu vào trình bày những biện pháp nhằm rèn luyện tư duy cho học sinh. Tác giả có phân loại các loại câu hỏi trong dạy học Văn. Theo tác giả, “Việc đặt câu hỏi đối với học sinh trong quá trình tiếp nhận văn học có ý nghĩa làm thay đổi tình thái của giờ học, hay nói cách khác là mở tình huống “có vấn đề”, xác định tâm thế thực tại và đặt học sinh vào các yêu cầu của việc nhận thức” 4 Như vậy, theo tác giả, hệ thống câu hỏi và bài tập trong giờ học Văn có ý nghĩa tạo ra các tình huống có vấn đề cho học sinh tìm hiểu và giúp học sinh tiếp nhận bài học một cách tích cực. Đi vào cụ thể hơn về vấn đề câu hỏi trong dạy học Văn là bài viết “Câu hỏi trong giảng văn” của Trương Dĩnh. Tác giả đã phân tích khái niệm vấn đề, vấn đề trong học tập và vấn đề trong phân tích văn học. Theo ông, để diễn đạt vấn đề hay đề ra nó, người ta dùng hình thức đặt câu hỏi. Nội dung vấn đề và câu hỏi nêu vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đặt ra được các vấn đề dưới dạng câu hỏi là một nghệ thuật của lao động sáng tạo trong phân tích nêu vấn đề. Cùng với nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học, trường Đại học Giáo dục đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo đề cập vấn đề dạy học với câu hỏi hiệu quả. Hội thảo đã cung cấp nhiều bài nghiên cứu có giá trị về vấn đề này cũng như đưa ra những tiêu chí đánh giá câu hỏi có hiệu quả. Trên đây là một số khái quát về vai trò của câu hỏi và trong dạy học văn qua một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. Từ việc nghiên cứu trên có thể thấy việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong giờ dạy học văn là vấn đề không mới. Nhưng các công trình chỉ dừng lại ở việc lý luận về câu hỏi. Còn việc xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề cho việc dạy và học các trích đoạn Truyện Kiều ở lớp 9 THHCS thì chưa có công trình hay bài viết nào. Đây là một vấn đề hoàn toàn mới mà đề tài của chúng tôi quan tâm. 3. Mục đích nghiên cứu Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong các đoạn trích của Truyện Kiều ở lớp 9 THCS. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc đặt câu hỏi nêu vấn đề. - Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề cho hai đoạn trích “ Truyện Kiều”ở lớp 9. 5. Đối tƣợng và khách thể và nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học tác phẩm Truyện kiều ở lớp 9. 5 5.2. Khách thể nghiên cứu Quá trình dạy học tác phẩm Truyện Kiều ở lóp 9 Trung Học Cơ Sở. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau. 6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận - Nghiên cứu tài liệu lý luận có liên quan đến cơ sở phương pháp luận, cơ sở lý luận của câu hỏi nêu vấn đề. - Đọc và phân tích các bài viết trên các tập có chuyên ngành và các luận án, báo cáo khoa học, các tư liệu giáo trình… có liên quan tới đề tài. Từ đó tổng hợp rút ra các kết luận cần thiết phục vụ cho tiến trình nghiên cứu. 6.2. Phương pháp điều tra - Thu thập những thông tin về việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề. - Thu thập những thông tin ngược của học sinh về việc học tác phẩm “ Truyện Kiều”. 6.3. Thực nghiệm sư phạm Vận dụng câu hỏi nêu vấn đề để dạy ba trích đoạn “Truyện Kiều” ở lớp 9. 6.4. Phương pháp thống kê toán học Sử dụng một số phương pháp như lập bảng, vẽ đồ thị, thống kê, kiểm định để đánh giá kết quả thực nghiệm. Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo luận văn dự kiến được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn Chương 2: Vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học các đoạn trích Truyện Kiều Chương 3: Thực nghiệm 6 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm câu hỏi nêu vấn đề Trong nhiều trường hợp khi đã xác định được vấn đề, nhờ câu hỏi nêu vấn đề mà giáo viên tạo được tình huống có vấn đề, tức là xác định được cái chưa biết, cuốn hút sự quan tâm của học sinh và tiên lượng trước khả năng giải quyết vấn đề của các em. P.G.S Vũ Nho quan niệm: Câu hỏi nêu vấn đề không nhằm mục đích tái hiện kiến thức cũng không nhằm khơi gợi sự tự biểu hiện của học sinh khi đánh giá chi tiết hay toàn bộ các tác phẩm văn học. Câu hỏi nêu vấn đề phải làm rõ được vấn đề tiềm ẩn trong tác phẩm, phải gây hứng thú nhận thức cho học sinh, phải động viên, khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề đã nêu. Câu hỏi nêu vấn đề phải làm rõ hoặc đặt ra được vấn đề, đưa người nghe và tình huống có vấn đề. Tính chất khái quát, tính chất phức tạp, tính chất hệ thống và tính chất phù hợp với tác phẩm là đặc điểm của câu hỏi nêu vấn đề. Trong cuốn “ Phương pháp dạy học văn” G.S Phan Trọng Luận cho rằng: câu hỏi nêu vấn đề là loại câu hỏi đặt ra cho chủ thể học sinh và được học sinh tiếp nhận một cách có ý thức, không phải từ ngoài dội vào mà là do nhu cầu khám phá tìm hiểu của bản thân và chính học sinh cũng đã có một số dữ kiện (tri thức kinh nghiệm kĩ năng) song không thể tìm được lời giải cũ bằng chính những hiểu biết cũ và theo phương thức hành động cũ Trong đề tài, chúng tôi quan niệm “ câu hỏi nêu vấn đề là hệ thống cấu trúc ngôn ngữ để diễn đạt một yêu cầu, đòi hỏi, một mệnh lệnh mà người học cần giải quyết, được xác lập dựa trên những vấn đề đặt ra trong tác phẩm 7 nhằm yêu cầu học sinh vận dụng cái đã biết, cái đã cho làm phương tiện để học sinh chủ động, tích cực giải quyết những yêu cầu đặt ra trong giờ học văn. 1.1.2. Đặc điểm và nguyên tắc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề 1.1.2.1. Đặc điểm của câu hỏi nêu vấn đề Câu hỏi nêu vấn đề là mắt xích cuối cùng nhưng quyết định sự thành bại của toàn bộ việc tổ chức tình huống có vấn đề. Việc xây dựng tình huống có vân đề kết thúc ở chỗ vấn đề được nêu lên dưới hình thức câu hỏi nêu vấn đề. Câu hỏi nêu vấn đề có những đặc điểm sau: Thứ nhất, Câu hỏi nêu vấn đề mang bản chất sáng tạo. Những câu hỏi có tính chất tái hiện chỉ đòi hỏi sự nhớ lại kiến thức cũ đã biết, yêu cầu chủ yếu trí nhớ của học sinh mà không động viên sự tìm tòi của các em. Còn câu hỏi nêu vấn đề về bản chất, nó mang tính chất sáng tạo, mang tính ý thức của chủ thể khi tiếp nhận. Chẳng hạn câu hỏi tái hiện: Hình ảnh bà cô trong đoạn trích “ Trong lòng mẹ” hiện lên như thế nào? Câu hỏi nêu vấn đề: tại sao nói bà cô là hiện thân của những hủ tục, thành kiến xã hội ? Những câu hỏi trên đây chưa phải đã mang đầy đủ bản chất và đặc điểm của câu hỏi nêu vấn đề, song rõ ràng nó yêu cầu học sinh phải huy động tối đa kiến thức đã có dựa vào đó để lý giải theo cách mà học sinh tìm tòi, sáng tạo để tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Thứ hai, câu hỏi nêu vấn đề thường chứa đựng một mâu thuẫn nhận thức. Câu hỏi nêu vấn đề đặt học sinh trước những mâu thuẫn về cái chưa biết và cái đã biết, cái thông thường – cái bất thường, cái cũ – cái mới…Mâu thuẫn đó làm nảy sinh nhu cầu nhận thức của học sinh. Chẳng hạn: Dế Mèn cúi đầu khóc tức tưởi bên cạnh một Dế choắt bé nhỏ yếu đuối có phải mâu thuẫn với một Dế mèn hống hách, kiêu ngạo ở trên không? 8 Câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải nhớ lại hành động trước kia của Dế Mèn chê bai Dế Choắt, cà khịa với hàng xóm và hành động hiện tại của Dế Mèn khóc thương Dế choắt ( đây là cái đã biết mà học sinh cần huy động, nhớ lại). Từ đó học sinh phải lý giải động cơ nào dẫn đến sự thay đổi đột ngột trong tính cách của Dế Mèn ( Đây là cái chưa biết mà học sinh cần tìm tòi và lý giải). Thứ ba, câu hỏi nêu vấn đề thường phản ánh được tâm trạng ngạc nhiên của học sinh khi nhận ra mâu thuẫn nhận thức, khi đụng chạm tới vấn đề. Chẳng hạn, trong bài thơ “ Ông đồ” ( Ngữ văn 8) của Vũ Đình Liên có chi tiết:“ lá vàng rơi trên giấy” câu hỏi là: vì sao giữa mùa xuân nở rực hoa đào lại có lá vàng rơi? Chi tiết lá vàng rơi giữa mùa xuân làm xao xác cõi lòng thi nhân, làm rung động bao người đọc. Đó là câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất bài thơ, miêu tả mà biểu cảm, ngoại cảm mà kỳ thực là tâm cảnh. Lá vàng rơi gợi sự tàn tạ buồn bã mà ở đây lại là rơi trên giấy, những tờ giấy dành viết câu đố của ông đồ. Vì ông ế nên tờ giấy cứ phơi ra đấy hứng lá vàng rơi cũng bỏ mặc ....... phải chăng đó là chiếc lá cuối cùng của rừng Nho đứt cuống lìa cành? 1.1.2.2. Nguyên tắc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề Để xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề, nguyên tắc đầu tiên người dạy phải căn cứ vào đối tượng học sinh, xác định được mục tiêu, nội dung cụ thể trong mỗi giờ học. Trước khi xây dựng câu hỏi giáo viên phải căn cứ vào đối tượng học sinh. Với sự thay đổi cơ chế trong dạy học văn đó là đề cao nhân cách, năng lực học sinh, tôn trọng bản lĩnh học sinh và tạo điều kiện để học sinh hình thành tư duy sáng tạo. Câu hỏi nêu vấn đề vì thế phải tập trung vào những đặc điểm then chốt, quan tâm đến đối tượng tiếp nhận . Cần chú ý vào đối học sinh đã có những năng lực trình độ nào? Học sinh có khả năng liên tưởng, tái hiện, so sánh liên hệ, phân tích, khái quát hóa, phản ứng trước độ khó, hứng 9 thú khi tiếp nhận ở mức độ nào…..Giáo viên phải là người “nhập vai” học sinh để trên cơ sở đó xây dựng câu hỏi cho phù hợp với tâm lý tiếp nhận, tránh những câu hỏi quá dễ hoặc quá khó. Bước tiếp theo là xác định mục tiêu: hình thành kiến thức, tư duy, kĩ năng, giáo dục tình cảm, tư tưởng…cho học sinh. Với yêu cầu của một giờ học cụ thể và đặc trưng môn học, lượng kiến thức, kĩ năng nào cần hình thành, giáo viên cần biết để đặt ra kế hoạch một cách chi tiết, cụ thể. Câu hỏi sẽ có tính định hướng và tập trung cho mục tiêu. Nguyên tắc thứ hai, câu hỏi phải gắn với vấn đề và tình huống có vấn đề. Đây là nguyên tắc đặc thù của việc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề. Bản thân tác phẩm tồn tại như một chỉnh thể thống nhất của nội dung, hình thức, tư tưởng. Không thể bỏ qua những chi tiết ngệ thuật có hàm lượng nghệ thuật cao, đó là đỉnh cảm xúc, điểm sáng nghệ thuật của tác phẩm. Ở những chi tiết đó, tập trung bút lực của người sáng tạo, là cửa sổ tư tưởng, tình cảm của tác phẩm, tác giả và là nơi hội tụ của những dấu hiệu bản chất nghệ thuật tác phẩm. Đó là những vùng, những điểm hội tụ của những hình thức mâu thuẫn nghệ thuật, của những xung đột thẩm mĩ, cái làm nên vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt của từng tác phẩm. Nơi đó là địa chỉ thách thức khả năng tiếp nhận của học sinh, là một trong những cơ hội để bạn đọc chiếm lĩnh tác phẩm và đó còn là ngọn nguồn cảm xúc của người đọc. Vì vậy, câu hỏi phải làm rõ các vấn đề về đặc trưng thể loại, thi pháp của tác phẩm và vấn đề tư tưởng của tác phẩm. Trước yêu cầu đó, công việc đầu tiên của giáo viên khi tổ chức học sinh tiếp nhận giá trị tác phẩm là phải thâm nhập, khám phá với ý thức tìm kiếm, xác định được mâu thuẫn đặc thù của tác phẩm văn học và của hoạt động dạy học. Mâu thuẫn đặc thù của chúng thể hiện qua mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức tác phẩm; mâu thuẫn giữa tác phẩm và yêu cầu tiếp nhận văn học với vốn tri thức hiện có của học sinh; mâu thuẫn giữa độc giả - người có nhiệm vụ phân tích, đánh giá tác phẩm với nhau… 10 Như vậy, câu hỏi nêu vấn đề phải dựa trên những “ vấn đề” đó để tạo ra tình huống có vấn đề. Có như vậy câu hỏi mới phát huy được tính chủ động tích cực và phát triển tiềm năng sáng tạo trong hoạt động tiếp nhận tác phẩm văn chương ở học sinh. Chẳng hạn trong giờ học đoạn trích “ Mã Giám Sinh mua Kiều”, giáo viên đặt câu hỏi : Nếu như lúc đến Mã vội vàng“ ghế trên ngồi tót” thì lúc mua Kiều hắn lại hết sức chậm rãi tính toán chi li. Lúc đầu hắn nói năng cộc lốc, bây giờ hắn lại dùng lời hoa mĩ giọng điệu lời lẽ này có gì mâu thuẫn với cử chỉ lời nói ở trước đó? Câu hỏi có sự mâu thuẫn giữa hai hành động của họ Mã. Đây là điều học sinh đã biết, vấn đề là tìm cách lý giải cho sự mâu thuẫn đó. Ở đây, không hề có sự mâu thuẫn từ đầu đến cuối hắn vẫn là kẻ vô học hợm hĩnh của kẻ giả dối bất nhân. Lúc đầu hắn “ ngồi tót sỗ sàng” là vì hắn nghĩ hắn có tiền chẳng coi ai ra gì, còn lúc mua bán mặc cả hắn dùng những lời lẽ hoa mĩ để đặt câu hỏi giá hàng “ đắn đo”, “cò kè”, “ thêm”, “bớt”... mục đích hạ giá hàng xuống thấp nhất để làm sao có lợi nhất, hắn lạnh lùng vô cảm trước cảnh ngộ của Thúy Kiều-> Bản chất con buôn xảo quyệt của hắn, bản chất của một kẻ bất nhân mua bán người lọc lõi của hắn được bộc lộ thật rõ. Nguyên tắc thứ ba, câu hỏi phải mang tính hệ thống, liên tục. Vấn đề trong tác phẩm có thể có nhiều. Nhưng nó phụ thuộc vào khả năng phát hiện của người giáo viên và sự nhạy cảm, thiên hướng thẩm mĩ của người đó nữa. Chẳng hạn trong tác phẩm Mỵ Châu – Trọng Thủy giáo viên có thể nêu lên ba vấn đề : 1. Trách nhiệm giữ gìn bí mật quốc gia 2. Tình yêu và nghĩa vụ 3. Tinh thần nhân đạo và bao dung của nhân dân Vấn đề 1, 2, 3 đều có khả năng đi sâu phân tích. Giáo viên có thể đi kĩ vấn đề 1, vấn đề 2, vấn đề 3. Nhưng dù thế nào cả ba vấn đề cũng phải tập 11 trung vào câu chuyện vừa có sự cảnh giác vừa có tình yêu và sự bao dung, độ lượng của nhân dân. Chính sự đan xen các vấn đề làm cho người giáo viên phải biết cách sắp xếp, tiết chế câu hỏi sao cho không quá sa vào vụn vặt, chi tiết, tránh sự rời rạc hay chồng chéo. Những điều này thường làm cho học sinh bị phân tâm hoặc chán nản. Nguyên tắc thứ tư, câu hỏi nêu vấn đề phải đặt trong mối tương quan với các phương pháp khác. Mỗi phương pháp lại sử dụng một hệ thống câu hỏi riêng. Trong một giờ học nói chung, giờ giảng văn nói riêng không có phương pháp nào là tuyệt đối, cũng như không có hệ thống câu hỏi nào là duy nhất. Phương pháp đọc sáng tạo là bước đầu tiên và tất yếu cho việc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề. Không thể nào dạy và học mà không đọc tác phẩm vì chỉ có đọc mới thâm nhập vào thế giới nội dung nghệ thuật tác phẩm, mới phát hiện và khai thác vấn đề. Phương pháp tái hiện hỗ trợ đắc lực cho việc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề. Phương pháp này sử dụng các câu hỏi tái hiện, trên cơ sở đó mới hình thành mâu thuẫn cái đã biết – cái chưa biết. Đây chính là tiền đề cho sự xuất hiện của cái mới. Phải có sự tái hiện cảnh ra về của chị em Thúy Kiều: vùng cỏ áy bóng tà, nao nao dòng nước, dàu dàu ngọn cỏ, mới có câu hỏi “ tại sao khi chàng Kim xuất hiện cảnh vật lại mở ra “một vùng như thể cây quỳnh cây dao”…Rõ ràng mỗi phương pháp lại có một đặc điểm, vai trò riêng. Vì vậy không thể tuyệt đối hóa hay cô lập hóa một phương pháp cũng như một hệ thống câu hỏi. Nếu quá lạm dụng không khí lớp học sẽ nặng nề, bài văn sẽ bị cắt vụn. Điều đó chứng tỏ, rất cần sự kết hợp linh hoạt hợp lý giữa hệ thống câu hỏi nêu vấn đề với các phương pháp khác. Để thực hiện được nguyên tắc này, giáo viên cần biết xây dựng bao nhiêu câu hỏi là vừa đủ, dung lượng kiến thức, đặt câu hỏi đúng lúc, đúng chỗ khi có điều kiện cho phép. 12 1.1.3. Vai trò của câu hỏi nêu vấn đề 1.1.3.1. Câu hỏi nêu vấn đề phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh Khác với câu hỏi tái hiện, câu hỏi nêu vấn đề không lấy phương thức truyền thụ là chính mà chủ yếu tổ chức cho học sinh tìm tòi phát hiện. Trong quá trình tiếp cận và chấp nhận nhiệm vụ học tập thông qua câu hỏi nêu vấn đề, ở học sinh diễn ra một quá trình biến động, biến đổi về trạng thái tâm lý và tâm thế hoạt động tiếp nhận văn học: những khó khăn về nhận thức do câu hỏi nêu vấn đề đưa tới chuyển hóa thành hứng thú và cảm xúc học tập ở người học. Khi tiếp nhận tác phẩm, học sinh cũng là một bạn đọc nên vẫn có những suy nghĩ riêng, độc lập của mình. Mỗi học sinh là một cách hiểu khác nhau, nên câu hỏi nêu vấn đề sẽ tạo cho mỗi học sinh một tâm thế hiểu của riêng mình. Hoạt động suy nghĩ và trả lời những câu hỏi giáo viên đưa ra thoả mãn sự tiếp cận và khám phá đó. Nhiều ý kiến xuất phát từ thực tế đã thừa nhận ở học sinh ít tuổi vẫn có thể tinh nhạy trong cảm xúc thẩm mỹ và sáng suốt trong ý nghĩa tác phẩm văn học. Với năng lực ấy, học sinh xứng đáng là người đọc bình đẳng để đối thoại với tác giả, với tác phẩm, với giáo viên và những người cùng thời về những gì chứa trong tác phẩm và được tác phẩm văn học khơi gợi ra. Bằng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề để học sinh tiếp xúc trực tiếp, được khám phá và được thưởng thức “chất văn”, nghĩa là được thể nghiệm, nếm trải và hiểu sâu thêm những việc đời, việc người, việc mình chân thực sẽ phát huy chủ thể sáng tạo tích cực trong dạy văn. 1.1.3.2. Câu hỏi là phương tiện để giáo viên thực hiện nhiệm vụ, vai trò của mình trong giờ dạy tác phẩm văn chương Đặt câu hỏi giúp giáo viên đánh giá được năng lực của học sinh. Mặt khác, thông tin phản hồi từ phía người học giúp giáo viên có những điều 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan